Công tác đào tạo giáo viên và vai trò của các bài tập tâm lí học
Công tác đào tạo giáo viên trong các nhà trường sư phạm hiện nay là một
trong các khía cạnh chính của khoa học sư phạm, trong đó, có đào tạo kiến thức
chuyên môn và rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm. Thực tế ở các nhà trường cho
thấy, sinh viên tập sự và sinh viên năm cuối có kiến thức chuyên môn vững, nhưng
năng lực nghiệp vụ sư phạm còn yếu, chưa đáp ứng được những yêu cầu của thực
tiễn công tác giảng dạy cũng như vai trò mà giáo viên ngày nay phải đảm nhiệm. Vì
thế, đây là “mảng” thiếu hụt cần bù đắp trong thời gian thực tập sư phạm cho sinh
viên. Các bài tập tâm lí học với tư cách cung cấp kiến thức nền tảng cho khoa học
sư phạm nói chung, rèn kĩ năng nghề nghiệp nói riêng sẽ có đóng góp nhất định
vào công tác này.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tóm tắt nội dung tài liệu: Công tác đào tạo giáo viên và vai trò của các bài tập tâm lí học
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 6A, pp. 127-132 This paper is available online at CÔNG TÁC ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC BÀI TẬP TÂM LÍ HỌC Võ Thị Minh Chí Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Công tác đào tạo giáo viên trong các nhà trường sư phạm hiện nay là một trong các khía cạnh chính của khoa học sư phạm, trong đó, có đào tạo kiến thức chuyên môn và rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm. Thực tế ở các nhà trường cho thấy, sinh viên tập sự và sinh viên năm cuối có kiến thức chuyên môn vững, nhưng năng lực nghiệp vụ sư phạm còn yếu, chưa đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn công tác giảng dạy cũng như vai trò mà giáo viên ngày nay phải đảm nhiệm. Vì thế, đây là “mảng” thiếu hụt cần bù đắp trong thời gian thực tập sư phạm cho sinh viên. Các bài tập tâm lí học với tư cách cung cấp kiến thức nền tảng cho khoa học sư phạm nói chung, rèn kĩ năng nghề nghiệp nói riêng sẽ có đóng góp nhất định vào công tác này. Từ khóa: Tâm lí học, các bài tập thực hành tâm lí học, rèn nghiệp vụ sư phạm trong công tác đào tạo giáo viên. 1. Mở đầu Ngày nay, xu thế hội nhập, toàn cầu hóa trong mọi lĩnh vực của đời sống là điểm đặc trưng mang tính thời đại. Giáo dục Đại học, trong đó có giáo dục Đại học Việt nam, cũng nằm trong xu thế này. Do vậy, phương hướng chung là thông qua nghiên cứu, triển khai, chuyển giao công nghệ phục vụ xã hội. . . để tạo nên nguồn nhân lực mới chất lượng cao. Nói cách khác, cần có sự đổi mới trong tiếp cận với giáo dục Đại học ở Việt Nam. Trong công tác giáo dục đại học ở các nhà trường Sư phạm thì việc đào tạo giáo viên là khâu then chốt, đột phá. Khả năng hành nghề của các sinh viên - các thầy cô giáo tương lai, sau khi ra truờng phụ thuộc rất nhiều, nếu như không nói là phụ thuộc chính vào nhân cách, trí tuệ, thái độ với công việc,... của người giảng viên và chất lượng giáo dục mà họ đã được thụ hưởng trong nhà trường Trong đào tạo giáo viên ở nhà trường sư phạm hai nhiệm vụ chính cần quan tâm là đào tạo chuyên môn - kiến thức và đào tạo nghề - nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên. Liên hệ: Võ Thị Minh Chí, e-mail: minhchi12a4h@yahoo.com. 127 Võ Thị Minh Chí Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy: Sinh viên tập sự và sinh viên năm cuối có kiến thức chuyên môn vững, nhưng