Biến đổi khí hậu và phát triển bền vững ở Việt Nam
Biến đổi khí hậu, tiêu biểu là xu thế nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng, các thiên tai hiện hữu gia tăng với tính chất cực đoan hơn được minh chứng từ các số liệu đo đạc thực tế và những kết quả nghiên cứu khoa học ở trong và ngoài nước, đến nay có thể nói là bất khả kháng, ít nhất là trong thế kỷ 21.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Biến đổi khí hậu và phát triển bền vững ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến đổi khí hậu và phát triển bền vững ở Việt Nam
KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ VIỆT NAM HỌC LẦN THỨ BA TIỂU BAN: TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN, MÔI TRƯỜNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 579 BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM Nguyễn Đức Ngữ* Mở đầu Biến đổi khí hậu, tiêu biểu là xu thế nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng, các thiên tai hiện hữu gia tăng với tính chất cực đoan hơn được minh chứng từ các số liệu đo đạc thực tế và những kết quả nghiên cứu khoa học ở trong và ngoài nước, đến nay có thể nói là bất khả kháng, ít nhất là trong thế kỷ 21. Hơn nữa, có nhiều khả năng những xu thế nói trên còn diễn ra với tốc độ cao hơn so với những gì đã xảy ra trong thế kỷ 20, cho dù các nước thực hiện ngay nghĩa vụ giảm phát thải các khí gây hiệu ứng nhà kính theo Nghị định thư Kyoto để có thể ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức hiện nay, điều hầu như không có khả năng trở thành hiện thực. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu đến khí hậu Việt Nam là rõ rệt, ít nhất từ nửa cuối thế kỷ 20, rõ rệt nhất từ thập kỷ 1991 - 2000 đến nay với xu thế chung là nhiệt độ tăng lên ở tất cả các vùng, các thiên tai hiện hữu (bão, lũ, lụt, hạn hán, hiện tượng El Nino, La Nina, tố lốc, sạt lở đất....) tăng lên về cường độ và về tính chất dị thường, cực đoan, một số tăng lên cả về tần suất xảy ra, mực nước biển trung bình tăng lên ở các trạm hải văn ven biển. Nước ta có bờ biển dài với nhiều vùng đất thấp ven biển đang phát triển với tốc độ cao, nhiều thiên tai xảy ra hàng năm. BĐKH toàn cầu đang làm tăng tính biến động, tính dị thường và tính cực đoan của những thiên tai khí tượng thủy văn, gây khó khăn cho công tác dự báo và phòng tránh, làm cho thiệt hại về người và tài sản ngày càng lớn, nhất là trong bối cảnh đầu tư phát triển ngày càng tăng và quan trọng hơn là để lại những hậu quả lâu dài, kìm hãm tốc độ phát triển, cản trở việc thực hiện các mục tiêu xoá đói, giảm nghèo, chưa kể đến những rủi ro do biến đổi khí hậu có thể xảy ra trong quá trình phát triển. Cơ sở hạ tầng (hệ thống đê, đập, giao thông, thủy lợi, thông tin, điện, nước, nhà ở v.v...) nhất là ở các vùng nông thôn còn thấp kém, đời sống dân cư, trình độ dân trí ở nhiều vùng, nhất là nông thôn, miền núi, nơi có nguy cơ tổn hại cao - còn thấp. Khả năng tự đối phó với thiên tai và những hậu quả khác của BĐKH, trong đó có mực nước biển dâng là rất hạn chế. Trình độ KHCN nói chung còn thấp, nhất là ở nông thôn, miền núi, nguồn lực tài chính hạn chế, trong đó tỷ lệ đầu tư nước ngoài cao. Để thực hiện mục tiêu đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, chúng ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, thu hút đầu tư của nước ngoài, các thành phần kinh tế trong nước; không ngừng mở rộng các khu công nghiệp *GS.TSKH, Trung tâm KHCN Khí tượng Thủy