Cắt thanh quản bảo tồn trong điều trị ung thư thanh môn giai đoạn sớm: Kết quả chức năng
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá chức năng thanh quản sau phẫu thuật cắt thanh quản bảo tồn (TQBT). Đối tượng nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu là 59 bệnh nhân ung thư thanh môn giai đoạn sớm (giai đoạn I, II), được phẫu thuật cắt thanh quản bảo tồn tại Bệnh viện Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh, từ 01/01/2010 đến 31/07/2013. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu: Báo cáo loạt ca. Chúng tôi dùng thời gian đặt ống khai khí đạo (KKĐ), đặt ống nuôi ăn để đánh giá chức năng thở và nuốt sau mổ. Chúng tôi ghi âm giọng nói của bệnh nhân để phân tích cảm thụ và phân tích âm và đo thời gian phát âm tối đa (MPT) ít nhất 12 tháng sau khi phẫu thuật. Thang GRBAS và phần mềm Praat được sử dụng cho phân tích cảm thụ và phân tích âm. VHI10 và MDADI được sử dụng để xác định ảnh hưởng của giọng nói và chức năng nuốt đến chất lượng cuộc sống, cũng được thực hiện ít nhất 12 tháng sau khi phẫu thuật. Kết quả: Thời gian đặt ống KKĐ và ống nuôi ăn của các loại cắt TQBT là từ 4-13 ngày và 0-18 ngày. Điểm số thang GRBAS, MPT: từ 0,4 đến 2,9 và từ 7 đến 18 giây. Tần suất cơ bản, Jitter, Shimmer và tỷ số tiếng ồn trên hài âm: 108 đến 203; 0,52 đến 3,1; 7,2 đến 17; và 0,09 đến 0,68. Trung bình tổng số VHI10 và MDADI là từ 4 đến 18 điểm và từ 82% đến 100%. Kết luận: Chức năng thanh quản sau phẫu thuật cắt TQBT thay đổi nhẹ và trung bình đối với phẫu thuật mổ mở cắt dây thanh và phẫu thuật cắt thanh quản theo chiều dọc và nặng đối với phẫu thuật cắt thanh quản trên sụn nhẫn - CHEP
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cắt thanh quản bảo tồn trong điều trị ung thư thanh môn giai đoạn sớm: Kết quả chức năng
ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 112 CẮT THANH QUẢN BẢO TỒN TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ THANH MÔN GIAI ĐOẠN SỚM: KẾT QUẢ CHỨC NĔNG LÊ VĔN CƯỜNG1, HOÀNG QUỐC VIỆT2, NGUYỄN THỊ NGỌC DUNG3, VŨ VĔN VŨ4 TÓM TẮT Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá chức nĕng thanh quản sau phẫu thuật cắt thanh quản bảo tồn (TQBT). Đối tượng nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu là 59 bệnh nhân ung thư thanh môn giai đoạn sớm (giai đoạn I, II), được phẫu thuật cắt thanh quản bảo tồn tại Bệnh viện Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh, từ 01/01/2010 đến 31/07/2013. Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu: Báo cáo loạt ca. Chúng tôi dùng thời gian đặt ống khai khí đạo (KKĐ), đặt ống nuôi ĕn để đánh giá chức nĕng thở và nuốt sau mổ. Chúng tôi ghi âm giọng nói của bệnh nhân để phân tích cảm thụ và phân tích âm và đo thời gian phát âm tối đa (MPT) ít nhất 12 tháng sau khi phẫu thuật. Thang GRBAS và phần mềm Praat được sử dụng cho phân tích cảm thụ và phân tích âm. VHI10 và MDADI được sử dụng để xác định ảnh hưởng của giọng nói và chức nĕng nuốt đến chất lượng cuộc sống, cũng được thực hiện ít nhất 12 tháng sau khi phẫu thuật. Kết quả: Thời gian