năng lực nghiệp vụ sư phạm còn yếu, chưa đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn công tác giảng dạy cũng như vai trò mà giáo viên ngày nay phải đảm nhiệm [5]. Hay như nhận định của PGS.TS Kiều Thế Hưng cho thấy, trong trường sư phạm, có thể đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học cơ bản, có thể có nhiều bộ giáo trình khoa học cơ bản, có thể có nhiều công trình nghiên cứu về lí luận dạy học có uy tín, nhưng dường như những công trình nghiên cứu về kĩ năng dạy học còn rất khiêm tốn và chưa tương xứng với vị trí của một trường đào tạo nghề, hơn nữa lại là một nghề đặc biệt - nghề dạy học, giáo dục con người. Từ những lí do trên cho thấy, tính cấp thiết của công tác đào tạo giáo viên trong tình hình hiện nay là việc rèn luyện kĩ năng sư phạm - với tư cách là rèn nghề cho sinh viên. Muốn thực thi được nhiệm vụ này, tất yếu sinh viên sư phạm phải được học và ứng dụng các tri thức về tâm lí học đã học vào thực tập sư phạm. 2. Nội dung nghiên cứu Vai trò của các bài tập tâm lí học với công tác đào tạo giáo viên: Như đã nêu trên, trong bối cảnh giáo dục đại học hiện nay ở nước ta, vấn đề mang tính cấp thiết là rèn tay nghề cho sinh viên sư phạm. Điều này không có nghĩa là sẽ bỏ qua hay yên tâm với công tác đào tạo chuyên môn, bởi lẽ nhận định sinh viên vào năm 2011 “có kiến thức chuyên môn vững” là hoàn toàn chính xác vì đây là lứa sinh viên nhập học cách đó 3- 4 năm, khi mà việc tuyển sinh vào các trường sư phạm dễ nhận được nhiều học sinh giỏi, ưu tú trên cả nước. Hiện nay, việc tuyển chọn sinh viên có chất lượng cao (đầu vào) tại các trường sư phạm là khó khăn; cho nên việc đẩy mạnh, kiểm soát công tác đào tạo chuyên môn - kiến thức cho sinh viên cũng không thể lơ là, coi nhẹ Trong nội dung bài viết này, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến công tác đào tạo giáo viên ở khía cạnh rèn nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên thông qua các bài tập thực hành tâm lí học. Để thực thi chương trình thực tập sư phạm, sinh viên cần thiết phải thực hiện một số bài tập, nhiệm vụ (tổ hợp các nhiệm vụ) tâm lí học. Hướng phát triển cơ bản của những bài tập, nhiệm vụ này là tăng khả năng lựa chọn các phương án (kĩ năng), hoàn thiện sơ đồ (các bước) giúp cho sinh viên thực thi và hiện thực hóa việc giải quyết các nhiệm vụ đặt ra có cơ sở khoa học. Đây có thể coi là một khía cạnh quan trọng trong việc chuẩn bị, sẵn sàng nghề nghiêp - cơ sở để đào tạo nghề trong tương lai của sinh viên và đã được khá nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới và trong nước quan tâm. Ngày nay, các kết quả nghiên cứu [7] cho thấy, tiềm năng hoàn thiện thực hành sư phạm với sự trợ giúp của khoa học tâm lí là rất lớn, liên quan trực tiếp đến sự cần thiết của chủ nghĩa nhân văn trong đời sống trường học, đến thực trạng phát triển nhân cách của học sinh trên cơ sở chú trọng định hướng vào các đặc điểm cá nhân của các em. Trước hết, để việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm có kết quả, thì nhà trường, mà cụ thể ở đây là các thầy cô giáo phương pháp bộ môn cần tạo ra “sự sẵn sàng tâm lí” [7] cho sinh viên Trong bối cảnh và điều kiện văn hóa - lịch sử hiện nay, sự sẵn sàng tâm lí được 128 Công tác đào tạo giáo viên và vai trò của các bài tập tâm lí học xem như là một quá trình hình thành hệ thống các