Các phương pháp đo lường giá trị chịu rủi ro: Ứng dụng cho Việt Nam
Bài nghiên cứu này đánh giá việc áp dụng các phương pháp đo lường giá
trị chịu rủi ro áp dụng cho thị trường Việt Nam thông qua kênh thị trường
chứng khoán. Cụ thể, các phương pháp phi tham số, bán tham số và tham
số được sử dụng để dự báo giá trị chịu rủi ro cho tỷ lệ thu nhập của VNIndex. Bài viết cho thấy việc áp dụng giả định phân phối chuẩn cho tỷ lệ thu
nhập của VN-Index đánh giá thấp rủi ro thực của thị trường chứng khoán.
Các kiểm định đánh giá lại dự báo VaR cho thấy phương pháp tham số với
giả định phân phối xác suất của tỷ lệ thu nhập của VN-Index không chuẩn,
tồn tại độ lệch và độ dày đuôi lớn hơn phân phối chuẩn, cho dự báo VaR
có độ chính xác cao nhất
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Các phương pháp đo lường giá trị chịu rủi ro: Ứng dụng cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các phương pháp đo lường giá trị chịu rủi ro: Ứng dụng cho Việt Nam
50 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 221- Tháng 10. 2020 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Các phương pháp đo lường giá trị chịu rủi ro: Ứng dụng cho Việt Nam Lê Hải Trung Học viện Ngân hàng Nguyễn Thị Mai Trang Ngân hàng TMCP Quân đội Ngày nhận: 30/04/2020 Ngày nhận bản sửa: 11/05/2020 Ngày duyệt đăng: 19/05/2020 Bài nghiên cứu này đánh giá việc áp dụng các phương pháp đo lường giá trị chịu rủi ro áp dụng cho thị trường Việt Nam thông qua kênh thị trường chứng khoán. Cụ thể, các phương pháp phi tham số, bán tham số và tham số được sử dụng để dự báo giá trị chịu rủi ro cho tỷ lệ thu nhập của VN- Index. Bài viết cho thấy việc áp dụng giả định phân phối chuẩn cho tỷ lệ thu nhập của VN-Index đánh giá thấp rủi ro thực của thị trường chứng khoán. Các kiểm định đánh giá lại dự báo VaR cho thấy phương pháp tham số với giả định phân phối xác suất của tỷ lệ thu nhập của VN-Index không chuẩn, tồn tại độ lệch và độ dày đuôi lớn hơn phân phối chuẩn, cho dự báo VaR có độ chính xác cao nhất. Từ khóa: Giá trị chịu rủi ro, Dự báo, Phân phối xác suất Forecasting Value at Risk: An application to Vietnamese market Abstract: This paper investigates several approaches to forecast Value at Risk (VaR) in Vietnam. Non-parametric, semi-parametric and parametric methods are used to forecast VaR for returns of Vietnamese stock index. Using several backtesting methods, I find that the GARCH-based model with non-Gaussian conditional return distribution yields the best forecasting performance. This finding warns the popular application of normal distribution to stock returns, which is found to underestimate the potential risk of Vietnamese stock market. Keywords: Value at Risk, Backtesting, Time series forecasting Trung Hai Le Email: trunglh@hvnh.edu.vn Banking Academy of Vietnam Trang Thi Mai Nguyen Email: maitrang2103@gmail.com Military Commercial Joint Stock Bank 1. Giới thiệu Giá trị chịu rủi ro (Value at Risk- VaR) đo lường mức độ tổn thất tối đa của việc nắm giữ trạng thái mở đối với một tài sản/danh mục tài sản tài chính trong một khoảng thời gian nhất định trong tương lai với một độ tin cậy được xác định trước. VaR là một LÊ HẢI TRUNG 51Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng công cụ phổ biến và được sử dụng rộng rãi để đo lường và kiểm soát rủi ro thị trường. Hiệp ước vốn Basel yêu cầu các ngân hàng sử dụng VaR để tính toán giá trị vốn tối thiểu