Đặc điểm và giá trị tự nhiên của công viên địa chất non nước Cao Bằng

Non nước Cao Bằng là Công viên địa chất (CVĐC) toàn cầu thứ hai của Việt Nam, trải rộng

trên 9 huyện của tỉnh Cao Bằng. Đây là khu vực có lịch sử phát triển trên 500 triệu năm với nhiều nét độc

đáo về tự nhiên, đặc biệt là các giá trị về địa chất. Công viên có địa hình phân hoá rất phức tạp, đa dạng, có

khí hậu mang tính chất miền núi, có hệ sinh vật – thổ nhưỡng đa dạng Đây là những thế mạnh tự nhiên

hết sức quan trọng mà Cao Bằng cần khai thác trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương

Đặc điểm và giá trị tự nhiên của công viên địa chất non nước Cao Bằng trang 1

Trang 1

Đặc điểm và giá trị tự nhiên của công viên địa chất non nước Cao Bằng trang 2

Trang 2

Đặc điểm và giá trị tự nhiên của công viên địa chất non nước Cao Bằng trang 3

Trang 3

Đặc điểm và giá trị tự nhiên của công viên địa chất non nước Cao Bằng trang 4

Trang 4

Đặc điểm và giá trị tự nhiên của công viên địa chất non nước Cao Bằng trang 5

Trang 5

Đặc điểm và giá trị tự nhiên của công viên địa chất non nước Cao Bằng trang 6

Trang 6

Đặc điểm và giá trị tự nhiên của công viên địa chất non nước Cao Bằng trang 7

Trang 7

Đặc điểm và giá trị tự nhiên của công viên địa chất non nước Cao Bằng trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 9960
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm và giá trị tự nhiên của công viên địa chất non nước Cao Bằng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm và giá trị tự nhiên của công viên địa chất non nước Cao Bằng