tổ chức tâm lí (các biểu tượng, khái niệm, cách tư duy, kĩ xảo, cảm xúc, hưng phấn. . . ), đảm bảo cho sự sẵn sàng về động cơ và năng lực ở chủ thể kiến tạo ra các điều kiện để phát triển và tự phát triển nhân cách ở một con người đang lớn. Việc giải quyết để tạo ra sự sẵn sàng tâm lí chỉ có thể được bắt đầu từ mục đích của vấn đề. Việc tìm hiểu cấu trúc thành phần của mục đích này phải được tiến hành trong khuôn khổ của hoạt động sư phạm, mà hạt nhân của nó là chính là khái niệm về cấu trúc của hoạt động này. Trên cơ sở phân tích tỉ mỉ vấn đề nêu trên, nhiều tác giả đã đồng tình với cấu trúc 4 thành phần của hoạt động sư phạm do Steimes A. nêu ra; Đó là: kiến tạo, nghiên cứu, trao đổi thông tin và thực hành ứng dụng; Trên cơ sở của cấu trúc này, các nhà Tâm lí học của Nga đã thiết kế các bài tập Tâm lí học dành cho thực tập sư phạm của sinh viên [2]. Ở đây, các tác giả cho rằng, công tác tổ chức thực tập sư phạm không được coi là cấu thành, mà chỉ là phương thức để tồn tại hoạt động. Như vây, 4 cấu thành chức năng nêu trên được coi là các cấu trúc trọn vẹn của sự sẵn sàng tâm lí với hoạt động sư phạm. Tuy nhiên, cũng cần phải lưu ý rằng, các cấu thành của sự sẵn sàng tâm lí với hoạt động sư phạm phải được các sinh viên sư phạm - các thầy cô giáo tương lai, ý thức sâu sắc vì họ mới là chủ thể có kinh nghiệm để phát triển (có thể trên cơ sở cộng tác với giảng viên, với giáo viên hay với các sinh viên khác), và vì những kinh nghiệm có được là hệ quả trải nghiệm của thành tích (hoặc thất bại) của chính họ và vì trong kinh nghiệm của họ cũng chứa đựng quy trình phát triển tiếp theo. Thực tập sư phạm sẽ bị mất đi tính hiệu quả của nó (hơn nữa thời gian dành cho công việc này không nhiều, nếu như không nói là rất ít), khi được diễn ra chỉ với tư cách là quá trình thích nghi đơn thuần của sinh viên với thực tiễn sư phạm. Do vậy, công cụ chính của việc chuẩn bị tâm lí cho sinh viên với thực tập sư phạm phải là các bài tập tâm lí mang tính học tập - nghề. Các bài tập này cần phải được thiết kế tương ứng với khái niệm có trong chương trình học tập chung. Để có sự tương thích trên, các nội dung tâm lí phải được trừu tượng hóa vào các bài tập cụ thể, có tính chất bộ phận và cần phải: “Hướng đến phân tích các điều kiện và nguồn gốc các khái niệm lí luận cũng như làm chủ các phương thức hành động đã được khái quát hóa” [4]. Giải quyết được các bài tập này, sinh viên sẽ lĩnh hội được phương pháp chung (nhưng nếu chỉ có cái đó thì họ không có khả năng tìm ra được các mối quan hệ ẩn chứa trong hệ thống tri thức), biết thể hiện ở phương thức “chia cắt” theo ý nghĩa trong thực tế cụ thể, nghiên cứu, cải tạo thực tiễn tương thích với khái niệm đã được học. Các bài tập tâm lí mang tính học tập - nghề có thể được xây dựng trên cơ sở các nhiệm vụ thực tập sư phạm đã được xây dựng trước đó (như nghiên cứu nhân cách của học sinh, phân tích tiết học từ góc độ Tâm lí học. . . ), nhưng phải được cải biến cho phù hợp với điều kiện và các yêu cầu đang đặt ra. Chẳng hạn, tương ứng với nội dung bài học mang tính truyền thống như “nghiên cứu nhân cách của học sinh” thì giảng viên phải gợi ý, đề xuất cho sinh viên các khía cạnh trong nghiên cứu nhân cách và mỗi vấn đề nghiên cứu phải được cụ thể hóa thành tổ hợp các nhiệm vụ theo hệ thống (dưới dạng khoảng chục dấu gạch đầu dòng). Điều