yêu cầu nắm giữ đối với rủi ro thị trường. Do đó, việc tính toán và xác định chính xác giá trị VaR có vai trò quan trọng đối với hoạt động quản trị rủi ro của các ngân hàng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh thị trường tài chính có nhiều biến động mạnh như giai đoạn hiện nay bởi việc tính toán chính xác VaR mang lại sự chủ động cho các ngân hàng trong việc kiểm soát và đảm bảo an toàn hoạt động. Trong nội dung bài nghiên cứu này, tác giả tiến hành đánh giá các phương pháp phổ biến được sử dụng để tính toán và dự báo VaR cho thị trường Việt Nam. Cụ thể, tác giả ứng dụng các phương pháp tiên tiến để dự báo giá trị VaR cho biến động của thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam từ năm 2006 đến hết tháng 4/2020. Các dự báo về giá trị VaR cho tỷ lệ thu nhập của chỉ số chứng khoán VN-Index, đại diện cho thu nhập từ nắm giữ cổ phiếu trên thị trường Việt Nam sẽ được tính toán cho độ tin cậy là 99%. Các dự báo này sau đó sẽ được đánh giá lại về mức độ chính xác thông qua các kiểm định phổ biến để xem xét mức độ phù hợp và chính xác của các phương pháp trong trường hợp áp dụng cho thị trường Việt Nam. Việc nghiên cứu mô hình phù hợp để dự báo giá trị chịu rủi ro cho Việt Nam có ý nghĩa quan trọng bởi hai lý do. Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã chủ động xây dựng lộ trình triển khai và áp dụng các quy định về quản trị rủi ro chặt chẽ hơn theo chuẩn Basel II thông qua Thông tư 41/2016/TT-NHNN, yêu cầu các NHTM phải chính thức áp dụng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo chuẩn Basel II kể từ ngày 01/01/2020. Trong đó, yêu cầu vốn tối thiểu cho rủi ro thị trường được tính toán dựa trên giá trị VaR. Thứ hai, TTCK Việt Nam tuy đã có những bước phát triển nhanh chóng nhưng mức độ phát triển của thị trường vẫn còn rất sơ khai1. Võ Xuân Vinh và Trần Thị Tuấn Anh (2020) nghiên cứu các nhân tố tác đến thu nhập của các cổ phiếu niêm yết trên thị trường Việt Nam và chỉ ra rằng các yếu tố được cho là ảnh hưởng mạnh đến biến động thu nhập dựa trên các nghiên cứu trên thị trường phát triển không có ý nghĩa khi áp dụng vào thị trường Việt Nam. Sử dụng số liệu theo thời gian thực, Quách Mạnh Hào, Nguyễn Linh và Nguyễn Hoàng (2019) còn chỉ ra mối quan hệ ngược chiều của các nhân tố này tại thị trường Việt Nam so với các nghiên cứu trước đó trên thế giới. Do đó, việc áp dụng trực tiếp các mô hình đánh giá mức độ rủi ro dựa trên các nghiên cứu trên thế giới vào thị trường Việt Nam cần phải được thực hiện cẩn trọng và có sự đánh giá kỹ càng. 2. Phương pháp nghiên cứu Định nghĩa tỷ lệ thu nhập từ biến động giá hàng ngày của một tài sản tài chính tại thời điểm t bất kỳ là rt = ln(Pt/Pt - 1) , trong đó Pt là giá trị của tài sản tài chính đóng cửa tại ngày t và ln() là hàm logarit với cơ số tự nhiên. VaR t + 1, α là giá trị tại phân vị α trong phân phối xác suất của r t + 1 . Theo ý nghĩa kinh tế, giá trị VaR t + 1, α là giá trị suy giảm tối đa của r t + 1 với độ tin cậy là 1 - α, được đo lường dựa trên thông tin tại thời điểm t + 12 và mang ý nghĩa dự báo mức thua lỗ cho ngày2. 1 Ngày 26/7/2000, khi mở cửa thị trường chỉ có 2 cổ phiếu niêm yết (REE và SAM), nhưng đến hết tháng 2/2020 đang có 745 doanh nghiệp đang niêm yết trên hai sàn giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE) và Hà Nội (HNX). 