đặt ống KKĐ và ống nuôi ĕn của các loại cắt TQBT là từ 4-13 ngày và 0-18 ngày. Điểm số thang GRBAS, MPT: từ 0,4 đến 2,9 và từ 7 đến 18 giây. Tần suất cơ bản, Jitter, Shimmer và tỷ số tiếng ồn trên hài âm: 108 đến 203; 0,52 đến 3,1; 7,2 đến 17; và 0,09 đến 0,68. Trung bình tổng số VHI10 và MDADI là từ 4 đến 18 điểm và từ 82% đến 100%. Kết luận: Chức nĕng thanh quản sau phẫu thuật cắt TQBT thay đổi nhẹ và trung bình đối với phẫu thuật mổ mở cắt dây thanh và phẫu thuật cắt thanh quản theo chiều dọc và nặng đối với phẫu thuật cắt thanh quản trên sụn nhẫn - CHEP. SUMMARY Conservative laryngectomy in treatment of early glottic cancer: Functional outcome Objective: To evaluate the functional outcome following open partial conservative laryngectomy. Patients. This study was performed between 01/01/2010 and 31/07/2013 at Hồ Chí Minh oncology hospital. A total of 59 patients with a diagnosis of early glottic cancer and an open partial conservative laryngectomy were included in the study. Method: Study Design: Case series. We used the duration of tracheostomy tube and nasal gastric tube to evaluate the airflow management and protection of the airway of larynx after surgery. We recorded patient’s voice for perceptual analysic and acoustic analysic and measured maximal phonation time at least 12 months after surgery. The GRBAS scale and Praat software is used perceptual 1 ThS.BS. Phó Trưởng Khoa Ngoại 3 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 2 Điều Dưỡng Trưởng Khoa Ngoại 3 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 3 PGS.TS. Bộ môn TMH, Đại học Phạm Ngọc Thạch 4 TS.BS. Trưởng Khoa Nội 1 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 113 analysic and acoustic analysic. The VHI10 and MDADI which were used to identify the effect of voice on quality of life, were also performed at least 12 months after surgery. Result: The duration of tracheostomy tube and nasal gastric tube were from 4-13 days and 0-18 days. Scorepoint of GRBAS scale, and MPT: from 0.4 to 2.9, and from 7 to 18 seconds. Fo, Jitter, Shimmer, and NHR : 108 to 203; 0.52 to 3.1, 7.2 to 17, and 0.09 to 0.68. The mean of total VHI10 và MDADI were from 4 to 18 points, and from 82% to 100%. Conclusion: The function of larynx slightly changed after open cordectomy, and vertical partial laryngectomy, and remarkably changed after supraricoid partial laryngectomy. Key Words: Frontal lateral laryngectomy, Frontal anterior laryngectomy, Supracricoid partial laryngectomy, Quality of life, early glottis cancer. ĐẶT VẤN ĐỀ Phẫu thuật cắt thanh quản bảo tồn (cắt TQBT) ra đời từ cuối thế kỷ 19. Kỹ thuật này cắt một phần thanh quản nhưng vẫn bảo đảm kiểm soát tại chỗ trong điều trị ung thư thanh quản giai đoạn sớm và bảo tồn được chức nĕng thanh quản như: nuốt, phát âm, thở và bảo vệ đường hô hấp. Rất nhiều cải tiến kỹ thuật mổ đã ra đời sau đó, nhằm bảo tồn tốt hơn chức nĕng thanh quản mà vẫn duy trì kết quả về mặt ung thư học. Phẫu thuật bảo tồn thanh quản ngày càng mở rộng chỉ định, tĕng số lượng bệnh nhân được hưởng