này sẽ thúc đẩy, gây hưng phấn cho sinh viên đi thu thập một lượng thông tin “khổng lồ”, nhiều mặt về học sinh, mà không làm mất đi tính chất của tư duy tổng thể. Nhiệm vụ chính của người hướng dẫn thực hành ở đây là phát triển 129 Võ Thị Minh Chí cho sinh viên kinh nghiệm suy luận về nhân cách của học sinh. Sự suy luận cũng có thể biểu hiện ở kết quả trong các mối quan hệ, thậm chí cả ở tập hợp các mâu thuẫn mà sinh viên phát hiện ra. Chính từ đây cho phép sinh viên rút gọn số lượng các mặt (hay các lĩnh vực cần nghiên cứu) với mục đích xây dựng các điều kiện để đánh giá vấn đề và đưa ra giả thuyết nghiên cứu. Qua thực tế xây dựng và quan sát thực trạng giải quyết cấc tình huống sư phạm trên lớp của giáo viên THPT (Viện nghiên cứu sư phạm, năm 2011 và 2012), có thể đưa ra các “dấu hiệu” của các bài tập cần thiết kế, mang tính học tập - nghề, góp phần nâng cao chất lượng thực tập, rèn luyện nghiệp vụ cho sinh viên sư phạm như sau: + Quá trình thực thi bài tập - nhiệm vụ, ở mộtkhía cạnh, là sự mô hình hóa cách thức mang nội dung tâm lí vào công tác giáo dục, nhưng ở một khía cạnh khác, lại mang tính chất tổng thể theo nghĩa: ngay trong mỗi cách thức đã chỉ ra cũng chứa đựng không chỉ một, mà một số các cấu thành của sự sẵn sàng tâm lí với hoạt động sư phạm. + Một khóa thực hành sư phạm, tất yếu, là việc ứng dụng vào thực tế các lí thuyết mà sinh viên đã học. Tuy nhiên, cũng không chỉ có vậy. Việc thực thi các bài tập đặt ra, song song với quá trình thao tác hóa là sự phát triển các khái niệm tâm lí học. Hơn nữa, trọng tâm chú ý của việc lĩnh hội các khái niệm tâm lí có ý nghĩa nghề nghiệp đặc biệt, lại được chuyển thành nội dung thực tập sư phạm. + Những kinh nghiệm (dù còn rất sơ khai), quyết định sự “vào cuộc” với nhiệm vụ - bài tập của sinh viên như: tham gia thực thi nhiệm vụ và giải quyết nó chính là phương pháp tổ chức các điều kiện và các yêu cầu cho nhiệm vụ - Bài tập Chính bản thân sự “vào cuộc” chứa đựng những cách thức cho việc giải quyết nhiệm vụ ở các bước cơ bản tiếp theo, cũng như các khuyến nghị với từng bước ở đó, minh chứng về các tiêu chí giải quyết bài tập có hiệu quả. + Các bài tập - nhiệm vụ thiết kế là biểu hiện sự trau dồi phong cách khoa học của tư duy. Trong nhiều trường hợp ở tất cả các khâu của bài phải được kiểm định, cân nhắc để quyết định nên đưa hay không tình huống vào chương trình thực tập cho sinh viên, hình thành giả thuyết khoa học và kiểm tra nó bằng các phương tiện chẩn đoán tâm lí. Trong các trường hợp này, khâu đầu tiên được chỉ định chiếm 3/4 thời gian (theo kinh nghiệm của các nhà Tâm lí học Nga, 2002 [2]). Khi khâu đầu tiên đã được giải quyết xong thì giảng viên - nhà phương pháp nên tham khảo thêm ý kiến của sinh viên thông qua việc ghi lại các nhận xét và nguyện vọng của họ. + Bước cuối cùng trong thiết kế bài tập tâm lí mang tính học - nghề phải có là khâu phản ánh, “hướng tâm ngược”. Chính ở nội dung này các sinh viên hướng suy nghĩ của mình tới các khâu trước đó, tới chất lượng hiện thực hóa nhiệm vụ, tới các dấu ấn mà bài tập đã tạo ra cũng như những mối quan hệ, liên hệ của sinh viên với nhiệm vụ nói chung. Ở phần này trong thiết kế bài tập có thể sử dụng một số câu hỏi mang tính trợ giúp như: những khó khăn hay cảm giác xuất hiện trong quá trình thực thi nhiệm vụ? Có thể nói rằng những bài tập đã thực