Bàn về việc giải hai bài toán quy hoạch và phát triển bờ kè và không gian kề cận ở TP. HCM
Các khu vực mặt tiền sông nước ở
thành phố Hồ Chí Minh là các tài sản có giá trị
cao đối với cộng đồng đô thị nói chung cũng như
chủ tài sản liền kề nói riêng. Tuy nhiên, đề xuất
về quy hoạch và cải tạo khu vực bờ kè và không
gian liền kề đang khai thác dưới tiềm năng gặp
vướng mắc do nhiều nguyên nhân. Bài viết thảo
luận về một số bất cập về biện pháp cải tạo gắn
với mô hình phân chia lợi ích cùng đóng góp từ
các bên hưởng lợi nhằm tạo đồng thuận và nâng
cao tính khả thi cho các phương án quy hoạch và
triển khai chỉnh trang trong giai đoạn hiện nay
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Bàn về việc giải hai bài toán quy hoạch và phát triển bờ kè và không gian kề cận ở TP. HCM", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về việc giải hai bài toán quy hoạch và phát triển bờ kè và không gian kề cận ở TP. HCM
Quy hoạch và phát triển kè bờ sông Sài Gòn và sông, kênh nội thành và các giải pháp để hoàn thành cơ bản kè sông Sài Gòn, sông và kênh nội thành vào năm 2025 BÀN VỀ VIỆC GIẢI HAI BÀI TOÁN QUY HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN BỜ KÈ VÀ KHÔNG GIAN KỀ CẬN Ở TP. HCM TS. Nguyễn Ngọc Hiếu Đại học Việt – Đức (VGU) Tóm tắt: Các khu vực mặt tiền sông nước ở thành phố Hồ Chí Minh là các tài sản có giá trị cao đối với cộng đồng đô thị nói chung cũng như chủ tài sản liền kề nói riêng. Tuy nhiên, đề xuất về quy hoạch và cải tạo khu vực bờ kè và không gian liền kề đang khai thác dưới tiềm năng gặp vướng mắc do nhiều nguyên nhân. Bài viết thảo luận về một số bất cập về biện pháp cải tạo gắn với mô hình phân chia lợi ích cùng đóng góp từ các bên hưởng lợi nhằm tạo đồng thuận và nâng cao tính khả thi cho các phương án quy hoạch và triển khai chỉnh trang trong giai đoạn hiện nay. Từ khóa: quy hoạch và phát triển không gian tiếp cận mặt nước, phân bổ lợi ích các bên liên quan, mô hình hợp tác phát triển, xây dựng đồng thuận. 1 Bối cảnh Thành phố Hồ Chí Minh không gian kề cận bờ kè và mặt nước cần cải thiện và nâng cao giá trị khai thác. Vốn là đô thị phát triển trên nền tảng sông nước, kênh rạch bao quanh, khu vực nội đô cũng như vùng ven sông Sài Gòn và Đồng Nai có nhiều vị trí tiếp giáp với sông nước cảnh quan rất đẹp và có giá trị. Tuy nhiên, nhiều khu đất và công trình đang bị khai thác sử dụng dưới tiềm năng, kém hiệu quả, và thậm chí hủy hoại môi trường vật thể do chất thải, lấn chiếm, và cải tạo tùy tiện. Việc xây dựng bờ kè, bảo vệ thềm sông, và cải tạo khu vực kề cận không chỉ đáp ứng nhu cầu tại chỗ mà còn đóng góp vào thực hiện các mục tiêu chiến lược của thành phố về ứng phó biến đổi khí hậu, xây dựng nơi chốn hấp dẫn đầu tư, nâng cao tính năng phục vụ của các không gian có giá trị cảnh quan, du lịch, phục vụ sức khỏe và đóng góp vào nâng cao giá trị tài sản đô thị. Việc đầu tư chỉnh trang luôn đối mặt nhiều thách thức về nguồn lực và cơ chế phát triển. Khi cơ hội mở rộng dần cạn kiệt, thành phố phải tập trung cải tạo các khu vực phát triển dưới tiềm năng. Tuy nhiên, các khu vực như bờ kè phải đối mặt với tính phức tạp của quyền tài sản đã hình thành, đất chia thửa lô nhỏ, phải thực thi chính sách xã hội tại các khu ổ chuột. Trong khi đó, nhiều khu vực tiếp cận sông nước có hạ tầng kết nối và thoát nước không đồng bộ. Bờ kè cần đầu tư lớn nhưng thiếu cơ sở giải tỏa vì ranh giải tỏa