văn và Môi trường, Liên hiệp các Hội KH và KT Việt Nam Nguyễn Đức Ngữ 580 và đô thị với sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nhà đầu tư nước ngoài và giữa các doanh nghiệp, các địa phương trong nước, trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế; vấn đề bảo vệ môi trường thường bị coi nhẹ dẫn đến môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, áp lực kinh tế lên các hệ sinh thái ngày càng tăng và tài nguyên thiên nhiên bị suy giảm. Tất cả những điều trên đây làm cho cho hậu quả tác động của BĐKH và mực nước biển dâng đối với Việt Nam thêm nghiêm trọng, làm nảy sinh những thách thức mới và làm cho những thách thức sẵn có nói trên trở nên lớn hơn, là nguy cơ hiện hữu đối với mục tiêu xoá đói, giảm nghèo và nguy cơ tiềm tàng đối với việc thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ và phát triển bền vững. Vì vậy, cần phải có một chiến lược và các giải pháp ứng phó phù hợp, nếu không, mọi việc sẽ trở nên quá muộn. 1. Biến đổi khí hậu toàn cầu 1.1. Thực trạng 1/. Sự nóng lên toàn cầu của hệ thống khí hậu hiện nay là chưa từng có và rất rõ ràng từ những quan trắc nhiệt độ và đại dương trung bình toàn cầu, sự tan chảy của băng và tuyết trên phạm vi rộng lớn và sự dâng lên của mực nước biển trung bình toàn cầu: - Xu thế tăng nhiệt độ trong chuỗi số liệu 100 năm (1906 - 2005) là 0,74oC; Xu thế tăng nhiệt độ trong 50 năm gần đây là 0,13oC/1 thập kỷ, gấp 2 lần xu thế tăng của 100 năm qua. - Nhiệt độ trung bình ở Bắc cực đã tăng với tỷ lệ 1,5oC/100 năm, gấp 2 lần tỷ lệ tăng trung bình toàn cầu, nhiệt độ trung bình ở Bắc cực trong 50 năm cuối thế kỷ 20 cao hơn bất kỳ nhiệt độ trung bình của 50 năm nào khác trong 500 năm gần đây và có thể là cao nhất, ít nhất là trong 1300 năm qua. - Nhiệt độ trung bình ở đỉnh lớp băng vĩnh cửu ở Bắc bán cầu đã tăng 3oC kể từ năm 1980. - 11 trong số 12 năm gần đây (1995 - 2006) nằm trong số 12 năm nóng nhất trong chuỗi quan trắc bằng máy kể từ năm 1850. - Theo Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO), nhiệt độ trung bình năm 2007 cao hơn trung bình thời kỳ 1961 - 1990 0,41oC. 2/. Mực nước biển trung bình toàn cầu đã tăng với tỷ lệ trung bình 1,8mm/năm trong thời kỳ 1961 - 2003 và tăng nhanh hơn với tỷ lệ 3,1mm/năm trong thời kỳ 1993 - 2003. Tổng cộng, mực nước biển trung bình toàn cầu đã tăng lên 0,31m trong 100 năm gần đây. Chính sự tan băng ở Greenland, Bắc cực và Nam cực đã làm cho mực nước biển tăng nhanh hơn trong thời kỳ 1993 - 2003. Ngoài ra, nhiệt độ trung bình của đại dương toàn cầu tăng lên (ít nhất là tới độ sâu 3000m) cũng góp phần vào sự tăng lên của mực nước biển. 3/ Số liệu vệ tinh cho thấy, diện tích biển băng trung bình năm ở Bắc Cực đã thu hẹp 2,7%/thập kỷ. Riêng mùa hè giảm 7,4%/thập kỷ. Diện tích cực đại của lớp phủ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM 581 băng theo mùa ở Bắc bán cầu đã giảm 7% kể từ năm 1990, riêng trong mùa xuân giảm tới 15%. 