2 Ở phạm vi của bài nghiên cứu này, tác giả giới hạn Các phương pháp đo lường giá trị chịu rủi ro: Ứng dụng cho Việt Nam 52 Tạp ... ác tham số đã ước lượng, VaR sẽ LÊ HẢI TRUNG 53Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng dựa trên ước lượng về giá trị trung bình và sai số chuẩn của phân phối xác suất. Với nghiên cứu này, tác giả lựa chọn mô hình GJR-GARCH, trong đó cho phép sự phản ứng khác nhau của phương sai với sự thay đổi của tỷ lệ thu nhập. Nghiên cứu của Brownlees, Engle, và Kelly (2011) chỉ ra rằng mô hình này có khả năng dự báo chính xác hơn về thay đổi của phân phối xác suất có điều kiện của tỷ lệ thu nhập hơn các mô hình cân xứng. Cụ thể, giá trị VaR được xác định như sau: rt = a0 + a1rt - 1 + σtzt σ2t = β0 + β1ε 2 t-1 + β 2 I (εt - 1<0) ε2 t-1 + β 3 σ2 t-1 trong đó, giá trị trung bình có điều kiện được mô tả thông qua biến thiên AR(1). Phương trình phương sai σ2t được thể hiện dưới dạng bất cân xứng, trong đó giá trị phương sai có điều kiện sẽ phản ứng khác nhau tùy thuộc vào tỷ lệ thu nhập ngày gần nhất, kiểm soát qua hệ số β 2 . Thông thường, giá trị sai số chuẩn zt được giả định tuân theo phân phối xác suất chuẩn hóa. Tuy nhiên, các nghiên cứu thực tế, như nghiên cứu của Bali và Theodossiou (2008), đã chỉ ra tính chất phân phối không chuẩn của tỷ lệ thu nhập với độ lệch (skewness) và độ dày đuôi (kurtosis) đáng kể. Đặc biệt, điều này có ý nghĩa quan trọng và đối với tỷ lệ thu nhập xác định từ các TTCK mới nổi do tính chất nhiễu của các nhà đầu tư cá nhân. Do đó, ở bài nghiên cứu này, tác giả sử dụng cả hai phân phối xác suất là phân phối chuẩn hóa (GARCH-norm) và phân phối SGED (GARCH-sged) của Theodossiou (2015) để đánh giá mức độ phù hợp với TTCK Việt Nam. Trong đó, phân phối xác suất SGED cho phép tồn tại độ lệch và độ dày đuôi, tùy thuộc vào các tham số kiểm soát. 2.4. Kiểm định dự báo VaR- Backtesting Việc kiểm định lại kết quả dự báo VaR có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tính chính xác của mô hình dự báo. Bởi lẽ, nếu giá trị VaR được dự báo quá thấp sẽ dẫn đến việc đánh giá chưa đúng mức rủi ro trong trạng thái nắm giữ tài sản tài chính, từ đó mang lại những thua lỗ ngoài dự tính. Ngược lại, nếu giá trị VaR được dự báo quá cao dẫn đến những quyết định quá thận trọng, bỏ lỡ các cơ hội sinh lời từ hoạt động đầu tư. Tác giả sử dụng hai kiểm định phổ biến nhất để đánh giá lại và so sánh các kết quả dự báo VaR từ các mô hình được xem xét như sau: 2.4.1. Kiểm định tính phủ phân vị không điều kiện (unconditional coverage) của Kupiec (1995) Kiểm định này dựa trên nguyên tắc là nếu như dự báo VaR là chính xác thì tỷ lệ vi phạm (số lần tỷ lệ thu nhập nhỏ hơn giá trị VaR) sẽ không khác biệt một cách có ý nghĩa thống kê so với độ tin cậy lựa chọn. Ví dụ, tỷ lệ vi phạm của VaR 0,01 sẽ không khác biệt có ý nghĩa thống kê 1% số quan sát được dự báo. Kiểm định này được đưa ra bởi Kupiec (1995), dựa trên giá trị log- likelihood sau đây: LR = 2[T u ln(T u /(αT)) + (T - T u )ln((T - T u )/ (T - αT))] Trong đó, T u là số lần vi pham, T là số quan sát dự báo. Giá trị LR sử dụng phân phối χ2(1) để đánh giá mức độ ý nghĩa thống kê. 2.4.2. Kiểm định tính độc lập của các dự báo VaR của Engle và Manganelli (2004) Bên cạnh yêu cầu đảm bảo về tính bao phủ phân vị, các dự báo VaR cần đảm bảo tính độc lập theo thời gian, nói cách khác VaRt cần độc lập với VaR t-1 . Nếu điều này không Các phương pháp đo lường giá trị chịu rủi ro: Ứng dụng cho Việt Nam 54 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 