Bước đầu nghiên cứu kiến (Hymenoptera: Formicidae) món ăn đặc sản truyền thống ở cao nguyên Mộc Châu, tỉnh Sơn La
Bài báo nghiên cứu bước đầu về kiến (Hymenoptera: Formicidae) ở cao nguyên
Mộc Châu, tỉnh Sơn La thuộc vùng Tây bắc Việt Nam trong năm 2017. Nhóm nghiên cứu đã
xác định có ba loài kiến là kiến đen (Formica fusa Linnaeus, 1758), kiến gai đen (Polyrhachis
dives Smith, 1857) và kiến vàng (Oecophylla smaragdina Fabricius, 1775). Trứng của chúng
đã được đồng bào dân tộc Thái bản địa khai thác sử dụng làm món ăn đặc sản và bổ dưỡng.
Bài báo giới thiệu kết quả nghiên cứu bước đầu về đặc điểm hình thái phân loại, sinh học sinh
thái và phân bố, tập tính dinh dưỡng và sinh sản của ba nhóm kiến trên. Vấn đề giá trị dinh
dưỡng, định hướng khai thác và bảo tồn bền vững nguồn tài nguyên kiến ở vùng nghiên cứu
cũng được bàn luận trong báo cáo.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bước đầu nghiên cứu kiến (Hymenoptera: Formicidae) món ăn đặc sản truyền thống ở cao nguyên Mộc Châu, tỉnh Sơn La
117 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1059.2018-0012 Natural Sciences 2018, Volume 63, Issue 3, pp. 117-124 This paper is available online at BƢỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU KIẾN (HYMENOPTERA: FORMICIDAE) MÓN ĂN ĐẶC SẢN TRUYỀN THỐNG Ở CAO NGUYÊN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA Vũ Quang Mạnh1,2, Hà Trà My1, Hà Hồng Phượng3, SonexayRasphone4 và Sakkouna Phommavongsa 5 1 Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội 2Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh 3Trường THCS Mộc Lỵ, Mộc Châu tỉnh Sơn La 4Trường Đại học Savannakhet, 5Trường THPT Nong Bon, Viêng Chăn, nước CHDCND Lào Tóm tắt. Bài báo nghiên cứu bước đầu về kiến (Hymenoptera: Formicidae) ở cao nguyên Mộc Châu, tỉnh Sơn La thuộc vùng Tây bắc Việt Nam trong năm 2017. Nhóm nghiên cứu đã xác định có ba loài kiến là kiến đen (Formica fusa Linnaeus, 1758), kiến gai đen (Polyrhachis dives Smith, 1857) và kiến vàng (Oecophylla smaragdina Fabricius, 1775). Trứng của chúng đã được đồng bào dân tộc Thái bản địa khai thác sử dụng làm món ăn đặc sản và bổ dưỡng. Bài báo giới thiệu kết quả nghiên cứu bước đầu về đặc điểm hình thái phân loại, sinh học sinh thái và phân bố, tập tính dinh dưỡng và sinh sản của ba nhóm kiến trên. Vấn đề giá trị dinh dưỡng, định hướng khai thác và bảo tồn bền vững nguồn tài nguyên kiến ở vùng nghiên cứu cũng được bàn luận trong báo cáo. Từ khoá: Kiến, Formica fusa, Polyrhachis dives, Oecophylla smaragdina, món ăn truyền thống, dân tộc Thái. 1. Mở đầu Côn trùng (Insecta) là lớp động vật có số loài nhiều nhất trong giới Động vật. Chúng phân bố ở mọi sinh cảnh và tham gia tích cực vào các quá trình sinh học của hệ sinh thái tự nhiên và nhân tác toàn cầu. Nhiều nhóm côn trùng có môi trường sống là hệ sinh thái đất và các sinh cảnh liên quan. Côn trùng đất, đặc biệt là nhóm kiến sống tập đoàn, có đóng góp quan trọng và tham gia tích cực vào các chu trình luân chuyển