Đặc điểm và giá trị tự nhiên của công viên địa chất non nước Cao Bằng
10 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
ĐẶC ĐIỂM VÀ GIÁ TRỊ TỰ NHIÊN 
 CỦA CÔNG VIÊN ĐỊA CHẤT NON NƯỚC CAO BẰNG
Hoàng Quốc Dũng 
Khoa Ngữ văn - KHXH 
Email: dunghq@dhhp.edu.vn
Ngày nhận bài: 25/5/2020
Ngày PB đánh giá: 26/6/2020
Ngày duyệt đăng: 03/7/2020
TÓM TẮT: Non nước Cao Bằng là Công viên địa chất (CVĐC) toàn cầu thứ hai của Việt Nam, trải rộng 
trên 9 huyện của tỉnh Cao Bằng. Đây là khu vực có lịch sử phát triển trên 500 triệu năm với nhiều nét độc 
đáo về tự nhiên, đặc biệt là các giá trị về địa chất. Công viên có địa hình phân hoá rất phức tạp, đa dạng, có 
khí hậu mang tính chất miền núi, có hệ sinh vật – thổ nhưỡng đa dạng Đây là những thế mạnh tự nhiên 
hết sức quan trọng mà Cao Bằng cần khai thác trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Từ khoá: Công viên địa chất Non nước Cao Bằng, Địa lí tự nhiên
CHARACTERISTICS AND NATURAL VALUES OF NON NUOC CAO BANG GEOPARK
ABTRACT: Non nuoc Cao Bang is the second global Geopark in Vietnam, spread over 9 districts of 
Cao Bang province. This is an area having a history of over 500 million years of development with 
many unique natural features, especially geological values. The park has various and complex terrain, 
continental mountainous climate and diverse biological - soil systems... These are very important 
natural strengths that Cao Bang needs to exploit in local socio-economic development.
Keywords: Non nuoc Cao Bang Geopark; Geography
1. MỞ ĐẦU
Cao Bằng là một trong những địa phương 
có lịch sử phát triển lâu dài và phức tạp trên 
500 triệu năm. Quá trình đó được phản ánh 
qua các trầm tích phát triển có tuổi từ Cổ 
sinh đến Tân sinh. Chính sự phát triển lâu 
dài đó đã tạo nên những đặc điểm độc đáo 
và những giá trị địa chất ngoại hạng cho tỉnh 
Cao Bằng. Đây là khu vực có nhiều điểm di 
sản địa chất độc đáo với các dạng địa hình, 
cảnh quan đá vôi hết sức đa dạng. 
Ngày 12 tháng 4 năm 2018, Công 
viên địa chất Non nước Cao Bằng chính 
thức được UNESCO công nhận là công 
viên địa chất toàn cầu. Đây là công viên 
địa chất toàn cầu thứ hai tại Việt Nam sau 
Công viên địa chất Cao nguyên đá Đồng 
Văn tại Hà Giang. Việc được công nhận 
là Công viên địa chất vừa tạo nên những 
cơ hội mới nhưng đồng thời cũng tạo nên 
những thách thức cho tỉnh Cao Bằng trong 
việc bảo tồn và phát triển.
2. NỘI DUNG
Công viên Địa chất Non Nước Cao 
Bằng (CVĐCNNCB) với diện tích 3275 
km2, bao trùm phần lớn tỉnh, gồm 9 huyện 
là Hà Quảng, Trà Lĩnh, Quảng Uyên, Trùng 
Khánh, Hạ Lang, Phục Hòa và một phần 
diện tích các huyện Hòa An, Nguyên Bình 
và Thạch An. Đây là khu vực có những đặc 
trưng riêng về địa lí tự nhiên, đặc biệt là các 
di sản ngoại hạng về địa chất.
11TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 43, tháng 11 năm 2020