lợi từ kỹ thuật này. Trong nước chưa có nghiên cứu nào đánh giá đầy đủ về phục hồi chức nĕng sau cắt thanh quản bảo tồn. Điều đó gây khó khĕn trong tư vấn cho bệnh nhân trước phẫu thuật, đánh giá lợi ích của phẫu thuật, so sánh kết quả phẫu thuật với các tác giả khác, cũng như cải tiến và hoàn thiện loại phẫu thuật này. Chúng tôi tiến hành công trình nghiên cứu này nhằm xác định kết quả về mặt chức nĕng thanh quản sau phẫu thuật mở cắt thanh quản bảo tồn, với mục tiêu nghiên cứu sau: Xác định phục hồi chức nĕng thở, nuốt, phát âm sau phẫu thuật cắt thanh quản bảo tồn. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Mẫu nghiên cứu là 59 bệnh nhân ung thư thanh môn giai đoạn sớm (giai đoạn I, II), được phẫu thuật cắt thanh quản bảo tồn tại Bệnh viện Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh, từ 01/01/2010 đến 31/07/2013. Bệnh nhân nam chiếm 93,2% (55 trường hợp (TH) và bệnh nhân nữ chiếm 6,8% (4 TH). Trong nghiên cứu có 43 TH bướu T1a (72,9%), 13 TH T1b (22,0%) và 3 TH T2 (5,1%). Ba loại phẫu thuật được sử dụng trong điều trị: 8 TH cắt dây thanh (CDT), 13TH cắt thanh quản một phần theo chiều dọc (cắt TQMPTCD), 38TH cắt thanh quản trên sụn nhẫn- CHEP (cắt TQTSN - CHEP). Trong đó nhóm cắt TQMPTCD có 2 kỹ thuật: cắt thanh quản một phần theo chiều dọc kiểu trán bên (TQMPTCD KTB) và cắt thanh quản một phần theo chiều dọc kiểu trán trước (TQMPTCD KTT). PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca. Phục hồi chức nĕng thở: Các TH có đặt ống khai khí đạo (KKĐ), chúng tôi thay ống KKĐ sau 24 giờ và tập thở ngày thứ 4 sau mổ để giảm phù nề. Rút ống KKĐ khi bệnh nhân có thể dung nạp được với bịt lổ KKĐ trong 24 giờ. Phục hồi chức nĕng nuốt: Các trường hợp CDT và cắt TQMP TCD KTB không đặt ống nuôi ĕn có thể ĕn lại từ ngày thứ hai sau mổ, các trường hợp có đặt ống nuôi ĕn có thể tập nuốt từ ngày thứ 4 tùy TH. Các trường hợp còn lại bệnh nhân được phục hồi theo qui trình. Phục hồi chức nĕng phát âm: bệnh nhân cắt TQTSN - CHEP được tập vận động sụn phễu ngày thứ 4, phát âm tiếng thé ngày thứ 5. Các trường hợp còn lại theo dõi sự phục hồi trong thời gian sớm sau phẫu thuật. Luyện thanh có thể được tiến hành trong giai đoạn hồi phục. Các tham số đánh giá: đánh giá phục hồi chức nĕng thở bằng thời gian đặt ống KKĐ (số ngày từ lúc phẫu thuật đến khi rút ống KKĐ). Thời gian đặt ống nuôi ĕn: Số ngày từ lúc phẫu thuật đến khi rút ống nuôi ĕn. Đánh giá chức nĕng phát âm: Thời gian phát âm tối đa, phân tích cảm thụ chất lượng giọng bằng thang GRBAS-I, và phân tích âm bằng phần mềm Praat ở thời điểm tối thiểu 12 tháng sau mổ. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 114 Đánh giá chất lượng sống bằng chỉ số khuyết tật giọng nói (VHI10) và chỉ số MDIDA ở thời điểm tối thiểu 12 tháng sau mổ. KẾT QUẢ Bảng 1. Thời gian đặt ống nuôi ĕn và KKĐ Loại phẫu thuật Thời gian đặt ống KKĐ Thời gian đặt ống nuôi ĕn Cắt dây thanh 4 (3/8 TH) - Cắt TQMPTCD 11 10 Cắt TQTSN- CHEP 13 18 3/8 trường hợp cắt dây thanh có đặt ống KKĐ, không có TH nào đặt ống nuôi ĕn. Trong nhóm cắt thanh quản một