vật chất. Kiến thuộc bộ Cánh màng (Hymenoptera), chúng là loài côn trùng xã hội với các tập tính sống tập đoàn phức tạp [1-4]. Theo Bolton (2010) trên thế giới có khoảng 14.095 loài kiến thuộc 299 giống, 22 phân họ, đã được mô tả, chúng phân bố khắp nơi từ vùng ôn đới đến nhiệt đới và đặc biệt phổ biến ở những vùng rừng nhiệt đới, nơi chúng có thể chiếm đến một nửa số lượng côn trùng đang sinh sống [5]. Nghiên cứu của Bùi Tuấn Việt (2004) về kiến ở miền Bắc Việt Nam đã ghi nhận được khoảng 300 loài kiến, thuộc 88 giống và 9 phân họ [6]. Số lượng loài kiến xác định được ngày càng tăng lên. Năm 2011, trong dự án hợp tác Việt - Nga, Zryanin đã đưa ra danh sách các loài kiến ở miền Nam Việt Nam với 272 loài thuộc 68 giống và 12 phân họ [7]. Năm 2015, theo nghiên cứu của Đại học Hong Kong, trong dự án Antmaps - Thành lập bản đồ phân bố vị trí địa lí của kiến, đã xác định ở Việt Nam hiện biết 379 loài kiến bản địa [8]. Ngày nhận bài: 15/3/2018. Ngày sửa bài: 23/3/2018. Ngày nhận đăng: 30/3/2018. Tác giả liên hệ: Vũ Quang Mạnh. Địa chỉ e-mail: vqmanh@hnue.edu.vn Vũ Quang Mạnh, Hà Trà My, Hà Hồng Phượng, SonexayRasphone và Sakkouna Phommavongsa 118 Ở ngoài tự nhiên, là những côn trùng ăn thịt và xác vụn hữu cơ các tổ kiến với hàng vạn cá thể thành viên có ý nghĩa quan trọng trong các chu trình dinh dưỡng ở đất, là một mắt xích không thể thiếu trong chuỗi chuyển hóa năng lượng liên tục. Kiến còn là động vật tiêu thụ giúp phát tán các hạt cây và góp phần làm đất đai thêm tơi xốp qua hoạt động đào bới hang tích cực [3, 9]. Một vài loài kiến đóng vai trò quan trọng cho quá trình thụ phấn ở thực vật, diệt trừ một số nhóm sâu hại và cải tạo đất. Bên cạnh đó một vài loài lại phá hoại cây trồng, chúng còn là các vecto mang truyền các bệnh ở thực vật [4]. Hiện nay ngoài những ý nghĩa tự nhiên của chúng, con người đã biết khai thác loài côn trùng đông đảo này phục vụ cho đời sống, như sử dụng một số nhóm kiến làm thiên địch tự nhiên bảo vệ một số cây hoa màu [10]. Ở nhiều nước như Ấn Độ, Trung Quốc, đặc biệt các nước thuộc khu vực Đông Nam Á (Thái Lan, Việt Nam, Lào...) một số loài kiến đã được khai thác ấu trùng hay trứng làm thức ăn, nuôi chim, cá cảnh hoặc làm dược phẩm [11-13]. Vốn là cư dân lâu đời của vùng cao nguyên Mộc Châu ở độ cao trên 900 mét trên mặt biển, dân tộc Thái từ xa xưa đã có truyền thống khai thác sử dụng kiến và đặc biệt là trứng của chúng làm món ăn bổ dưỡng và khoái khẩu trong bữa ăn hàng ngày. Về mặt dinh dưỡng trứng kiến được đánh giá cao nên ngày càng được ưa chuộng, nhưng do số lượng trứng kiến trong tự nhiên không nhiều, chỉ có theo mùa, cách khai thác của người dân còn dễ làm “tổn thương” đến sự đa dạng loài nói chung. Hiện nay các nghiên cứu về kiến ở Việt Nam chủ yếu tập trung ở các khu bảo tồn và Vườn Quốc gia, cùng với một số khu vực lân cận các thành phố lớn [5, 8, 14]. Ở vùng cao nguyên Mộc Châu, thuộc vùng đồi núi Tây bắc Việt Nam, hiện chưa có nghiên cứu khoa học nào về vấn đề này. Bài báo giới thiệu kết quả khảo sát ban đầu về quần xã kiến (Forrmicidae) và khả năng khai thác sử dụng chúng làm thức ăn cho con người. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Vật liệu và phƣơng pháp nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các loài kiến (Insecta: Forrmicidae), đang được người dân khai thác sử dụng trứng làm thức ăn ở vùng nghiên cứu. Trong năm 2017, khảo sát ba đợt vào tháng 6 - 8 - 10, nghiên cứu được tiến hành tại 3 bản thuộc 3 xã của huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, bao gồm bản Áng thuộc xã Đông Sang, bản Vặt thuộc xã Mường Sang và bản Trai Tôn thuộc xã Tà Lại. Tiến trình nghiên cứu bao gồm tổng quan thu thập và xử lí các tư liệu khoa học, sau đó điều tra khảo sát nghiên cứu thực địa. Sử dụng phương pháp thu mẫu bằng bẫy mồi và thu mẫu bằng tay. Định hình mẫu vật thu được bằng cồn 70%, sau đó phân loại bằng kính hiển vi có độ phóng đại 4-60 lần [15]. Phân tích xử lí số liệu theo dữ liệu kiến tại “antweb.org, antwiki.org” [11-13]. Phân loại hình thái và nhận dạng kiến theo tài liệu của Bolton (1994) và các ... . Các nhóm kiến thợ có thể săn mồi thậm chí là các loài bò sát, chim mới sinh có kích thước nhỏ. Kiến vàng (Oecophylla smaragdina Fabricius, 1775) chủ yếu ăn ấu trùng của một số loài bướm xanh và một số động vật không xương sống như bọ cánh cứng, ruồi và một số nhóm cánh màng khác, chúng đặc biệt thích mật của rệp cây. Kiến thợ có khả năng tiết ra chất độc nhẹ khi cắn con mồi, làm chúng bị tê liệt. Ngoài ra mật của một số loài hoa cũng thu hút nhóm kiến này. Nhóm kiến vàng cũng có tập tính “chăn” rệp cây, diệt trừ các côn trùng gây hại với nhóm rệp, thậm chí xua đuổi các nhóm kiến khác đến gần khu vực chăm sóc rệp của chúng. Cũng chính vì tập tính “chăn” rệp để thu mật này, nên đôi khi chúng làm tổ ngay gần khu vực sinh sống của đàn rệp để tiện chăm sóc và thu hoạch. Bước đầu nghiên cứu kiến (Hymenoptera: Formicidae) món ăn đặc sản truyền thống 121 Như vậy, trong đời sống tập đoàn tập tính tương tác giữa các cá thể hay các đẳng cấp kiến thường được chi phối nhờ tác động của các pheremon mà chúng tiết ra, để có thể cảnh báo nguy hiểm hoặc thông tin cho nhau đến nguồn thực phẩm. Các nhóm kiến thường có phổ thức ăn rộng, một số ăn hạt, có cả loài ăn nấm, ăn xác chết... nhưng nhìn chung chúng thích đồ ngọt và mật của rệp cây [3, 4]. Hầu hết các loài kiến là động vật ăn tạp nhưng một vài loài chỉ ăn một loại thức ăn đặc trưng, nhất định. 2.2.4. Tập tính sinh sản phát triển của kiến ở vùng nghiên cứu Cùng với các loài ong, mối, kiến là loài động vật không xương sống có tập tính xã hội phức tạp, trong đời sống có sự phân chia đẳng cấp rõ rệt. Sự phân công chức năng giữa các nhóm đẳng cấp và tổ chức xã hội ở các tổ kiến, nhiều khi còn cao hơn ở tổ ong [3]. Vào thời điểm cuối xuân đầu hạ, là thời điểm kiến giao hoan, những đôi kiến chúa và kiến đực vừa bay vừa thực hiện giao phối. Phối giống xong, con đực chết, kiến chúa sẽ tìm nơi làm tổ và bắt đầu đẻ trứng [9]. Giống như