Bảng 1: Dân số, diện tích và mật độ dân các huyện trong CVĐCNNCB năm 2018 [1]
STT Huyện Diện tích 
(km2)
Dân số
(người)
Mật độ dân số
(người/km2)
Ghi chú
1 Hà Quảng 453,58 35.127 77,44
2 Trà Lĩnh 251,18 22.683 90,30
3 Trùng Khánh 468,38 51.289 109,50
4 Hạ Lang 456,52 26.128 57,23
5 Quảng Uyên 385,73 41.640 107,95
6 Phục Hòa 251,67 24.022 95,45
7 Hòa An 605,98 56.058 92,51 Ranh giới thuộc 
CVĐC chưa 
thống nhất
8 Nguyên Bình 837,96 41.767 49,84
9 Thạch An 690,98 32.288 46,73
Tổng 4401,98 331.002 75,19
(Nguồn: Cục Thống kê tỉnh Cao Bằng)
2.1. Đặc điểm và các giá trị về địa chất
Các nghiên cứu cho thấy Cao Bằng trải 
qua một lịch sử phát triển địa chất phức 
tạp, kéo dài đến hơn 500 triệu năm. Đến 
nay, các nhà khoa học đã phát hiện, đánh 
giá và đề xuất xếp hạng trên 130 điểm di 
sản địa chất độc đáo, với các dạng địa hình, 
cảnh quan đá vôi phong phú, đa dạng, như 
các tháp đá, nón, thung lũng, hang động, 
hệ thống sông hồ, hang ngầm[4] Thêm 
vào đó là rất nhiều kiểu, loại di sản địa 
chất khác như các hóa thạch cổ sinh, ranh 
giới giữa các phân vị địa chất, đứt gãy... 
Có thể nói, điều kiện địa chất là yếu tố cốt 
lõi tạo nên sự độc đáo và khác biệt của 
CVĐCNNCB, hàm chứa những giá trị 
về khoa học, văn hoá, thẩm mỹ và thu 
hút các nhà khoa học và du khách đến với 
vùng đất này. 
Các hệ tầng đá phản ánh một quá trình 
phát triển lâu dài từ thời kì Cổ sinh đến 
nay. Trong giai đoạn Cổ sinh, các trầm 
tích rất phát triển, gồm các hệ tầng là Thần 
Sa, Phú Ngữ, Phia Phương, Bắc Bun, Mia 
Lé, Đại Thị, Bản Páp, Tốc Tát, Bắc Sơn, 
Đồng Đăng [2] Các trầm tích chủ yếu 
của hệ tầng là: cát kết, cát kết thạch anh 
chứa vảy mica, bột kết xen cát kết, cát bột 
kết xen đá phiến sét than, đá phiến sét, 
đá vôi. Trong cổ sinh, cũng xảy ra sự bất 
chỉnh hợp Cambri thượng (hệ tầng Thần 
Sa) và trầm tích Devon hạ (loạt Sông Cầu) 
ở bờ phải sông Quây Sơn, xã Minh Long, 
huyện Hạ Lang.
Trong giai đoạn Trung sinh, các trầm 
tích phát triển hạn chế hơn, hình thành nên 
các hệ tầng Lạng Sơn, Hồng Ngài, Sông 
Hiến với các trầm tích cuội sạn kết, bột 
kết, cát kết. Ngoài ra, còn có đá phiến sét, 
tuf ryolit, đá phiến, đá vôi sét, đá vôi, đá 
vôi đolomit Trong Tân sinh, phần lớn là 
các trầm tích Neogen (N) hoặc Đệ Tứ (Q). 
Thành phần chủ yếu là các trầm tích đầm 
lầy, hồ gồm các dạng cuội kết, cát kết, 
bột kết xen sét kết, sạn, sỏi. Ngoài ra, mặt 
cắt Neogen chứa than tại thành phố Cao 
Bằng, thị trấn Nước Hai (huyện Hòa An).
Các địa tầng đá ở đây phản ánh quá 
trình hình thành và phát triển của vỏ Trái 
đất khu vực Miền Bắc Việt Nam. Nó phản 
12 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
ánh một quá trình chuyển biến từ vỏ đại 
dương sang vỏ lục địa với nhiều hệ tầng 
dày hàng ngàn mét. Tuy nhiên, quá trình 
này không phải liên tục mà diễn ra theo 
chu kì, biểu hiện ở sự xuất hiện của bất 
chỉnh hợp. Sự chuyển biến đó đặt cơ sở 