phần theo chiều dọc, tất cả đều đặt ống KKĐ, 9/13 đặt ống nuôi ĕn. Trong nhóm cắt TQTSN- CHEP tất cả đều đặt ống KKĐ và ống nuôi ĕn. Bảng 2. Kết quả thời gian phát âm và phân tích cảm thụ Loại phẫu thuật MPT G R B A S I Cắt dây thanh 14±4 0,9 0,3 0,9 0,3 0,4 4,6 Cắt TQMPTCD 13±8 2,1 1,3 1,8 0,9 1,7 3,9 Cắt TQTSN - CHEP 9 ±3 2,9 2,7 2,3 1,2 2,5 3 Thời gian phát âm tối đa và đặc tính giọng sau mổ thay đổi, trong đó cắt thanh quản trên sụn nhẫn- CHEP thay đổi nhiều nhất. Bảng 3. Kết quả phân tích âm Loại phẫu thuật F0 Jitter Shimmer NHR Cắt dây thanh 117 ± 27 0,37 4,1 0,02 Cắt TQMPTCD 134 ± 38 0,44 3,9 0,03 Cắt TQTSN- CHEP 120 ± 29 0,45 4,8 0,03 Chứng 143 3,2 17 0,68 So sánh với nhóm chứng giọng nói sau mổ giảm F0, Jitter, Shimmer và NHR. Bảng 4. Kết quả chỉ số MDADI Loại phẫu thuật G E F P Cắt dây thanh 100 100 100 98 Cắt TQMPTCD 93 96 96 95 Cắt TQTSN - CHEP 80 90 85 82 Chỉ số MDADI thay đổi trên nhóm cắt thanh quản trên sụn nhẫn - CHEP và ít thay đổi trên 2 nhóm còn lại. Bảng 5. Kết quả chỉ số VHI10 Loại phẫu thuật E F P Total Cắt dây thanh 0,3 4 2,8 7,1 Cắt TQMPTCD 1 7 4 12 Cắt TQTSN- CHEP 1,9 11 5 17,9 Chỉ số VHI10 thay đổi trên nhóm cắt thanh quản trên sụn nhẫn - CHEP và thay đổi ít hơn trên nhóm cắt thanh quản một phần theo chiều dọc và cắt dây thanh. BÀN LUẬN Chức nĕng thở: Có 3 quan điểm trong đặt ống KKĐ trên BN cắt dây thanh, Martins Mamede [9] đặt ống cho tất cả các TH, Giulia Bertino[2] không đặt ống KKĐ và chỉ đặt cho các trường hợp nguy cơ. Chúng tôi đặt ống KKĐ cho các trường hợp có nguy cơ là cách tiếp cận thích hợp vừa an toàn vừa giảm tỷ lệ đặt ống KKĐ không cần thiết. Theo y vĕn, trong nhóm cắt TQMPTCD kinh điển và nhóm cắt TQTSN- CHEP đều phải đặt ống KKĐ với thời gian trung bình lần lược là 8-15 ngày[15, 3, 16], và 5-19 ngày [6_ENREF_92], [11]. Chức nĕng nuốt: Theo y vĕn trong nhóm cắt dây thanh bệnh nhân phục hồi chức nĕng nuốt nhanh, có thể ĕn lại vào ngày thứ 2 sau mổ. Trong khi nhóm cắt TQMPTCD thời gian phục hồi phụ thuộc vào biến thể của loại phẫu thuật này, cắt TQMPTCD kiểu trán bên có thời gian phục hồi nhanh nhất có thể ĕn lại vào ngày thứ 2, cắt TQMPTCD kiểu trán trước có mức độ cắt rộng hơn nên thời gian phục hồi kéo dài ghi nhận Yu[16] và Recep Zağız[15] 15 ngày. Cắt thanh quản trên sụn nhẫn - CHEP có độ rộng phẫu thuật lớn nên thời gian phục hồi kéo dài, theo y vĕn khoảng 12 - 26. Chức nĕng phát âm: thời gian phát âm tối đa của cả 3 nhóm đều có giảm trong đó cắt thanh quản trên sụn nhẫn- CHEP là giảm nhiều nhất. Điều này phù hợp với ghi nhận của các tác giả khác Antonio Schindler[13] = 6 giây, Giulia Bertino[2] = 8 giây, Milovanovic[10] = 15 giây trên BN cắt dây thanh, Abdelfattah[1] = 8 giây, Recep Yağız[15] = 9 giây , Chul Ho Kim[5] = 9 giây trên BN cắt TQTCD và Antonio Schindler[6_ENREF_92] = 8 - 11 giây trên BN cắt TQTSN-CHEP. Trong phân tích cảm thụ chất lượng giọng: các tham số của thang GRBAS đều thay đổi, trong đó nhóm cắt TQTSN-CHEP là thay đổi nặng nhất. Ngay trong cùng một loại phẫu thuật, các tác giả trên thế giới ghi nhận chất lượng giọng