nhiều loài côn trùng khác. Vòng sinh trưởng phát triển của các loài kiến cũng trải qua bốn giai đoạn khác nhau: bắt đầu từ trứng, kiến phát triển qua biến thái hoàn toàn với giai đoạn ấu trùng sau đó hình thành nhộng và biến thái thành kiến trưởng thành. Giai đoạn sinh trưởng của kiến thường từ vài tuần đến vài tháng, phụ thuộc vào từng loài kiến và điều kiện môi trường [4, 9]: - Trứng: Kiến chúa sau khi giao phối thành công với kiến đực sẽ bắt đầu đẻ trứng. Kiến chúa tìm một nơi thích hợp để làm tổ và đẻ trứng. Trứng kiến nhỏ, đường kính 0,5 mm, màu trắng, hình bầu dục và trong suốt. - Ấu trùng: Sau 1 - 2 tuần nằm trong trứng, ấu trùng nở. Ấu trùng có hình quả lê, hoặc bầu dục, màu trắng nhạt. Phần đầu và khoang miệng nằm ở phần đầu mút hẹp của cơ thể. Phần lớn chúng nằm bất động và được chăm sóc bởi kiến trưởng thành. Giai đoạn này chúng phàm ăn mãnh liệt, ấu trùng phát triển qua 4 - 5 lần lột xác rồi tiến vào giai đoạn nhộng. - Nhộng: Sau khi ấu trùng đã rụng lông và lột xác, hình thành nhộng. Nhộng nhìn bề ngoài có vẻ giống kiến trưởng thành nhưng chúng không có chân và râu cuộn lại được giấu trong cơ thể, cơ thể mềm, màu trắng, vì không có chân nên chúng không di chuyển và ăn uống. Nhộng kiến có các phần phụ linh hoạt, ở một vài loài nhộng là nhộng trần, phần còn lại sẽ nằm trong kén tơ hình thành bởi lớp cuticun từ giai đoạn cuối của ấu trùng. - Kiến trưởng thành: Khi đã hoàn thành giai đoạn nhộng, kiến trưởng thành chui ra. Khi mới nở, chúng phát triển hoàn toàn, nhưng có màu đậm hơn. Kiến trưởng thành có xu hướng phân hoá thành các đẳng cấp khác nhau với chức phận và nhiệm vụ khác nhau. Thông thường trong một tổ kiến có thể phân biệt 5 dạng đẳng cấp xã hội chính: kiến chúa với chức năng sinh sản, mỗi tổ kiến thường có 10 - 15 cá thể kiến chúa. Kiến đực: là các cá thể đực có phần ngực, cánh và cơ quan sinh dục đực phát triển. Kiến thợ: là những cá thể kiến cái, với cơ quan sinh dục tiêu giảm. Chúng chiếm số lượng lớn trong đàn. Cơ thể kiến thợ có cấu trúc thích ứng với tập tính sống linh hoạt lao động và đi lại nhiều, với hệ cơ quan cảm giác phát triển. Kiến lính: là dạng biến đổi từ kiến thợ, chuyên hoá cho các công việc nặng nề và cắt xẻ là chính. Ngoài các dạng kiến trên, còn có một số dạng kiến trung gian [3]. 2.2.5. Giá trị và định hƣớng khai thác bền vững tài nguyên kiến ở vùng nghiên cứu Năm 2008, tạp chí Journal of Natural Products đã đăng tải kết quả nghiên cứu của các chuyên gia Hiệp hội Hóa học Mỹ giúp hiểu rõ tại sao kiến có thể chữa được các bệnh như đau khớp hoặc viêm gan trong nền y học cổ truyền của người Trung Quốc. Các nhà khoa học Mỹ cũng phát hiện ra Polyketide trong trứng kiến là một chất chuyển hóa có tác dụng bảo vệ và liên lạc trong tế bào. Song song đó cũng nhiều kết quả nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng, Polyketide có thể ngăn ngừa chứng viêm khớp, nhiễm khuẩn và các bệnh khác, vì vậy các sản phẩm của bột kiến có nhiều ý nghĩa như: hỗ trỡ chức năng nội tạng, làm bình