được đảm bảo sẽ dẫn đến khả năng các dự báo VaR trở nên đánh giá quá thấp hoặc quá cao mức độ rủi ro thị trường tại một thời điểm nhất định, mang tới những quyết định không chính xác trong giai đoạn thị trường biến động. Engle và Manganelli (2004) đề xuất kiểm định tính biến động của VaR thông qua việc kiểm định tính vi phạm dự báo VaR thông qua biến chuyển đổi . Nếu các dự báo VaR là độc lập thì giá trị của sẽ có giá trị kỳ vọng có điểu kiện và bất điều kiện là 0. Điều này được kiểm định thông qua việc hồi quy giá trị với các quan sát trễ với 5 chu kỳ. Giá trị hệ số kiểm định được xác định như sau: Trong đó b̂ là các hệ số của phương trình hồi quy và hệ số χ2(7) được kiểm định thông qua phân phối . 3. Kết quả nghiên cứu Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng biến động giá đóng cửa của chỉ số VN-Index từ 03/01/2006 đến 28/4/2020 từ trang web Investing.com để đại diện cho biến động của TTCK Việt Nam. Hình 1 thể hiện biến động chỉ số và tỷ lệ thu nhập VN-Index trong giai đoạn nghiên cứu. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007-2009 và diễn biến khó lường của Đại dịch Covid-19 được thể hiện khá rõ trên biểu đồ khi chỉ số VN-Index suy giảm mạnh mẽ, đi kèm với mức độ gia tăng của mức độ phương sai. Hình 1 trình bày các đặc điểm của chuỗi tỷ lệ thu nhập của chỉ số VN-Index trong giai đoạn nghiên cứu. Có thể thấy tỷ lệ thu nhập của chỉ số VN-Index có mức độ biến thiên rất cao với mức độ lệch chuẩn biến động hàng ngày là 1,47%, trong đó ngày biến động cao nhất có giá trị là 4,86% ở mức tăng và 6,48% ở mức giảm. Giá trị độ lệch (Skewness) và độ dày đuôi (Kurtosis) cho thấy phân phối xuất suất của tỷ lệ thu nhập với chỉ số VN-Index là lệch về phía trái và có độ dày đuôi cao. Điều này có nghĩa là xác suất xảy ra các quan sát với mức suy giảm lớn cao hơn so với giả định về phân phối chuẩn. Kiểm định Jarque-Bera cho kết quả hệ số kiểm định rất cao, thể hiện mức độ phân phối không chuẩn của phân phối xác suất. Để dự báo giá trị VaR, tác giả thực hiện phương pháp dự báo gối đầu (Rolling window) với mỗi mẫu ước lượng mô hình là 1.000 quan sát. Cụ thể, 1.000 quan sát đầu tiên trong mẫu được sử dụng để ước lượng các mô hình dự báo VaR. Sau đó, các ước lượng hệ số của các mô hình được sử dụng Hình 1. Biến động tỷ lệ thu nhập của VN-Index LÊ HẢI TRUNG 55Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng để dự báo giá trị cho mỗi ngày trong 10 ngày tiếp theo, với α = 0.01 tương ứng với độ tin cậy 99%. Lưu ý là dữ kiện để thực hiện việc dự báo là thông tin về biến động VN-Index tại quan sát thứ 1.000. Do đó, các dự báo VaR này cũng là các dự báo trên thực tế mà người sử dụng có thể tính toán được tại thời điểm đó (Out-of-Sample Forecast). Sau đó, mẫu ước lượng được dịch chuyển 22 ngày và hệ số của các mô hình được ước lượng lại để thực hiện dự báo VaR t, α cho 22 ngày tiếp theo. Thực hiện dự báo gối đầu như vậy, các mô hình được ước lượng 257 lần và số dự báo VaR t, α thu được là 2.564 dự báo. Hình 2 thể hiện biến động tỷ lệ thu nhập của VN-Index và dự báo giá trị VaR 1% theo các mô hình được xem xét. Hình trên cùng là các dự báo VaR theo phương pháp mô phỏng lịch sử, hình ở giữa là dự báo VaR theo phương pháp tự hồi quy phân vị, hình dưới cùng là dự báo VaR thông qua mô hình GARCh với 2 giả định về phân phối xác suất là phân phối chuẩn và phân phối SGED. Có thể thấy phương pháp tự hồi quy phân vị và