cho sự hình thành và phát triển của loài 
người trên lục địa. Ngoài ra, sự phát triển 
lâu dài đó cũng tạo nên nhiều loại khoáng 
sản cho Cao Bằng, điển hình như: chì, 
kẽm, thiếc, than đá
Hoạt động đứt gãy: Các hệ thống đứt 
gãy phát triển khá dày đặc song chủ yếu 
theo hai hướng là tây bắc - đông nam và 
đông bắc - ... ệc tạo thành từng vệt các loài cây ưa ẩm 
ven suối chỉ phát triển ở phía chân núi.
- Địa hình gò đồi: độ cao từ 120 – 
250m, diện tích khoảng 31.567 ha, tương 
ứng 4,71%, phân bố dọc theo thung lũng 
sông Bằng từ xã Sóc Hà, huyện Hà Quảng 
qua huyện Hoà An, thành phố Cao Bằng 
đến huyện Phục Hoà 
2.3. Khí hậu – sông ngòi
a. Khí hậu
Cao Bằng nói chung và khu vực CVĐC 
nói riêng có khí hậu tương đồng với các 
địa phương miền núi phía Bắc nước ta. Do 
tác động của vị trí địa lí, địa hình và hoàn 
lưu gió mùa, khí hậu ở đây mang tính chất 
lục địa miền núi cao. Khí hậu ở đây có 
những đặc điểm như: biên độ nhiệt năm 
khá cao, lượng mưa ít, phân bố không đều 
và trong năm, có hai mùa đông và hè rõ 
rệt. Những khu vực núi cao, khí hậu mang 
sắc thái cận nhiệt và ôn đới.
Nền nhiệt
Do ảnh hưởng của địa hình và hoàn 
lưu gió mùa đông bắc nên đại bộ phận 
lãnh thổ có nền nhiệt trung bình từ 20 – 
22,5°C. Ở những vùng thấp dưới 300m, 
chế độ nhiệt phân hóa ra hai mùa nóng 
và lạnh rõ rệt. Mùa nóng thường kéo dài 
5 tháng, từ tháng 5 đến tháng 9 với nền 
nhiệt không chênh lệch nhiều so với các 
tỉnh khác trong khu vực Đông Bắc, dao 
động từ 25- 27°C. Càng lên cao độ dài 
mùa nóng càng giảm, đến độ cao trên 
700m không còn mùa nóng nữa. Vào mùa 
đông, nền nhiệt hầu hết các tháng có nhiệt 
độ trung bình dưới 18°C, mang đặc trưng 
của vùng ôn đới và cận nhiệt. 
Yếu tố mưa
Do nằm khá xa biển nên lượng mưa 
trong CVĐC khá thấp, phổ biến là 1200 – 
14 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
1600 mm. Chế độ mưa chia làm hai mùa 
mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 
5, kéo dài 5 tháng và kết thúc vào cuối tháng 
9, chiếm 75- 90% tổng lượng hàng năm. Các 
tháng có lương mưa cao nhất là tháng 6, 7, 8 
có thể chiếm đến trên 50% tổng lượng năm. 
Mùa khô kéo dài khoảng 7 tháng, trong đó 
có khoảng 4 – 5 tháng khô (lượng mưa ≤ 
50mm/tháng), 1 – 2 tháng hạn (lượng mưa 
≤ 25mm/tháng). Tổng số ngày mưa cũng 
không nhiều, dao động trong khoảng 125 – 
150 ngày mưa/năm.
Hoàn lưu khí quyển
Hoàn lưu khí quyển trong khu vực khá 
phức tạp, nhưng có thể chia thành hai mùa 
chính: Gió mùa mùa đông có hướng đông 
bắc hoạt động từ tháng 11 đến tháng 4, 
có tính chất khô lạnh; gió mùa mùa hè có 
hướng đông nam hoạt động từ tháng 5 đến 
tháng 10, có tính chất nóng ẩm. Tuy nhiên, 
do ảnh hưởng của địa hình nên hướng gió 
của các địa phương cũng rất khác nhau. 
Bên cạnh đó, do ảnh hưởng mạnh của gió 
mùa đông bắc nên Cao Bằng có nhiều hiện 
tượng thời tiết cực đoan như: sương mù, 