chưa đảm bảo tính hợp lý về cả yếu tố kinh tế và kỹ thuật, thiếu nguồn thu từ tiền sử dụng đất khi đất đã chuyển đổi sang phi nông nghiệp. Các tham vọng chỉnh trang đô thị, tạo lập hạ tầng xanh cùng không gian công cộng quy mô lớn đối lập với thực tế nguồn lực công hạn chế và chi phí di dời lớn. Cải tạo chỉnh trang khu vực bờ kè cần mô hình quy hoạch và phát triển phù hợp. Hai mươi năm qua, chúng ta có những mô hình phát triển sử dụng vốn Nhà nước để làm bờ kè (Bờ bao Sài Gòn & ODA Nhiêu Lộc Thị Nghè), vốn tư nhân làm khu đô thị mới và bờ kè (Tân Cảng – Ba Son, Phú Mỹ Hưng), và mô hình BT làm kè phục vụ chống ngập (Trung Nam). Đánh giá về các mô hình vừa qua, có thể thấy các dự án ngân sách và vay vốn ODA thành công về mặt kinh tế, giao thông, và xã hội nhưng chưa tích hợp được đầu tư cải thiện và phát triển không gian kề cận đồng bộ cũng như chưa huy động được nguồn lực tư nhân làm giảm gánh nặng đầu tư công. Dự án Tân Cảng cải thiện bờ sông và khu vực kề cận nhưng hệ số sử dụng đất quá lớn gây quá tải về hạ tầng giao thông. Dự án Phú Mỹ Hưng tạo môi trường sống tốt, nhưng đây là dự án phát triển mới chứ không phải dự án chỉnh trang. Dự án BT của tập đoàn Trung Nam giúp giảm gánh nặng ngân sách nhưng chưa giúp phát triển đồng bộ không gian liền kề. 104 Quy hoạch và phát triển kè bờ sông Sài Gòn và sông, kênh nội thành và các giải pháp để hoàn thành cơ bản kè sông Sài Gòn, sông và kênh nội thành vào năm 2025 Để khu vực bờ kè trên được quy hoạch và phát triển thuận lợi, cần đặt và giải đúng bài toán. Trong số nhiều thách thức và vướng mắc nêu trên, có thể thấy vấn đề cốt lõi là mô hình phát triển đòi hỏi phải sử dụng nguồn lực từ nhiều bên theo mô hình hợp tác cùng đóng góp cùng hưởng lợi. Các dự án bờ kè luôn tồn tại câu hỏi lớn về lập quy hoạch và dự án với nhiều căn cứ về lựa chọn ranh thu hồi, khu vực bảo vệ, khu vực giao cho nhà đầu tư, và đặc biệt là cơ chế giải quyết bài toán lợi ích đóng – hưởng. Từ trước tới nay các chủ tài sản bên ngoài ranh hưởng lợi mà không phải đóng góp, trong khi những người phải di dời bên trong ranh thường chịu thiệt vì không được chia sẻ lợi ích từ giá trị đất gia tăng. Sự bất cập này làm phát sinh nhiều mâu thuẫn so bì, và là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở quá trình thực hiện dự án. Vì vậy, bản thân quá trình lập quy hoạch và thực hiện các dự án cần giải được bài toán lợi ích hài hòa bên cạnh những yêu cầu chung khác về phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường. Bài viết này tập trung vào việc giải hai bài toán là quy hoạch tốt và phát triển tốt trong mô hình hợp tác huy động nguồn lực từ doanh nghiệp và cộng đồng. Quy hoạch tốt sẽ là quy hoạch tối ưu đa chiều, không chỉ đủ hấp dẫn nhà đầu tư, đủ tốt để bảo vệ lợi ích công cộng, mà còn đủ để cộng đồng địa phương chấp nhận phương án theo hướng tạo đồng thuận. Phát triển tốt có thể hiểu là chọn được chủ đầu tư tốt và có cơ chế ràng buộc để chủ đầu tư và các bên thực hiện đúng các cam kết của mình. 2 Giải bài toán quy hoạch tốt 2.1 Quy hoạch giúp chọn được phương án cạnh tranh hơn Quy trình lập quy hoạch và phát triển dự án của chúng ta chưa thiết kế để hỗ trợ mô hình hợp tác. Hệ thống quy hoạch của chúng ta làm tuần tự, từ quy hoạch chung cho tới phân khu và chi tiết. Quy hoạch phân khu để lập dự án có nhiệm vụ chi tiết hóa quy hoạch chung và bố trí các hệ thống hạ tầng và không ... iá trị tài sản và gia tăng nguồn thu về lâu dài cho thành phố, chính quyền phải giảm thiểu tác động tiêu cực như quá tải hạ tầng giao thông, rủi ro hoặc ô nhiễm, hủy hoại di sản. Nếu không, rủi ro có thể là chỉ một số ít hưởng lợi, ách tắc trầm trọng hơn, và ngân sách có thể không thu được bao nhiêu do chậm đưa vào khai thác. 3.2 Vấn đề huy động nguồn lực tham gia Vấn đề đánh giá tác động giao thông cần chú ý đối với các dự án bờ kè. Các phương án cải tạo huy động vốn tư nhân thường dẫn tới tăng chất tải nên cần đánh giá tác động trên quy mô phù hợp, làm rõ được các ngưỡng chịu tải và mức độ ảnh hưởng để bảo vệ quyền lợi của các bên liên quanvi. Hiện nay chúng ta vẫn sử dụng chỉ tiêu mật độ xây dựng và hệ số sử dụng đất để kiểm soát quá tải hạ tầng bao gồm cả giao thông nhưng kết quả là đường vẫn tắc. Việc chỉ kiểm soát quá tải theo diện tích trong khi thiếu căn cứ phân biệt tác động của từng loại chức năng công trình. Cùng một diện tích xây dựng, xây sàn thương mại thường làm phát sinh số chuyến đi (bằng xe hơi) nhiều gấp ba lần so với xây chung cư . Vì vậy, điều quan trọng là điều chỉnh phải 108 Quy hoạch và phát triển kè bờ sông Sài Gòn và sông, kênh nội thành và các giải pháp để hoàn thành cơ bản kè sông Sài Gòn, sông và kênh nội thành vào năm 2025 làm rõ các tác động thay vì đảm bảo tính thực tiễn; các chỉ tiêu quy hoạch theo quy chuẩn từ quy hoạch chung chỉ là định hướng. Cần linh hoạt xử lý vấn đề hợp tác phát triển theo vị trí. Việc lập quy hoạch và dự án song song cho phép linh hoạt hơn trong xử lý các vấn đề hợp tác và nâng cao hiệu quả tài chính. Dự án bờ kè kéo dài nên có những vị trí có thể áp dụng tiếp cận truyền thống là thu hồi ở các vị trí gần ga hoặc điểm tập trung; nhưng cũng có thể phải áp dụng cơ chế như góp đất tái phân thửavii hoặc góp quyền sử dụng đất chưa xây dựng (Transferable Development Rights - TDR)viii để tạo hành lang giao thông và nâng cấp hạ tầng tại chỗ thay vì di dời toàn bộ. Tham khảo kinh nghiệm từ Ấn Độix cho thấy họ đã thành công trong huy động người dân góp đất để mở rộng hẻm bằng cách cho cư dân bán quyền xây dựng tăng thêm và góp đất cho dự án. Tại Việt Nam, TDR có thể sử dụng trong huy động người dân góp đất ở các vị trí ‘trong phạm vi dự án’. Ví dụ khi đóng góp đất và hưởng quyền xây dựng tăng thêm (có thể bán được). Một hộ 80m2 nhà 1 tầng mặt hẻm 1.5m, được quyền xây 3.0x80 = 240m2, khi góp 30m2 làm đường và xây phần còn 50m2 xây lên 120m2. Khi bán quyền xây 120m2 (ví dụ được 960 triệu ) sẽ đủ tiền xây nhà mới 120m2 và có đường vào 4m, đơn giá đất tăng lên 2 lần so với trước (50m2 mới giá trị hơn 80m2 cũ). Thành phố có thêm 30% - 40% diện tích đất tăng thêm để vừa làm đường vừa dành một số vị trí bán đấu giá cho các chủ đầu tư. Một số chủ đầu tư mua gom quyền phát triển sẽ được xây công trình cao tầng theo quy hoạch. Những hộ có diện tích còn lại quá nhỏ mới phải chuyển tới sống tại chung cư với giá chiết khấu tương ứng theo mức độ hiệu quả chung của dự án. Ví dụ hộ có 20m2 đất giá hiện tại 1 tỉ, nếu giá trị gia tăng tổng thể dự án là 30%, những người chuyển sang ở nhà chung cư sẽ được nhận nhà có giá 1.3 tỉ (ví dụ là 50m2). Chú ý phát triển công cụ để huy động nguồn lực từ các bên hưởng lợi ngoài ‘hàng rào’. Cơ chế TDR có thể giúp huy động đóng gó đối với các vị trí ‘ngoài dự án’. Những vị trí ‘tự dưng’ được ra mặt tiền hoặc có ‘view’ sông khi xây dựng tăng thêm sẽ phải đóng