phương pháp dựa trên mô hình GARCH cho dự báo giá trị VaR thay đổi tương đối sát so với biến động tỷ lệ thu nhập của VN-Index. Trong khi đó, dự báo VaR từ phương pháp mô phỏng lịch sử cho biến động không quá lớn và chịu ảnh hưởng từ các biến động mạnh của tỷ lệ thu nhập trong quá khứ (Nieto và Ruiz, 2016). Ví dụ, giai đoạn đầu của chuỗi dự báo, khi mẫu ước lượng có bao gồm các quan sát của giai đoạn khủng hoảng tài chính 2007-2009, dự báo VaR của mô hình HistSim1000 gần như không thay đổi, sau đó giảm dần khi các quan sát này rời ra khỏi mẫu ước lượng. Bảng 2 thể hiện kết quả kiểm định lại giá trị dự báo VaR của các mô hình được xem xét. Cột (1) thể hiện tỷ lệ vi phạm giá trị Nguồn: Tác giả tự tính toán từ dữ liệu tại Investing.com Bảng 2. Các giá trị thống kê của biến động tỷ lệ thu nhập VN-Index VN-Index (03/01/2006- 28/4/2020) Số quan sát 3.565 Giá trị lớn nhất 4,86 Giá trị nhỏ nhất -6,482 Giá trị trung bình 0,026 Độ lệch chuẩn 1,47 Hệ số độ lệch -0,242 Hệ số dày đuôi 1,646 Giá trị kiểm định J.B 437,14 Nguồn: Tác giả tự tính toán Ghi chú: Bảng thể hiện các đặc điểm của chuỗi tỷ lệ thu nhập của chỉ số VN-Index theo ngày trong giai đoạn nghiên cứu. Các chỉ tiêu được lựa chọn bao gồm giá trị tối đa, tối thiểu, trung bình và độ lệch chuẩn, thể hiện dưới dạng %. Chỉ tiêu J.B.test là giá trị của kiểm định Jarque-Bera cho giả định phân phối chuẩn của chuỗi tỷ lệ thu nhập Các phương pháp đo lường giá trị chịu rủi ro: Ứng dụng cho Việt Nam 56 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 Hình 2. Dự báo cho tỷ lệ thu nhập của VN-Index cho các mô hình được xem xét Nguồn: Tác giả tự tính toán LÊ HẢI TRUNG 57Số 221- Tháng 10. 2020- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng dự báo VaR trong mẫu dự báo, cột (2) thể hiện giá trị p_value cho kiểm định tính phủ không điều kiện của Kupiec (1995) cho giả thuyết là các dự báo VaR có tính chính xác trong dự báo phân vị của phân phối xác suất của tỷ lệ thu nhập. Cột (3) thể hiện giá trị p_value của kiểm định DQ của Engle và Manganelli (2004) cho tính độc lập của các dự báo VaR với giả thuyết là mô hình đưa ra dự báo VaR có tính phủ phân vị và các dự báo là độc lập với nhau. Có thể thấy, các mô hình đưa ra các dự báo VaR có tính phủ phân vị tương đối chính xác, ngoại trừ mô hình GARCH-Norm với tỷ lệ vi phạm dự báo VaR cao, ở mức 1,724%. Mô hình bị bác bỏ bởi kiểm định tính phủ phân vị của Kupiec (1995), cho thấy việc giả định phân phối xác suất của tỷ lệ thu nhập VN-Index là phân phối chuẩn sẽ mang lại những dự báo VaR quá thấp, qua đó đánh giá thấp rủi ro đối với biến động của VN-Index. Kết quả kiểm định DQ cho thấy chỉ duy nhất mô hình GARCH-SGED cho ra các dự báo VaR đảm bảo tính phủ phân vị và các dự báo này là độc lập với nhau, hạn chế khả năng bị vi phạm một cách có hệ thống trong các thời điểm nhất định. Kết quả này cho thấy rằng đối với một thị trường có mức độ biến động lớn như Việt Nam, cần thiết phải tính tới việc phân phối không chuẩn của tỷ lệ thu nhập để hạn chế các đánh giá sai lệch về rủi ro trên thị trường. 