sương muối, giông lốc, mưa đá
b. Sông ngòi
Trong phạm vi CVĐC Cao Bằng có 
hai hệ thống sông lớn. Ở phía tây là hệ 
thống sông Lô - Gâm (phụ lưu của sông 
Hồng), chiếm khoảng 40% tổng diện tích, 
chảy trong khu vực địa hình đồi núi trung 
bình cao từ 800 – 1000m. Phía đông là hệ 
thống Bằng Giang – Kỳ Cùng (phụ lưu 
của sông Tây Giang – Trung Quốc) chiếm 
khoảng 60% diện tích, chảy trong khu vực 
có nhiều địa hình đá vôi. Lưu vực của hai 
hệ thống sông này được phân cách với 
nhau bởi cánh cung Ngân Sơn. 
Chế độ thuỷ văn các sông trong khu 
vực có thể chia thành hai mùa lũ và mùa 
cạn rõ rệt. Mùa lũ bắt đầu tương đối đồng 
nhất về thời gian, thường bắt đầu vào 
tháng 6 và kết thúc vào tháng 10. Lượng 
nước trên các sông suối vào mùa lũ thường 
chiếm từ 65 – 80% lượng nước cả năm. 
Mùa cạn thường bắt đầu vào tháng 10, có 
năm muộn vào tháng 11 và kết thúc vào 
tháng 4, có năm muộn là tháng 5, 6 năm 
sau. Những tháng kiệt nhất thường rơi vào 
tháng 1 đến tháng 3.
Một số sông chính
Sông Bằng có diện tích lưu vực 4.500 
km2, trong đó phần diện tích trong nội tỉnh 
là 3.100 km2. Sông bắt nguồn từ Trung 
Quốc chảy theo hướng tây bắc – đông nam 
vào Cao Bằng, qua các huyện Hà Quảng, 
Hòa An, thành phố Cao Bằng, huyện Phục 
Hòa rồi lại nhập vào sông Tây Giang tại 
Long Châu ở độ cao 140m. Sông chảy qua 
địa phận tỉnh Cao Bằng có độ dài 90 km 
với 4 phụ lưu là sông Dẻ Rào, sông Hiến, 
sông Trà Lĩnh, sông Bắc Vọng. Do lưu vực 
nằm trong khu vực có nhiều địa hình đá vôi 
(chiếm trên 40% diện tích) nên mật độ lưới 
sông không lớn, trung bình khoảng 0,90 
km/km2. Độ dốc trung bình của sông là 
20%, lưu lượng nước trung bình 72,5 m3/s. 
Sông Quây Sơn bắt nguồn từ Trung 
Quốc, nằm chủ yếu ở vùng biên giới Việt – 
Trung. Sông chảy qua huyện Trùng Khánh 
và huyện Hạ Lang với chiều dài là 38 km. 
Tổng diện tích lưu vực sông đến cầu biên 
phòng là 1.160 km2, trong đó diện tích 
thuộc Việt Nam là 465km2 (tính cột mốc 
49). Trong tỉnh, sông chảy qua khu vực có 
địa hình cao nguyên đá vôi nên độ dốc lưu 
vực lớn. Sông có nhiều thác ghềnh, trong 
đó tiêu biểu nhất là thác Bản Giốc, một 
trong những thác đẹp nhất Việt Nam.
Sông Bắc Vọng bắt nguồn từ Trung 
Quốc chảy theo hướng tây bắc – đông nam 
15TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 43, tháng 11 năm 2020
qua các huyện Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Hạ 
Lang, Quảng Uyên, rồi quặt về phía nam 
đổ vào sông Bằng. Đây là phụ lưu lớn 
nhất phía tả ngạn sông Bằng với diện tích 
lưu vực trên 1.100 km2 (phần ở Việt Nam 
khoảng 760 km2) và chiều dài trong nội 
tỉnh là 90 km. Cũng do chảy chủ yếu trong 
vùng núi đá vôi nên mạng lưới sông kém 
phát triển, chỉ đạt trung bình 0.25 km/km2.
Nhìn chung, hệ thống các sông suối 
trong phạm vi CVĐC đều không lớn và 
mang đặc trưng của sông suối miền núi với 
tính chất dốc, hẹp, nhiều thác ghềnh. Các 