thi đã làm bạn hứng thú? Tại sao?. . . và v..v. . . Các dấu hiệu của một bài tập học - nghề (có thể còn chưa đầy đủ) nhưng đã cho thấy, không chỉ với người thiết kế chúng mà cả ngay sinh viên - những người thực hiện 130 Công tác đào tạo giáo viên và vai trò của các bài tập tâm lí học các nhiệm vụ này cũng cần phải có kiến thức. Trong khi phân tích mức độ ứng dụng tri thức của của sinh viên vào thực tế sư phạm, các yếu tố sau cần được chú ý trong đào tạo để tăng mức độ động cơ học tập ở các em: các bài tập mang tính định hướng nghề sư phạm phải rõ ràng và thể hiện được ở nội dung trong quá trình lĩnh hội hoạt động sư phạm; mỗi bài tập nên có nhiều tình huống giải quyết để sinh viên lựa chọn và lí giải sự lựa chọn của mình từ kiến thức Tâm lí học; tổ chức tốt việc giao lưu nghề, trao đổi kinh nghiệm hành nghề giữa các nhà giáo tương lai với các đồng nghiệp, với học sinh và với chính bản thân; phát triển các phong cách tư duy khoa học; xây dựng một số bài tập “công cụ” - chìa khóa để xác định được “tính ưu thế” của từng sinh viên, nhóm sinh viên trong hành nghề; tạo ra các tình huống để có thể quan sát được sự biến đổi cảm xúc (khi đạt thành tích hay khi gặp thất bại),... Đấy là chưa kể đến, ở một số sinh viên có thể có những biểu hiện của “tính tích cực quá mức” - “trên tình huống” sẽ đưa ra các phương pháp bổ xung, mang tính sáng tạo, góp phần hoàn thiện (hoặc toàn bộ hoặc từng phần) nhiệm vụ đang đặt ra. Các bài tập tâm lí học có thể được thiết kế với nội dung tương thích với mục đích rèn nghiệp vụ sư phạm, tùy thuộc vào từng năm học của sinh viên. Thiết nghĩ, bước đầu, để làm quen với môi trường thực tập, có thể yêu cầu các em thực hiện các bài tập như: “nghiên cứu nhân cách của học sinh”, “nghiên cứu các quan hệ liên nhân cách và nhóm”, “nghiên cứu sự lo lắng nhân cách của học sinh”. . . - Những nội dung hướng đến tăng cường năng lực cũng như “uy quyền”của nhà giáo tương lai từ góc độ tâm lí học, ứng với thực tiễn quan trọng trong nghề nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, nếu như trong trường hợp giả thuyết nghiên cứu với kết quả thu được khi sử dụng phương pháp nghiên cứu nào đó không trùng khớp nhau (giả thuyết đưa ra không được chứng minh) thì cũng không nên xem đó là yếu tố làm giảm chất lượng của công việc ở sinh viên. Ngược lại, các trường hợp như vậy cần được tập trung chú ý “mổ xẻ”, xem xét, tìm ra những sai sót, mâu thuẫn. . . trong quá trình thực hiện và giải thích chúng. Các bài tập tâm lí tiếp theo để rèn nghiệp vụ sư phạm có thể triển khai theo các chủ đề phân tích tiết học từ góc độ tâm lí học. Hệ thống các bài tập này được thiết kế theo logic sau: từ phân tích theo chủ đề đến phân tích các khía cạnh của nó (chủ đề đạt tới mức một thành phần ở đó tương thích với hệ thống chức năng của hoạt động sư phạm) và cuối cùng là phân tích được toàn bộ tiết học. Chẳng hạn, cơ sở để đi đến đánh giá một tiết học với các chức năng của nó là tổ hợp kết quả thực thi các bài tập nghiên cứu: Tổ chức sự chú ý cho học sinh, tổ chức tư duy ở các em,... trong tiết học. Hiện nay, ở Việt nam, các bài tập dạng nêu trên đã được ấn hành [6]. Vấn đề cần nói đến ở đây là các bài tập này được chỉ đạo sử dụng và động cơ, hứng thú của sinh viên với việc sử dụng chúng như thế nào trong rèn luyện nghiệp vụ sư phạm mà thôi 3. Kết luận Có thể nói, đào