khác nhau trên BN có độ rộng phẫu thuật khác nhau. Trong nhóm cắt dây thanh, cắt càng rộng thì tiếng nói có chất lượng càng giảm. Schindler[13], Martins[9] ghi nhận GRBAS = ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 115 2,2,2,1,1 và GRBAS = 2,2,2,1,0. Trong nhóm cắt TQMPTCD số liệu khá tương đồng giửa các nhà nghiên cứu Abdelfattah[1] (GRBS = 2222), Dursun [3_ENREF_54] (GRBAS = 2222) và của chúng tôi GRBAS = 2212. Trong nhóm cắt TQTSN-CHEP chất lượng giọng có khác biệt giữa các nhà nghiên cứu. Điều này đang là thử thách cho các nhà lâm sàng vì sao cùng một độ rộng phẫu thuật nhưng chất lượng giọng lại khác nhau giữa các bệnh nhân. Tính dễ hiểu của cắt TQTSN- CHEP có thể chấp nhận được. Theo Yoon Kyoung So[14] tính dễ hiểu của giọng sau phẫu thuật cắt thanh quản trên sụn nhẫn- CHEP khoảng 3-4/5. Tự đánh giá ảnh hưởng của giọng lên chất lượng sống bị ảnh hưởng của nhiều yếu tố bao gồm: tâm lý, vĕn hóa và tôn giáo, cho nên kết quả khác nhau giữa các nghiên cứu Kandogan[4], Makeieff [7_ENREF_103], Antonio Schindler[12]. Mehmet Gökhan Demir[12] ghi nhận tĕng VHI theo thứ tự cắt dây thanh, cắt thanh quản một phần theo chiều dọc và cắt thanh quản trên sụn nhẫn. Nghiên cứu cũng cho thấy chỉ có sự tĕng VHI của cắt thanh quản trên sụn nhẫn là có ý nghĩa khi so với chứng. Trong nghiên cứu của chúng tôi, sau cắt dây thanh và thanh quản một phần theo chiều dọc chức nĕng nuốt phục hồi tốt, bệnh nhân ít có than phiền về ảnh hưởng của chức nĕng nuốt lên chất lượng sống, tất cả các câu trả lời trong bảng MDADI đều từ 94%- 100%. Nhưng ở nhóm cắt thanh quản trên sụn nhẫn- CHEP, kết quả cho thấy bệnh nhân tự đánh giá có sự ảnh hưởng của chức nĕng nuốt lên chất lượng sống. KẾT LUẬN Tất cả bệnh nhân sau cắt thanh quản bảo tồn có thể thở bình thường bằng mũi sau 2, 11 hay 13 ngày sau phẫu thuật tùy vào loại phẫu thuật và có thể ĕn bình thường bằng đường miệng sau 2, 10 hay 18 ngày tùy vào loại phẫu thuật. Giọng nói sau mổ thay đổi trên cả 4 đặc tính của thang GRBAS, giảm tính dễ hiểu và thời gian phát âm tối đa (9-14 giây), tĕng chỉ số tần số cơ bản F0, jitter, shimmer và NHR. Tuy nhiên mức độ thay đổi này tùy vào loại phẫu thuật. Chức nĕng nuốt có ảnh hưởng lên chất lượng sống trên bệnh nhân sau mổ cắt thanh quản trên sụn nhẫn - CHEP (MDADI = 80-90), cắt thanh quản một phần theo chiều dọc (MDADI =93-96), và không ảnh hưởng trện nhóm cắt dây thanh (MDADI = 90-100). Chất lượng giọng có ảnh hưởng đến chất lượng sống của bệnh nhân sau mổ cắt thanh quản trên sụn nhẫn - CHEP (VHI T = 18) và nhẹ hơn ở phẫu thuật cắt thanh quản một phần theo chiều dọc (VHI T = 12) và không ảnh hưởng trện nhóm cắt dây thanh (VHI= 7). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Abdelfattah H., El-Banna, Manal (2012), "Voice quality after laser cordectomy and vertical hemilaryngectomy", Alexandria Journal of Medicine, 48 (1), pp. 19-28. 2. Bertino Giulia, Bellomo Anna, Ferrero Franco E., Ferlito Alfio (2001), "Acoustic Analysis of Voice Quality with or without False Vocal Fold Displacement After Cordectomy”, Journal of Voice, 15 (1), pp. 131-140. 