ổn hoạt động thần kinh, Vũ Quang Mạnh, Hà Trà My, Hà Hồng Phượng, SonexayRasphone và Sakkouna Phommavongsa 122 làm đẹp da, loại trừ các yếu tố bệnh tật, điều chỉnh và thúc đẩy tuần hoàn. Thích hợp cho điều trị: viêm khớp, thấp khớp, mất ngủ, tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh gan thứ phátNhững sản phẩm từ kiến rất tốt cho hệ miễn dịch của cơ thể, nâng cao sức đề kháng của con người. Gần đây, người ta còn phát hiện trong trứng kiến đen chứa chất Trytokc có công hiệu tăng cường trí nhớ [20]. Theo kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy, trong kiến và trứng kiến gai đen chứa một lượng phong phú protein, muối khoáng và một lượng nguyên tố vi lượng, cụ thể chứa một lượng phong phú protein, muối khoáng và một lượng nguyên tố vi lượng: 120-198mg Zn2+/Kg, lượng protein chiếm 40-67%, trong đó có đến trên 20 loại acid amin với 8 loại acid amin là lysine, leucine, isoleucin, valin, arginin, phenylanin, methionine, histidin là những acid amin mà cơ thể người không tự tổng hợp được. Trứng kiến chứa một lượng Vitamin A, D, E, B1, B2, B12, E, 10 nguyên tố đa, vi lượng: Ca2+, K2+, Cu2+, Fe2+, Zn2+, Br-, Mn2+, Cr2+, đáng kể và một hàm lượng các chất acid formic, hydrocacbon alphatic, isoxanthopterin, 2-amino-6-hydroxypteridin và bioterin. Nghiên cứu của TS Nguyễn Thị Vân Thái và cộng sự (Bệnh viên Y học cổ truyền TW) cũng cho biết trong dịch chiết từ trứng kiến gai đen (P. dives Smith, 1857) có tác dụng tăng cường thể lực, tăng cường hoạt động thần kinh cao cấp trên động vật thí nghiệm [20, 21]. Ở Việt Nam, nghiên cứu của TS Nguyễn Thị Vân Thái và cộng sự (Bệnh viên Y học cổ truyền Trung Ương) cũng cho biết trong dịch chiết từ trứng kiến gai đen (P. dives Smith, 1857) có tác dụng tăng cường thể lực, tăng cường hoạt động thần kinh cao cấp trên động vật thí nghiệm [21]. Các số liệu phân tích cho thấy trứng kiến có thể là một loại thực phẩm tiềm năng chứa nhiều hoath chất sinh học quý. Chưa có một nghiên cứu cơ bản nào về đa dạng loài kiến ở vùng nghiên cứu thuộc cao nguyên Mộc Châu [22]. Nghiên cứu khảo sát cho thấy, người dân bản địa tại Mộc Châu thu bắt trứng kiến vào một thời gian nhất định trong năm, thông thường trong các tháng từ 3 đến 7 dương lịch. Dụng cụ thu bắt thường là dao để chặt những cành cây có tổ kiến xuống và mẹt để sàng sẩy lấy trứng. Mặc dù cách thức thu bắt đơn giản, nhưng để đảm bảo giữ gìn về mặt sinh học cho nhóm côn trùng này, chỉ nên tiến hành thu bắt các tổ đã “trưởng thành”, còn những tổ kích thước quá nhỏ hay mới hình thành chưa nên khai thác. Trứng của loài kiến gai đen và kiến đen có vị thơm, ngon, bùi hơn so với trứng kiến vàng có vị chua và hơi hắc. Về giá trị dinh dưỡng, và hương vị, trứng kiến gai đen được đánh giá quý và bổ dưỡng nhất nên giá thành thường cao hơn so với các loại trứng kiến khác. Ở vùng nghiên cứu, trứng kiến đã được khai thác làm món ăn đặc sản truyền thống lâu đời, của các đồng bào dân tộc ít người đặc biệt là dân tộc Thái. Người Thái, thường chế biến