lưu vực sông có cao trình bình quân lưu 
vực tương đối cao, từ 600 – 900m, độ dốc 
lưu vực 15 – 30%. Lượng nước của các 
sông cũng khá lớn nên rất thuận lợi cho 
việc tưới tiêu cũng như phát triển các thuỷ 
điện nhỏ. Trong lưu vực sông có nhiều núi 
đá vôi kết hợp với các dòng chảy tạo nên 
nhiều danh lam thắng cảnh đẹp.
2.4. Thổ nhưỡng
Thổ nhưỡng trong khu vực CVĐC khá 
đa dạng và phức tạp [4]. Do phát triển 
trong điều kiện đá mẹ phần lớn là đá vôi 
cacbonnat, sét vôi, đá sét nên trong 
thành phần đất rất giàu Ca+, Mg+. Đặc biệt 
là do địa hình núi cao mà đất đai của tỉnh 
phân hoá thành các đai cao rõ rệt, từ thấp 
lên cao tạo thành 3 đai: đất feralit đỏ vàng 
đai đồi núi thấp (< 600), đất mùn đỏ vàng 
đai núi trung bình (600 - 1800) và đai đất 
mùn alít núi cao (trên 1.800m). Trong khu 
vực có thể chia thành các nhóm đất sau: 
a. Nhóm đất phù sa
Nguồn gốc của đất là sản phẩm bồi tụ 
của các sông, như Sông Gâm, sông Bằng, 
sông Bắc Vọng và sông Quây Sơn.... Đất 
được phân bố chủ yếu ở Hòa An, Trùng 
Khánh và rải rác ở các huyện khác. Hầu 
hết diện tích nhóm đất phù sa được sử 
dụng vào sản xuất nông nghiệp để trồng 
các cây ngắn ngày như: lúa, ngô, khoai, 
đậu đỗ, rau quả 
b. Nhóm đất đỏ vàng
Đây là nhóm đất có diện tích lớn nhất, 
phân bố rộng khắp, được hình thành do 
sản phẩm phong hóa của các đá macma, 
trầm tích và biến chất với màu sắc chủ đạo 
là đỏ vàng. Một phần diện tích nhóm đất 
này có tầng dày hoặc trung bình và độ dốc 
thấp dưới 15o, đã được khai phá canh tác 
nương rẫy, trồng ngô, sắn và ít cây ăn quả. 
Phần lớn diện tích còn lại do đất dốc, ở 
những nơi không có rừng là đất trống đồi 
trọc. Để khai thác hiệu quả nhóm đất này 
cần trồng và khoanh nuôi bảo vệ rừng, sản 
xuất theo mô hình nông lâm kết hợp, tăng 
cường áp dụng các biện pháp khoa học 
bảo vệ đất dốc.
c. Nhóm đất mùn trên núi cao (> 1.800 m)
Nhóm đất này chỉ chiếm một diện tích 
nhỏ trên các đỉnh núi cao. Trong phạm 
vi CVĐC, loại đất này chỉ tập trung ở 
núi Phia Oắc cao 1.931 m thuộc huyện 
Nguyên Bình.
d. Nhóm đất thung lũng do sản 
phẩm dốc tụ
Đất phân bố tập trung ở huyện Thạch 
An, Trùng Khánh, Hạ Lang, Hoà An và 
một số huyện khác. Đất thung lũng do sản 
phẩm dốc tụ có diện tích nhỏ, nhưng do 
tình trạng rất thiếu đất trồng lúa nước nên 
ở nhiều nơi nhân dân đã cải tạo trồng 2 lúa. 
e. Nhóm đất Cacbonát
Nhóm đất Cacbonát phân bố tập trung 
ở các huyện: Quảng Uyên, Trùng khánh, 
Hạ Lang, Thạch An, Trà Lĩnh và một số 
huyện khác. Loại đất này thích hợp cho 
sinh trưởng và phát triển của nhiều cây 
16 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
hoa màu, lương thực như lúa, ngô, đậu 
tương, rau và cây công nghiệp ngắn ngày. 
g. Nhóm đất đen
Nhóm đất này có một đơn vị đất là đất 
đen trên Secpentine (Rr), với diện tích nhỏ 
127 ha. Đất phân bố tập trung ở một số xã 
của huyện Hòa An. Đất đen trên Secpentine 