4. Kết luận Bài nghiên cứu này đánh giá các phương pháp dự báo giá trị chịu rủi ro- VaR, ứng dụng cho thị trường Việt Nam thông qua kênh TTCK. Ba phương pháp khác nhau dựa trên các mô hình phi tham số (HistSim), bán tham số (CAViaR) và tham số (GARCH) được xem xét để dự báo giá trị VaR với độ tin cậy 99% theo thời gian thực. Các dự báo VaR được kiểm định lại với điều kiện dự báo chính xác cần đảm bảo tính phủ phân vị và tính độc lập giữa các dự báo. Kết quả kiểm định lại dự báo VaR từ các mô hình cho thấy chỉ duy nhất mô hình GARCH-SGED với việc ước lượng phân phối xác suất có điều kiện với giả định phân phối không chuẩn cho tỷ lệ thu nhập VN-Index cho ra kết quả dự báo VaR có tính chính xác cao nhất. Điều này cho thấy các mô hình thông thường giả định phân phối chuẩn cho tỷ lệ thu nhập của VN- Index sẽ mang lại các dự báo VaR thấp hơn so với rủi ro thực tế trên thị trường. Kết quả nghiên cứu này có thể mang tính ứng dụng đối với việc áp dụng các mô hình dự báo giá trị chịu rủi ro trong tính toán yêu cầu Bảng 2. Kết quả kiểm định dự báo VaR Mô hình Hệ số vi phạm (%) Kiểm định độ phủ không điều kiện Kiểm định tính độc lập của dự báo VaR HistSim1000 0.784 0.254 0 HistSim250 1.293 0.155 0 CAViaR-Sav 1.058 0.771 0.012 CAViaR-As 1.332 0.108 0.026 GARCH-Norm 1.724 0.001 0.001 GARCH-SGED 1.215 0.292 0.422 Nguồn: Tác giả tự tính toán Ghi chú: Bảng thể hiện kết quả kiểm định lại các dự báo VaR cho các mô hình được xem xét. Cột (1) thể hiện tỷ lệ vi phạm giá trị dự báo VaR trong mẫu dự báo Các phương pháp đo lường giá trị chịu rủi ro: Ứng dụng cho Việt Nam 58 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 221- Tháng 10. 2020 vốn tối thiểu cho rủi ro thị trường tại các ngân hàng trong bối cảnh ứng dụng hiệp ước vốn Basel II ■ Tài liệu tham khảo 1. Bali, Turan G., và Panayiotis Theodossiou. 2008. “Risk Measurement Performance of Alternative Distribution Functions.” Journal of Risk và Insurance 75 (2): 411–37. 2. Berkowitz, Jeremy, Peter Christoffersen, và Denis Pelletier. 2011. “Evaluating Value-at-Risk Models with Desk- Level Data.” Management Science 57 (12): 2213–27. 3. Brownlees, Christian, Robert F. Engle, và Bryan Kelly. 2011. “A Practical Guide to Volatility Forecasting through Calm và Storm.” The Journal of Risk 14 (2): 12. 4. Engle, Robert F., và Simone Manganelli. 2004. “CAViaR: Conditional Autoregressive Value at Risk by Regression Quantiles.” Journal of Business và Economic Statistics 22 (4): 367–81. 5. Glosten, Lawrence R., Ravi Jagannathan, và David E. Runkle. 1993. “On the relation between the expected value và the volatility of the nominal excess return on stocks.” Journal of Finance 48 (5): 1779–1801. 6. Kupiec, Paul H. 1995. “Techniques for Verifying the Accuracy of Risk Measurement Models.” The Journal of Derivatives 3 (2): 73–84. 7. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2016. “Thông tư 41/2016/TT-NHNN Quy định về tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàn nước ngoài”. 8. Nieto, Maria Rosa, và Esther Ruiz. 2016. “Frontiers in VaR Forecasting và Backtesting.” International Journal of Forecasting 32 (2): 475–501. 9. Quach, Hao, Hoang Nguyen, và Linh Nguyen. 2019. “How Do Investors Price Stocks?—Evidence with Real-Time Data from Vietnam.” International Journal of Finance & Economics 24 (2): 828–40. 10. Theodossiou, Panayiotis. 2015. “Skewed generalized error distribution of financial assets và option pricing.” Multinational Finance Journal 19 (4): 223–66. 11. Vinh, Vo X., và Tran Thi Tuan Anh. 2020. “Higher-Order Comoments và Asset Returns: Evidence from Emerging Equity Markets.” Annals of Operations Research, 1–18. 12. https://www.investing.com/indices/vn-historical-data
File đính kèm:
- cac_phuong_phap_do_luong_gia_tri_chiu_rui_ro_ung_dung_cho_vi.pdf