trứng kiến thành các món như xôi trứng kiến, trứng kiến xào... Hình 2. Xôi trứng kiến (Tiếng Thái: Kháu niểu nứng khoa tồ mốt) (Nguồn ảnh: nhóm nghiên cứu) Bước đầu nghiên cứu kiến (Hymenoptera: Formicidae) món ăn đặc sản truyền thống 123 Như vậy, việc sử dụng kiến và trứng của chúng làm nguồn thức ăn sinh học bổ dưỡng cho con người là một hướng tiềm năng trong xu hướng sử dụng thức ăn côn trùng trên toàn thế giới. Để bảo tồn tài nguyên đa dạng sinh học nói chung và quần thể kiến nói riêng, việc triển khai thử nghiệm một số mô hình nuôi kiến lấy trứng là một định hướng gợi mở cho việc bảo tồn và khai thác bền vững tài nguyên sinh vật ở cao nguyên Mộc Châu. Những kết quả này là những khảo sát bước đầu, vì vậy cần có thêm các nghiên cứu bổ sung về các loài kiến có thể được khai thác sử dụng trứng làm thức ăn ở vùng nghiên cứu và các đặc điểm sinh học sinh thái của chúng. 3. Kết luận 1. Đã xác định được ba loài kiến thường được sử dụng làm món ăn truyền thống của đồng bào Thái ở cao nguyên Mộc Châu tỉnh Sơn La là Kiến đen (Formica fusa Linnaeus, 1758), Kiến gai đen (Polyrhachis dives Smith, 1857) và Kiến vàng (Oecophylla smaragdina Fabricius, 1775). 2. Ba loài kiến trên khác nhau về hình thái, sinh học sinh thái và phân bố theo tầng thẳng đứng. Kiến đen làm tổ trong đất, kiến gai đen làm tổ ở sinh cảnh rừng tre và cây gỗ, và kiến vàng làm tổ trên tán cây ven suối nhờ các lá cây kết nối bằng sợi tơ ấu trùng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Vũ Quang Mạnh (Cb), Tạ Huy Thịnh, Vũ Văn Tuyển, 1995. Thế giới Đa dạng sinh vật đất. Nxb Khoa học và Kỹ thuật, tr. 1-136. [2] Vũ Quang Mạnh, 2006. Thế giới côn trùng trong lòng đất. Nhà xuất bản Giáo dục, tr. 1-144. [3] Vũ Quang Mạnh, 2008. Sinh thái học đất. Nxb Giáo dục, tr. 165-169. [4] Vũ Quang Mạnh, Nguyễn Thanh Thủy, 2010. Đời sống côn trùng quanh ta, Tập 2: Côn trùng Cánh Màng (Hymenoptera). Nxb Giáo dục, tr. 1-144. [5] Nguyễn Thị Thu Hường, 2015. Một số dẫn liệu về đa dạng kiến (Insecta: Hymenoptera: Formicidae) ở khu bảo tồn thiên nhiên Hòn Bà, Khánh Hoà. Luận văn Thạc sĩ Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, tr. 1-63. [6] Bùi Việt Tuấn, 2004. Dẫn liệu bổ sung về đa dạng kiến (Hymenoptera: Formicidae) ở miền Bắc Việt Nam. Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong khoa học sự sống. Báo cáo Hội nghị toàn quốc. [7] Zryanin V.A., 2011. Analysis of the local ant fauna (Hymenoptera: Formicidae) in Southern Vietnam. Entomological Review, 91 (2): 198- 211. [8] Bùi Thanh Xuân, Vũ Xuân Trường, Nguyễn Văn Quảng, Bùi Việt Tuấn, 2017. Thành phần loài kiến (Hymenoptera: Formicidae) ở Hà Nội và vùng phụ cận. Hội nghị Côn trùng học Quốc gia lần thứ 9. [9] Vũ Quang Mạnh (Cb), Trịnh Nguyên Giao, 2002. Hỏi đáp về tập tính động vật. Nxb Giáo dục, trang 1-135. [10] Bùi Việt Tuấn, 2005. Tiềm năng sử dụng kiến (Hymenoptera: Formicidae) trong biện pháp phòng trừ sinh học. Hội nghị khoa học Bảo vệ thực vật toàn quốc lần thứ 2. [11] Antwiki: [12] Antwiki: [13] Antkiwi: Vũ Quang Mạnh, Hà Trà My, Hà Hồng Phượng, SonexayRasphone và Sakkouna Phommavongsa 124 [14] Bùi Việt Tuấn, Nguyên Quang Cường, Katsyuki Eguchi., 2007. Các loài kiến hoạt động trong vùng dân cư phía bắc Việt Nam (Insecta: Hymenoptera: Formicidae). Hội nghị khoa học toàn quốc về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật lần thứ hai. [15] Viet Bui Tuan, 2005. Contribution to study biodiversity and environmental conservation in case of study on ant biodiversity in Vietnam. Report on Insect Inventory Project in Tropic Asia (TAIIV), pp 103-115. [16] Bolton B., 1994. Identification guide to the ant genera of the Wold. Harvard University Press, US. [17] Eguchi K., Bui T.V., Yamane S., 2011. Generic Synopsis of the Formicidae of Vietnam (Insecta: Hymenoptera). Part I – Myrmicinae and Pseudomyrmecinae. Zootaxa, 2878: 1-61. [18] Eguchi K., Bui T.V., Yamane S., 2014. Generic Synopsis of the Formicidae of Vietnam (Insecta: Hymenoptera). Part II – Cerapachyinae, Aenictinae, Dorylinae, Leptanillinae, Amblyoponinae, Ponerinae, Ectatomminae and Proceratiinae. Zootaxa, 3860 (1): 1-46. [19] Hosoichi S. And Ogata K., 2016. Systematics and biogeography of the ant genus Crematogaster Lund subgenus Orthocrema Santschi in Asia (Hymenoptera: Formicidae). Zoological Journal of the Linnean Society, 176: 547- 606. [20] Kiến gai đen món quà sức khoẻ cho gia đình: https://sites.google.com /site/trungkiengaiden/baochiviet [21] Nông nghiệp Việt Nam: 79404.html [22] Le Thanh Bao, Bui Xuan Trang, 2017. Initial data on the composition of ants (Hymenoptera: Formicidae) in Thuong Tien Nature Reserve, Hoa Binh province. Journal of Forestry Science and Technology, pp 106-109. ABSTRACT Initial study on ants (Hymenoptera: Formicidae) - A traditional delicacy at Moc Chau pleatau, Son La province Vu Quang Manh 1 , Ha Tra My 1 , Ha Hong Phuong 2 , SonexayRasphone 3 and Sakkouna Phommavongsa 4 1 Hanoi National University of Education, Vietnam 2 Moc Ly Secondary school, Moc Chau - Son La, Vietnam 3 Savannakhet University, Laos, 4 Nong bon High school of Vientiane Capital, Laos In 2017, initial study on ants (Hymenoptera: Formicidae) was conducted in Moc Chauplateau of Son La province, Northwest of Vietnam. Three antspecies belonging to three genera were identified, namely Formica fusa Linnaeus, 1758, Polyrhachis dives Smith, 1857 and Oecophylla smaragdina Fabricius, 1775. These three ant species and especially their eggs have long been used as traditional delicacy by local Thai ethnic peoples. The article introduced a study results on their morphological and ecological characteristics as well as reproductive behavior. The nutritional value and orientation of exploitation and sustainable conservation of ant resources are also discussed in the article. Keywords: Ant, Formica fusa, Polyrhachis dives, Oecophylla smaragdina, traditional delicacy, Thai ethnic people.
File đính kèm:
- buoc_dau_nghien_cuu_kien_hymenoptera_formicidae_mon_an_dac_s.pdf