tuy có tầng mỏng nhưng đã và đang được 
sử dụng trồng lúa nước và hoa màu.
h. Nhóm đất xám bạc màu và đất xói 
mòn trơ sỏi đá
Đất phân bố rải rác ở các huyện, nhiều 
nhất ở các huyện Hạ Lang, Hà Quảng. Đây 
là loại đất đã bị thoái hóa do quá trình sử 
dụng không hợp lý từ lâu. Vì vậy, loại đất 
cần được cải tạo bằng cách nhanh chóng 
phủ xanh bằng thảm thực vật, nhằm mục 
đích bảo vệ môi trường giữ đất, giữ ẩm, 
giữ màu, phục hồi độ phì nhiêu của đất.
Tóm lại, tỉnh Cao Bằng có thành phần 
đất hết sức đa dạng, phản ánh quy luật tác 
động đến các nhân tố thành tạo đất. Sự 
đa dạng về đất đai tạo điều kiện thuận lợi 
trong việc đa dạng hoá các lĩnh vực sản 
xuất. Tuy nhiên, đất đai của tỉnh đã và 
đang chịu ảnh hưởng của nhiều tác động 
tiêu cực như: rửa trôi, xói mòn, hạn hán, 
hoang mạc hoá, ngập nước Bên cạnh 
đó, sức ép gia tăng dân số và kỹ thuật 
canh tác lạc hậu cũng khiến đất đai càng 
bị thoái hoá. 
2.5. Các hệ sinh thái tự nhiên
CVĐC Non nước Cao Bằng là một 
trong số ít địa phương ở Việt Nam còn khá 
giàu có về tài nguyên đa dạng sinh học. 
Kết quả điều tra, khảo sát, đánh giá hiện 
trạng và phân vùng đa dạng sinh học cho 
thấy trong phạm vi CVĐC có 10 hệ sinh 
thái (HST) khác nhau thuộc 2 nhóm chính 
[3]. Trong đó, 7 HST tự nhiên (gồm 5 HST 
rừng và 2 HST tự nhiên không thuộc HST 
rừng) và 03 HST nhân tạo. Các hệ sinh 
thái này đã được quy hoạch thành các 
vườn quốc gia, khu bảo tồn.
+ HST rừng kín thường xanh mưa ẩm 
nhiệt đới, cây lá rộng trên núi thấp (độ 
cao dưới 600 m): HST này phân bố rộng 
khắp nhưng tập trung chủ yếu ở các huyện 
như: Thạch An, Nguyên Bình; Phục Hòa, 
Trùng Khánh, Hà Quảng, Hòa An. HST 
này có 71 loài thực vật và 57 loài động vật 
được ghi trong Sách đỏ Việt Nam 2007. 
HST này có chức năng quan trọng duy trì 
và nâng cao độ che phủ, góp phần bảo vệ 
môi trường cho tỉnh.
+ HST rừng kín thường xanh hỗn giao lá 
rộng - lá kim á nhiệt đới trên núi trung bình 
(độ cao từ 600 - 1.600 m), phân bố chủ yếu ở 
các huyện thuộc phạm vi CVĐC Cao Bằng, 
như: Nguyên Bình, Hạ Lang, Trùng Khánh, 
Quảng Uyên, Trà Lĩnh, Hà Quảng... 
+ HST rừng kín thường xanh ôn đới trên 
núi cao (> 1.600 m), có diện tích nhỏ nhất, 
chỉ phân bố ở vùng đỉnh núi Phia Oắc thuộc 
các xã: Phan Thanh, Thành Công và thị trấn 
Tĩnh Túc (Nguyên Bình). Do nền nhiệt thấp 
nên vùng này phát triển kiểu thảm thực vật 
ôn đới núi cao với kiểu rừng rêu đặc trưng, 
một trong những kiểu rừng ít gặp ở Việt 
Nam. Ở đây cũng bắt gặp trên 50 loài thực 
vật và 48 loài động vật quý hiếm, đáng chú ý 
có một số loài lan, đặc biệt là lan hài.
+ HST rừng tre nứa thuần loại và hỗn 
giao, phân bố chủ yếu ở một số xã của 
huyện Hòa An, Nguyên Bình. Đây là HST 
có nguồn gốc thứ sinh hình thành sau khi 
rừng bị khai thác. HST có vai trò quan 
trọng trong việc phục hồi rừng tự nhiên.
+ HST rừng trên núi đá vôi là một 
trong những HST đặc trưng không chỉ 
của Cao Bằng mà còn là của cả nước với 
17TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 43, tháng 11 năm 2020
rất nhiều loài động vật, thực vật quý hiếm, 
trong đó nhiều loài chỉ có trên núi đá vôi. 
Các loài thực vật có nghiến, trai, thông đỏ 
bắc, thiết sam giả, thiết sam núi đá, thông 
Pà Cò, một số loài lan hài Động vật, 
đặc biệt loài vượn Cao Vít ở huyện Trùng 
Khánh đã được phát hiện sau nhiều năm 
biến mất khỏi địa phương.
+ Các HST tự nhiên khác không thuộc 
HST rừng bao gồm: HST đất ngập nước, 
bao gồm các hệ thống sông, suối lớn; Hệ 
sinh thái trảng cây bụi, trảng cỏ. Đây là 
môi trường sống của một số loài chim, thú 
nhỏ, đồng thời cũng là nơi góp phần phục 
hồi rừng, tăng tỷ lệ che phủ cho toàn tỉnh.
Với lợi thế to lớn về tự nhiên, tỉnh 
Cao Bằng đã quy hoạch một hệ thống các 
khu bảo tồn thiên nhiên, bao gồm một 
vườn quốc gia, năm khu bảo tồn loài/
môi trường sống, năm khu bảo tồn cảnh 
quan, một khu bảo tồn đất ngập nước và 
hai hành lang đa dạng sinh học. Một số 
khu bảo tồn thiên nhiên quan trọng của 
Cao Bằng như: Vườn Quốc gia Phia Oắc 
- Phia Đén, Khu bảo tồn loài và sinh cảnh 
Vượn Cao Vít Trùng Khánh, khu bảo vệ 
cảnh quan Bản Giốc, Khu bảo tồn loài 
Trà Lĩnh -Thăng Hen (huyện Trà Lĩnh), 
Khu bảo tồn loài Hạ Lang (huyện Hạ 
Lang), Khu bảo tồn loài Bảo Lâm (huyện 
Bảo Lâm), Khu bảo tồn loài Bảo Lạc
3. KẾT LUẬN
CVĐC Non nước Cao Bằng mang những 
trưng nổi bật về địa lí tự nhiên, đặc biệt là 
những giá trị to lớn về địa chất. Việc được 
công nhận là công viên địa chất toàn cầu 
không chỉ đặt ra những thách thức mà còn 
là một cơ hội để Cao Bằng khai thác tốt hơn 
những tiềm năng của địa phương. Ngoài ra, 
đây cũng là vùng đất có bề dày văn hóa, lịch 
sử với hơn 215 di tích văn hóa, lịch sử được 
xếp hạng, trong đó có 3 di tích quốc gia đặc 
biệt là Rừng Trần Hưng Đạo, Khu di tích 
Pác Bó và Di tích lịch sử Địa điểm Chiến 
thắng Biên giới năm 1950. Và đặc biệt, đây 
là cái nôi của cách mạng Việt Nam thời kỳ 
kháng chiến chống thực dân Pháp. Sự kết 
hợp những giá trị tự nhiên và lịch sử đã tạo 
nên những nét độc đáo và là động lực lớn 
cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và 
ngành du lịch của tỉnh nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cục Thống kê tỉnh Cao Bằng (2019), Niên 
giám thống kê tỉnh Cao Bằng.
2. Tống Duy Thanh và nnk (2005), Các phân 
vị địa tầng Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà 
Nội, Hà Nội.
3. UBND tỉnh Cao Bằng (2015), Quy hoạch 
bảo tồn đa dạng sinh học tỉnh Cao Bằng đến năm 
2020, định hướng đến năm 2030, Tỉnh Cao Bằng.
4. UBND tỉnh Cao Bằng (2017), Điều chỉnh 
quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch 
sử dụng đất kỳ cuối (2016 - 2020) tỉnh Cao Bằng, 
Tỉnh Cao Bằng.

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_va_gia_tri_tu_nhien_cua_cong_vien_dia_chat_non_nuoc.pdf