góp vào dự án của chủ đầu tư hoặc ngân sách theo một quy định riêng bởi họ hưởng lợi từ dự án (khai thác cảnh quan bờ sông). Ví dụ huy động chủ đất liền kề do tiếp cận công viên bờ kè. Ước tính một công viên bờ kè có diện tích là 1ha cần đầu tư 25 tỉ đồng. Các lô đất kề cận nếu muốn xây dựng cao tầng để ‘bán vị trí giá cao’ phải đóng góp bằng mua quyền phát triển tăng thêm. Thành phố bán đấu giá quyền phát triển này - ví dụ tăng hệ số sử dụng đất từ 3 lên 8 vì có cải thiện hạ tầng và không gian công cộng có thể giá bằng khoảng 1/4 diện tích giá bán căn hộ. Việc huy động đóng góp của chủ tài sản bên ngoài hàng rào có thể giúp chia sẻ tới 1/2 gánh nặng phát triển dự án. Bên cạnh TDR, kinh nghiệm cho thấy chính quyền cũng có thể huy động nguồn đóng góp từ công cụ thuế cải thiệnx (betterment tax). Chính quyền đô thị sẽ khoanh định khu vực hưởng lợi trực tiếp từ dự án và định ra một mức phụ thu khi các chủ tài sản chuyển nhượng, phát triển, hoặc cho thuê trong một giai đoạn (có thể là 10 năm). Thuế này sẽ phù hợp với các khu vực ổn định và ít xây dựng. Nguồn thu từ cho thuê còn giúp giảm bớt gánh nặng phải chia sẻ đóng góp từ các nơi khác và củng cố nguồn tài chính cho thành phố về lâu dài. 3.3 Ràng buộc thực thi theo kết quả Dự án đã phê duyệt cùng quy hoạch chi tiết cần phải được quản lý tốt để có kết quả thực tế. Hiện nay nhiều dự án chỉ ràng buộc bằng hồ sơ thiết kế và ràng buộc yếu tố không gian. Tuy nhiên, quá trình triển khai cần ràng buộc không chỉ về thời gian mà còn khả năng vận hành thực tế của các công trình hạ tầng và tiện ích đô thị. Cần tránh tình trạng có công trình nhưng không vận hành được hoặc không phù hợp với chức năng sau khi cải tạoxi bởi trên thực tế, nhiều khu đô thị mới để đất công viên mà không có công viên vì chưa giải tỏa được hoặc chưa xây; đất giáo dục bị chuyển đổi hoặc chỉ xây trường cho ‘nhà giàu’. Người dân cần cảnh quan, an toàn, giảm tắc nghẽn, giảm ô nhiễm và tiếng ồn và dịch vụ chứ không chỉ là có đường và có đất để làm trường. Hợp đồng là giải pháp được các quốc gia khác lựa chọn. Ràng buộc về tiến độ xây dựng để quản lý hoạt động xây dựng là cần thiết. Tuy nhiên, cần chú ý là cải tạo làm đảo lộn cuộc sống của rất nhiều bên nên cần cả cam kết về tổ chức khai thác các công trình hướng tới các phân khúc chất lượng nào. Các ràng buộc theo hợp đồng sẽ tốt hơn cho cả chính quyền bởi dự án có thể đi qua nhiều nhiệm kỳ. 109 Quy hoạch và phát triển kè bờ sông Sài Gòn và sông, kênh nội thành và các giải pháp để hoàn thành cơ bản kè sông Sài Gòn, sông và kênh nội thành vào năm 2025 4 Thay cho kết luận Các dự án cải tạo chỉnh trang bờ kè luôn đối mặt nhiều thách thức do sự đan xen phức tạp của các tài sản hiện hữu và việc cải tạo có thể phá vỡ kết cấu xã hội và hệ sinh thái kinh tế phức tạp. Tiếp cận hợp tác góp phần giải quyết nhiều vướng mắc gần đây khi bài toán chia sẻ lợi ích từ kỳ vọng giá trị dự án gia tăng đã không được làm rõ. Trong bối cảnh nguồn lực đầu tư công ngày càng hạn chế, cách làm này sẽ huy động sự tham gia của cộng đồng vào phát triển ngày càng sâu rộng, đa chiều, và thiết thực sẽ giúp phát huy hiệu quả không chỉ nguồn lực tài chính mà còn nguồn vốn xã hội. Giải pháp thi tuyển cả thiết kế và thi tuyển dự án để thực thi các giải pháp trên nền tảng cạnh tranh minh bạch và thúc đẩy sáng tạo cũng là giải pháp giúp có quy hoạch tốt và nhà đầu tư tốt. Nếu được lựa chọn, các