tạo giáo viên là khâu then chốt trong đổi mới giáo dục. Khoa học sư phạm liên quan đến công tác này được xây dựng trên cơ sở nền tảng của tri thức thuộc các ngành khoa học khác nhau, trong đó có tâm lí học. Đặc biệt, vai trò của Tâm lí học với 131 Võ Thị Minh Chí các bài tập thực hành của nó rất có ý nghĩa với việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên, mà cụ thể thông qua thực thi các bài tập - nhiệm vụ, sinh viên có cơ hội tìm hiểu đối tượng tác động của mình - học sinh, cũng như môi trường giáo dục của chúng [1]. Đây là tiền đề cơ sở giúp sinh viên sư phạm rèn luyện cho mình các kĩ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên, công tác rèn nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các nhà trường sư phạm còn yếu, như đã đề cập trên, thì công việc giảng dạy để truyền đạt đầy đủ tri thức tâm lí học cho sinh viên cũng là vấn đề cần cân nhắc. Bởi với số chứng chỉ về tâm lí học dành cho chương trình “nghiệp vụ sư phạm” quá ít, giảng viên không thể chuyển tải đủ các kiến thức tối thiểu cho sinh viên, mà việc tự học cũng như tài liệu để học trong điều kiện như hiện nay còn rất hạn chế. Việc rèn nghiệp vụ sư phạm trên cơ sở các khiếm khuyết kiến thức về tâm lí học sẽ là lãng phí, không thể đem lại kết quả tốt. Vì vậy, muốn đổi mới giáo dục, trong công tác đào tạo giáo viên nói chung, công tác thực tập sư phạm nói riêng, các tri thức của tâm lí học cần phải được sinh viên có cơ hội nắm đầy đủ và ứng dụng vào môi trường sư phạm để vận hành, thông qua các bài tập (nhiệm vụ) tâm lí. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Akimova. M.K, Kolzov V.T., 1992. Cá tính của học sinh và cách tiếp cận cá nhân. Matxcơva. [2] Steimes A.E., 1986. Tài liệu giáo khoa về tâm lý học đại cương để tự học. Xmolenxk [3] Steimes A.E., 2002. Các bài tập tâm lý để thực hành sư phạm cho sinh viên. Matx- cơva. [4] Davưđov V.V., 1982. Nội dung và cấu trúc hoạt động học tập của học sinh. Matx- cơva. [5] Đinh Quang Báo, Nguyễn Kim Dung, 2011. Nghiên cứu đề xuất các giải pháp cải cách công tác đào tạo giáo viên phổ thông. Đề tài độc lập cấp Nhà Nước do nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình làm chủ nhiệm. [6] Trần Trọng Thủy, 1997. Bài tập thực hành Tâm lí học. Nxb Giáo dục. [7] Steimes A. và cộng sự, 1998. Sự sẵn sàng tâm lí với hoạt động thực hành của sinh viên sư phạm. Matxcova ABSTRACT Teacher training and the importance of psychological exercises Teacher training is currently one of the major aspects of pedagogical science in which professional knowledge and skills are trained and provided for teachers. Realities in teacher-training institutions have shown that practitioners and the last year students often have a good professional knowledge but their pedagogical competence is poor without being able to meet the practical requirements of classroom instruction as well as the role being assumed by the teacher. For this reason, this is a missing area for which professional knowledge and competency should be trained and improved in compensation. Psychological exercises which serve to provide background knowledge for peda- gogical science in general and to drill professional skills in particular will make a certain contribution to this work. 132
File đính kèm:
- cong_tac_dao_tao_giao_vien_va_vai_tro_cua_cac_bai_tap_tam_li.pdf