1.2. Xu thế - Những số liệu về hàm lượng khí CO2 trong khí quyển được xác định từ các lõi băng được khoan ở Greenland và Nam cực cho thấy, trong suốt chu kỳ băng hà và gian băng (khoảng 18 nghìn năm trước), hàm lượng khí CO2 trong khí quyển chỉ k ... ở, môi trường lao động sản xuất... sẽ chịu tác động không nhỏ của biến đổi khí hậu toàn cầu. Sức khoẻ cộng đồng cũng có quan hệ mật thiết với nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm. Biến đổi khí hậu đều có tác động đến các đối tượng vừa nêu ở những mức độ khác nhau, do đó có tác động nhất định đến sức khoẻ con người. Một trong những đối tượng đó là các nguồn truyền nhiễm, các nhân tố truyền và nhiễm bệnh. Du lịch, nghỉ mát ngày nay đã trở thành một ngành công nghiệp dịch vụ quan trọng. BĐKH cũng tác động đến lĩnh vực này qua những đối tượng sau: Nước biển dâng sẽ có ảnh hưởng đến các bãi tắm ven biển. Một số bãi tắm bị đẩy sâu vào nội địa sẽ tác động đến khả năng khai thác bãi tắm cũng như các các công trình liên quan. Kinh phí cho việc cải tạo, một số trường hợp phải dịch chuyển về phía sau sẽ tăng. Sự rút ngắn mùa lạnh sẽ dẫn đến khả năng kéo dài mùa du lịch, nghỉ mát trên núi cũng như nghỉ dưỡng và tắm biển. Tác động tiêu cực của BĐKH đến hoạt động giao thông vận tải, đến công trình xây dựng, trong đó có khách sạn, các cơ sở hạ tầng ở các khu hay các tuyến du lịch cũng sẽ có những tác động không thuận cho hoạt động du lịch. Sự gia tăng các tác động tiêu cực của BĐKH đến sức khoẻ cộng đồng như tăng các dịch bệnh, tăng ô nhiễm không khí và nước, tăng các thiên tai có liên quan đến đời sống và sinh hoạt cũng sẽ dẫn đến giảm các hoạt động du lịch. 4. Những thách thức chủ yếu trong chính sách phát triển kinh tế, xã hội và ứng phó với BĐKH toàn cầu ở Việt Nam Việt Nam là nước đang phát triển, có xuất phát điểm thấp. Qua hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những kết quả to lớn trong phát triển kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, mức tăng trưởng kinh tế cao và liên tục nhưng chưa bền vững (về con người, môi trường, kinh tế, tài sản) quá trình thực hiện quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội chưa được lồng ghép một cách hiệu quả với việc bảo vệ môi trường. Mức ô nhiễm và suy giảm chất lượng môi trường vẫn đang tiếp tục gia tăng. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên còn chưa hợp lý và lãng phí, nhiều tài nguyên đang bị suy giảm nghiêm trọng, tỷ lệ người nghèo còn cao và phân hoá giầu nghèo ngày càng gia tăng. Những tác động trước mắt và lâu dài của BĐKH đối với kinh tế, sinh thái và xã hội - những yếu tố cơ bản của sự phát triển bền vững cũng như đối với mối quan hệ tương tác giữa môi trường và những nguy cơ về kinh tế, xã hội đang ngày càng thể hiện rõ. Trong khi đó, những ảnh hưởng truyền thống của Chính phủ thông qua các chính sách liên quan đến người dân như sức khoẻ, phúc lợi xã hội, bình đẳng v.v... đang bị BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM 593 giảm dần. Hiểu rõ mối quan hệ giữa kinh tế, môi trường và xã hội như một thực thể tồn tại của quá trình phát triển và thể hiện nó trong chiến lược tổng thể phát triển bền vững là con đường tất yếu để loại bỏ các nguy cơ nói trên. Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải đối mặt với những thách thức mới về chính sách do tác động của BĐKH và nước biển dâng. Đó là: 1/ Thách thức trong chính sách đầu tư, phát triển kinh tế, xã hội với yêu cầu "phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững" trong bối cảnh phải ứng phó với những tác động tiêu cực, những hậu quả trước mắt về ô nhiễm môi trường, thiên tai và các hiện tượng khí hậu cực đoan gia tăng và những hiểm họa lâu dài có thể xảy ra do BĐKH và nước biển dâng, đòi hỏi phải có đầu tư lớn để thực hiện các giải pháp ứng phó, nhằm khắc phục hiểm họa và giảm nhẹ hậu quả tác động của BĐKH, trong khi nguồn lực phát triển của chúng ta còn hạn chế, nợ nước ngoài đang không ngừng tăng lên. 2/ Thách thức