giải pháp cải tạo cần nghiên cứu rộng hơn, tính cả các giải pháp hỗn hợp bao gồm nâng cấp, chỉnh trang, và tái phát triển sử dụng cách tiếp cận sáng tạo và linh hoạt trong huy động vốn tham gia cùng các công cụ mới. Với đặc trưng gia tăng chất tải ở đây, dự án này cần áp dụng phương pháp đánh giá tác động giao thông. Khi triển khai cần ràng buộc các bên triển khai theo dạng hợp đồng để đảm bảo thực thi có kết quả. Đổi mới về cách nghĩ và cách làm luôn đối mặt thách thức, song Thành phố Hồ Chí Minh từ trước tới nay đã chứng tỏ khả năng đi trước và đột phá sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Những cách làm hay đã được khẳng định ở nhiều quốc gia rất nên nghiên cứu và áp dụng. Tài liệu tham khảo 1.Pahn-Webber, E. and D. Henckel, The Planning System and Planning Terms in Germany - A Glossary. Studies in Spatial Development. Vol. 7. 2008, Hanover, Germany: Academy for Spatial Research and Planning. 288. 2.ACVN, Affordable housing, V.V. Thi and A.L. Dieu, Editors. 2014: Hanoi, Vietnam. 3.Zimmermann, A. and C. Maennling, Mainstreaming participation. Multi-stakeholder management: Tools for Stakeholder Analysis: 10 building blocks for designing participatory systems of cooperation Promoting participatory development in German development cooperation. 2007, Eschborn, Germany: GTZ GmBh. 4.Reactec, Building guideline for traffic impact assessment for public building Hochiminh city, C.C. Minh, Editor. 2017, DOT and Urban Transport No.1: Hochiminh city. 5.Souza, F.F.D., T. Ochi, and A. Hosono, Land Readjustment: Solving Urban Problems Through Innovative Approach. 2018, Tokyo, Japan: JICA Research Institute. 255. 6.Vinh, V.T., Land pooling & readjustment applicability in Vietnam, in Land pooling & readjustment in urban upgrading projects in Vietnam, V.V. Thi, Editor. 2014: Hanoi, Vietnam. 7.Hong, Y.H., Assembling land for urban development, in Analyzing land readjustment, Y.H. Hong and B. Needham, Editors. 2007, Lincoln Institute of land policy: Cambridge Massachusetts, USA. p. 3-36. 8.Hieu, N.N., Cong cu TDRs de phat trien khong gian mo khong gian xanh o do thi. Quy hoach do thi, 2011. 03(1+2). 9.Pruetz, R. and E. Pruetz, Transfer of Development Rights Turns 40. Planning & Environmental Law, 2007. 59(6): p. 3-11. 10.Suzuki, H., R. Cervero, and K. Iuchi, Transforming Cities with Transit: Transit and Land- Use Integration for Sustainable Urban Development. Urban Development. 2013: World Bank Publications. 11.Kewalramani, G., Urban infrastructure in metropolitan cities: A case study of transfer of Development Rights in Mumbai. Transactions of the Institute of Indian Geographers, 2001. 23(1): p. 39. i Hệ thống quy hoạch của CHLB Đức sử dụng cách làm này để tạo lập khuôn khổ định hướng cải tạo trước khi chốt các quy hoạch chi tiết theo dự án. Tham khảo thêm trong 1. Pahn-Webber, E. and D. Henckel, The Planning System and Planning Terms in Germany - A Glossary. Studies in Spatial Development. Vol. 7. 2008, Hanover, Germany: Academy for Spatial Research and Planning. 288. 110 Quy hoạch và phát triển kè bờ sông Sài Gòn và sông, kênh nội thành và các giải pháp để hoàn thành cơ bản kè sông Sài Gòn, sông và kênh nội thành vào năm 2025 ii ACVN 2. ACVN, Affordable housing, V.V. Thi and A.L. Dieu, Editors. 