3. Dursun G., Ozgursoy O. B. (2005), "Laryngeal reconstruction by platysma myofascial flap after vertical partial laryngectomy”, Head Neck, 27 (9), pp. 762-70. 4. Kandogan T., Sanal A. (2005), "Quality of life, functional outcome, and voice handicap index in partial laryngectomy patients for early glottic cancer”, BMC Ear Nose Throat Disord, 5 (1), pp. 3. 5. Kim H. J., Lim W.C., Kim K., Kim Y.H., Choi H.S., Kim K.M., Choi E.G. (2003), "Vocal analysic after vertical hemilaryngectomy”, Sonsei Medical Journal, 44 (6), pp. 1034-1039. 6. Laudadio P., Presutti L., Dall'olio D., Cunsolo E., Consalici R., et al. (2006), "Supracricoid laryngectomies: long-term oncological and functional results”, Acta Otolaryngol, 126 (6), pp. 640-9. 7. Makeieff M., de la Breteque A., Guerrier B., Giovanni A. (2009), "Voice handicap evaluation after supracricoid partial laryngectomy”, Laryngoscope, 119 (4), pp. 746-50. 8. Makeieff M., Barbotte E., Giovanni A., Guerrier B. (2005), "Acoustic and aerodynamic measurement of speech production after supracricoid partial laryngectomy”, Laryngoscope, 115 (3), pp. 546-51. 9. Martins Mamede R.C., Ricz H. M.A. Aguiar-Ricz, L. N. , De Mello-Filho, F.V. (2005), "Vestibular fold flap for post-cordectomy laryngeal reconstruction”, Otolaryngology - Head and Neck Surgery, 132 (3), pp. 478-483. 10. Milovanovic J., Djukic V., Milovanovic A., Jotic A., Banko B., et al. (2013), "Clinical outcome of ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 116 early glottic carcinoma in Serbia”, Auris Nasus Larynx, 40 (4), pp. 394-9. 11. Naudo P., Laccourreye O., Weinstein G., Jouffre V., Laccourreye H., et al. (1998), "Complications and functional outcome after supracricoid partial laryngectomy with cricohyoidoepiglottopexy”, Otolaryngol Head Neck Surg, 118 (1), pp. 124-9. 12. Schindler A., Favero E., Nudo S., Albera R., Schindler O., et al. (2006), "Long-term voice and swallowing modifications after supracricoid laryngectomy: objective, subjective, and self- assessment data”, Am J Otolaryngol, 27 (6), pp. 378-83. 13. Schindler A., Palonta F., Preti G., Ottaviani F., Schindler O., et al. (2004), "Voice quality after carbon dioxide laser and conventional surgery for T1A glottic carcinoma”, J Voice, 18 (4), pp. 545-50. 14. So Y. K., Yun Y. S., Baek C. H., Jeong H. S., Son Y. I. (2009), "Speech outcome of supracricoid partial laryngectomy: comparison with total laryngectomy and anatomic considerations”, Otolaryngol Head Neck Surg, 141 (6), pp. 770-5. 15. Yagiz R. Tas A., Uzun C., Adali M.K., Koten M., Ciftci E., Karasalihoglu A.R. (2012), "Frontal Anterior Laryngectomy with Epiglottic Reconstruction (Tucker’s Operation): Oncologic and Functional Results”, Balkan Medical Journal 29, pp. 77-83. 16. Yu P., Antoine G., Bruno G. (2005), "Partial vertical laryngectomy with epiglottis reconstruction - Tucker technique”, Lin Chuang Er Bi Yan Hou Ke Za Zhi, 19 (9), pp. 389-91, 393.
File đính kèm:
- cat_thanh_quan_bao_ton_trong_dieu_tri_ung_thu_thanh_mon_giai.pdf