trong chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn, lĩnh vực nhạy cảm và dễ bị tổn hại nhất do tác động của BĐKH bao gồm những đối tượng nghèo khổ nhất, ít có cơ hội lựa chọn trong việc ứng phó với BĐKH, nhằm phát triển bền vững, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu, cung cấp nguyên vật liệu và nhân lực cho phát triển công nghiệp, đồng thời thực hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghèo, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn với yêu cầu hạn chế phát thải khí Mêtan, một loại khí đang chiếm một tỷ lệ tương đối cao trong tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam, góp phần giảm nhẹ BĐKH. Tác động của BĐKH và nước biển dâng có thể làm tiêu tan thành quả nhiều năm của công cuộc xoá đói, giảm nghèo và sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn. 3/ Thách thức trong chính sách khai thác, bảo vệ và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên (đất, nước, khoáng sản, rừng...) và bảo vệ môi trường trong bối cảnh BĐKH: Đó là giải quyết hài hoà giữa yêu cầu khai thác, sử dụng ngày càng nhiều các nguồn tài nguyên để đáp ứng yêu cầu phát triển với xu thế suy giảm các nguồn tài nguyên đó do tác động của BĐKH, nước biển dâng và ô nhiễm môi trường ngày càng tăng, kể cả ô nhiễm xuyên quốc gia trong điều kiện phải ứng phó với BĐKH, bao gồm cả thích ứng, bảo vệ và giảm phát thải khí nhà kính và những thói quen sử dụng kém hiệu quả, lãng phí các nguồn tài nguyên thiên nhiên. 4/ Thách thức trong chính sách phát triển và ứng dụng KHCN nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển công nghệ ít chất thải để hạn chế phát thải khí nhà kính, công nghệ sạch và thân thiện với môi trường, tiến tới một nền kinh tế phát triển cácbon thấp trong tương lai, khi nền tảng công nghệ của ta còn thấp và lạc hậu, hiệu quả sử dụng các nguồn tài nguyền thiên nhiên, nhất là năng lượng thấp. 5/ Thách thức về nhận thức và hành động của các tầng lớp xã hội và cộng đồng về BĐKH, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. BĐKH là vấn đề của sự phát triển, đang là một thách thức to lớn của nhân loại, song còn là một khái niệm mới. Vấn đề BĐKH chưa được lồng ghép vào quan điểm về phát triển bền vững, các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế, xã hội và các công cụ điều tiết khác của Nhà nước. Vấn Nguyễn Đức Ngữ 594 đề ứng phó với BĐKH chỉ có thể được thực thi có hiệu quả, trên cơ sở nâng cao nhận thức của toàn xã hội. 5. Khuyến nghị về định hướng chiến lược và chính sách ứng phó với BĐKH 5.1. Chiến lược và chính sách thích ứng với BĐKH phải được đặt là trọng tâm Chiến lược ứng phó với BĐKH bao gồm chiến lược giảm nhẹ BĐKH và chiến lược thích ứng với BĐKH. Chiến lược giảm nhẹ biến đổi khí hậu có nội dung chủ yếu là chiến lược giảm khí nhà kính, nghĩa là giảm nguồn phát thải khí nhà kính đồng thời với tăng bể hấp thụ khí nhà kính trên phạm vi toàn cầu. Trong khi đó, Chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu có mục tiêu là ngăn chặn các tác động của biến đổi khí hậu, kể cả biến đổi tự nhiên và biến đổi nhân tạo, đối với các hệ thống tự nhiên và hệ thống xã hội trên trái đất. Do tính chất bất khả kháng của xu thế nóng lên toàn cầu và mực nước biển dâng, ít nhất là trong thế kỷ 21, nên vấn đề quan trọng hàng đầu trong việc ứng phó với BĐKH đối với Việt Nam là phải thích ứng với BĐKH, nói cách khác là vấn đề thích ứng phải được đặt là trọng tâm, chứ không phải là giảm nhẹ BĐKH. Hơn nữa, Việt Nam là nước đang phát triển, chưa có nghĩa vụ phải giảm phát thải các chất khí gây hiệu ứng nhà kính theo Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH, tổng lượng phát thải và lượng phát thải tính theo đầu người còn rất nhỏ bé so với các nước đang phát triển khác, yêu cầu phát triển để xoá bỏ đói nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển là mục tiêu hàng đầu. Thích ứng với BĐKH bao gồm tất cả những sự điều chỉnh về các hoạt động (cách ứng xử), cấu trúc kinh tế và cơ chế, chính sách nhằm giảm nhẹ khả năng bị tổn hại do BĐKH gây ra cho con người, các hệ thống tự nhiên và kinh tế - xã hội. 1/ Các hoạt động thích ứng với BĐKH phải được lồng ghép có hiệu quả vào các chiến lược, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội ở tất cả các quy mô ngành, lĩnh vực, địa phương, nhằm mục đích bảo đảm tính hiệu quả và bền vững của các kế hoạch phát triển, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra đối với các kế hoạch do BĐKh hoặc những hậu quả chưa lường hết được về môi trường và xã hội do việc thực hiện các kế hoạch đó gây ra. Như vậy, lồng ghép tốt các hoạt động thích ứng vào kế hoạch phát triển sẽ góp phần bảo đảm phát triển bền vững. 2/ Các hoạt động thích ứng với BĐKH phải được triển khai ngay từ bây giờ. Việc triển khai sớm các hoạt động thích ứng sẽ có nhiều triển vọng đạt hiệu quả cao trong việc giảm tổn thất cả trước mắt và lâu dài, trong khi BĐKH vẫn đang tiếp tục diễn ra với mức độ ngày càng tăng, khi mà tiềm lực về con người và khả năng tài chính hiện nay của chúng ta có thể chịu đựng, sẽ ít tốn kém hơn nhiều so với chi phí khắc phục hậu quả và với chi phí để giảm nhẹ hậu quả do BĐKH trong tương lai, nhiều khi vượt quá khả năng của chúng ta. 3/ Ngoài ra, nhiều hoạt động thích ứng cũng có tác động giảm nhẹ BĐKH (giảm phát thải khí nhà kính). Thí dụ: trong bảo vệ và khai thác tài nguyên đất, rừng, BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM 595 tài nguyên nước, sử dụng hiệu quả và tiết kiệm năng lượng v.v... cũng làm giảm phát thải khí nhà kính. Mặc dù giảm nhẹ BĐKH đối với chúng ta (Việt Nam) lúc này không phải là mục tiêu. Các hoạt động giảm nhẹ BĐKH có thể dược thực hiện bằng các giải pháp công nghệ và chính sách, nhất là trong việc sản xuất và tiêu thụ năng lượng thông qua cơ chế phát triển sạch của Nghị định thư Kyoto. 4/ Việc thích ứng với BĐKH cần phải được thực hiện đối với tất cả các ngành, lĩnh vực và các địa phương, song trọng tâm là các đối tượng sau đây: - Giải ven biển (bao gồm cả các vùng đồng bằng châu thổ). - Nông nghiệp, thủy sản. - Cơ sở hạ tầng (công nghiệp, giao thông vận tải, thủy lợi, năng lượng, thông tin, du lịch v.v...). - Nơi cư trú và sức khoẻ cộng đồng, nhất là cộng đồng dân cư ven biển, ven sông, nông thôn, miền núi, các khu nhà tạm trong đô thị. 5.2. Thể chế hoá và tăng cường tổ chức trong việc thực hiện các chiến lược ứng phó với BĐKH. 1/ BĐKH là vấn đề toàn cầu, đồng thời cũng là vấn đề của mỗi quốc gia. Ứng phó với BĐKH vừa là vấn đề cấp bách, vừa có tính chiến lược, lâu dài, đòi hỏi có sự tham gia của mọi ngành, mọi người và sự hợp tác rộng rãi trong nước và quốc tế. Song ứng phó với BĐKH là vấn đề còn rất mới mẻ. Vì vậy, một trong những khó khăn lớn nhất trong việc thực hiện các chiến lược và giải pháp ứng phó với BĐKH đối với cộng đồng quốc tế cũng như đối với từng quốc gia là sự hạn chế về nhận thức của xã hội đối với vấn đề này cũng như về thể chế và tổ chức để thực hiện. Ở Việt Nam, đến nay chưa có một văn bản pháp luật nào đủ tầm cỡ để điều chỉnh toàn bộ hoạt động liên quan đến BĐKH và ứng phó với BĐKH. Điều đó không những làm chậm trễ việc triển khai các hoạt động ứng phó với BĐKH, bỏ lỡ nhiều cơ hội hợp tác, thu hút dầu tư và tài trợ của các nước và các tổ chức quốc tế, mà còn có thể dẫn đến tình trạng manh mún, kém hiệu quả (thông qua các quỹ đa phương và các dự án đơn lẻ với chi phí và chuyên gia quá cao), thậm chí thích ứng không tốt dẫn đến những hậu quả xấu về xã hội và môi trường do thiếu định hướng chiến lược chung của nhà nước, thiếu hiểu biết và tầm nhìn hạn chế. 2/ Ứng phó với BĐKH còn đòi hỏi các cơ chế, chính sách và chế tài phù hợp, nhằm thu hút, khuyến khích, hỗ trợ các thành phần kinh tế, các tầng lớp xã hội, các tổ chức cộng đồng trong nước, quốc tế đầu tư vào các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ BĐKH ở Việt Nam. Về vấn đề này, chúng ta còn một khoảng trống lớn, cần được bổ sung, hoàn thiện trong hệ thống chính sách và văn bản quy phạm pháp luật liên quan, nhằm bảo đảm lồng ghép tốt vấn đề BĐKH và ứng phó với BĐKH trong tất cả các chiến lược, chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, môi trường. 3/ Cùng chung hoàn cảnh như vấn đề về nhận thức và thể chế, chính sách, hệ thống quản lý nhà nước và các cơ quan, tổ chức điều hành từ trung ương đến địa phương và các ngành liên quan đến vấn đề BĐKH, ứng phó với BĐKH và những tác động tiềm tàng của chúng, cả hiện nay và lâu dài, còn rất hạn chế, nếu không muốn nói Nguyễn Đức Ngữ 596 là phân tán, yếu kém. Ngoài Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu vừa mới được thành lập trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, chưa có đủ nguồn lực về con người và cơ sở vật chất, kỹ thuật cần thiết, các cơ quan tổ chức khác trong và ngoài Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng như ở địa phương và mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức đó với nhau và với các tổ chức quốc tế liên quan đến toàn bộ hoạt động quản lý và nghiệp vụ về BĐKH chưa được xác lập rõ ràng. Kiến nghị 1/ Nhà nước sớm ban hành một văn bản pháp luật đủ tầm cỡ để điều chính toàn bộ các hoạt động liên quan đến BĐKH và ứng phó với BĐKH. Trước mắt đề nghị Chính phủ ban hành một Nghị định của Chính phủ về vấn đề này. 2/ Tăng cường về tổ chức, thẩm quyền và năng lực cho cơ quan quản lý nhà nước về BĐKH và ứng phó với BĐKH. 3/ Cần có 1 chính sách đầu tư lâu dài của Nhà nước nhằm tăng đầu tư cho các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ BĐKH. 4/ Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho toàn xã hội về BĐKH TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về biến đổi khí hậu, Hà Nội, 2003, 138 trang; [2] Nguyễn Đức Ngữ, Nguyễn Trọng Hiệu, Khí hậu và Tài nguyên khí hậu Việt Nam, Nhà Xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, 2004, 296 trang; [3] IPCC, Climate Change, 2007; [4] Enquete Commission on the "Protection of Humanity and the Environment, Objectives and General Conditions of Sustainable Development", The Concept of Sustainability, Prerequisites for Tomorrow's Society, 1997, 72 trang; [5] Nguyễn Đức Ngữ (chủ biên), Biến đổi khí hậu, Nhà Xuất bản Khoa học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 2008, 412 trang 1 Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH (Hà Nội, 2003)
File đính kèm:
- bien_doi_khi_hau_va_phat_trien_ben_vung_o_viet_nam.pdf