2014: Hanoi, Vietnam. iii Chiến lược xây dựng đồng thuận cần bắt đầu phân tích các bên liên quan. Việc làm này tham khảo thêm trong 3. Zimmermann, A. and C. Maennling, Mainstreaming participation. Multi-stakeholder management: Tools for Stakeholder Analysis: 10 building blocks for designing participatory systems of cooperation Promoting participatory development in German development cooperation. 2007, Eschborn, Germany: GTZ GmBh. iv Tham khảo kinh nghiệm tổng kết từ các nghiên cứu về đồng thuận của Tổ chức Xây dựng Đồng thuận châu Á v Giả sử phương bán quyền xây dựng chưa sử dụng để hỗ trợ góp đất được chọn. vi Những tranh cãi gần đây về cho phép điều chỉnh chỉ tiêu quy hoạch ‘chui’ khi triển khai các dự án thành phần trong khu đô thị Ciputra, Hà Nội phản ánh những bất cập về đánh giá tác động của việc điều chỉnh và cách thức bảo vệ quyền lợi các bên liên quan. Xem thêm trong https://vietnamnet.vn/vn/bat-dong-san/du-an/sua- quy-hoach-do-thi-ciputra-dan-to-nhieu-lan-dieu- chinh-chui-534352.html. vii Cách làm này có thể bao gồm điều chỉnh ranh giới hoặc vừa góp vừa điều chỉnh chia lại các thửa để tạo ra quỹ đất làm hạ tầng và tổ chức lại không gian hợp lý hơn – xem thêm trong 5. Souza, F.F.D., T. Ochi, and A. Hosono, Land Readjustment: Solving Urban Problems Through Innovative Approach. 2018, Tokyo, Japan: JICA Research Institute. 255, 6. Vinh, V.T., Land pooling & readjustment applicability in Vietnam, in Land pooling & readjustment in urban upgrading projects in Vietnam, V.V. Thi, Editor. 2014: Hanoi, Vietnam, 7. Hong, Y.H., Assembling land for urban development, in Analyzing land readjustment, Y.H. Hong and B. Needham, Editors. 2007, Lincoln Institute of land policy: Cambridge Massachusetts, USA. p. 3-36.. viii Có thể hiểu đây là một dạng chuyển nhượng quyền phát triển - xem thêm trong 8. Hieu, N.N., Cong cu TDRs de phat trien khong gian mo khong gian xanh o do thi. Quy hoach do thi, 2011. 03(1+2), 9. Pruetz, R. and E. Pruetz, Transfer of Development Rights Turns 40. Planning & Environmental Law, 2007. 59(6): p. 3-11. ix Cách làm của Mumbai là chính quyền cho người dân (nghèo) bán quyền xây dựng chưa sử dụng cho các chủ đầu tư dự án nằm trong khu vực cải thiện. Chính quyền lấy đất (hoặc một phần đất) từ chủ sở hữu rồi đổi cho họ quyền phát triển dưới dạng Giấy chứng nhận Quyền Phát triển (DRC) 10. Suzuki, H., R. Cervero, and K. Iuchi, Transforming Cities with Transit: Transit and Land-Use Integration for Sustainable Urban Development. Urban Development. 2013: World Bank Publications. DRC trở thành công cụ tài chính để chủ sở hữu không có ý định xây hết quyền của mình có thể chuyển nhượng cho người khác với hệ số sử dụng đất (FAR) do Chính phủ ấn định. DRC rất linh hoạt, giúp phân bố lại không gian đô thị theo nhu cầu thị trường và khả năng chi trả của các nhóm thu nhập 11. Kewalramani, G., Urban infrastructure in metropolitan cities: A case study of transfer of Development Rights in Mumbai. Transactions of the Institute of Indian Geographers, 2001. 23(1): p. 39.. Các diện tích được giải phóng rất đáng kể nhưng Nhà nước chỉ ‘bỏ ra’ mấy tờ giấy. Tất nhiên khu vực áp dụng công cụ này phải được tính toán để đáp ứng yêu cầu về chất tải hạ tầng. xi Điển hình là các khu đô thị mới có dành đất để xây trường học nhưng không có trường, có đất xây công viên nhưng chưa đền bù xong, và có đường cống thoát nước nội khu nhưng không kết nối được với bên ngoài. 111
File đính kèm:
- ban_ve_viec_giai_hai_bai_toan_quy_hoach_va_phat_trien_bo_ke.pdf