Bàn thêm về khái niệm văn hóa
Văn hóa là một khái niệm có nội hàm và ngoại diên phức tạp. Đã có hàng trăm định nghĩa về văn
hóa phản ánh những quan điểm, những trường phái lý thuyết khác nhau. Bài viết này vận dụng một
số quẻ trong Kinh Dịch và luận bàn của người xưa để làm rõ hơn thuật ngữ văn hóa thông qua các
phương diện: Văn hóa là phát minh, sáng tạo; Văn hóa là “yên lòng dân”; Văn hóa luôn vận động -
phát triển; văn hóa có mối quan hệ mật thiết với kinh tế - chính trị. Qua đó khẳng định tính vận động,
biện chứng trong nội hàm khái niệm văn hóa.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Bạn đang xem tài liệu "Bàn thêm về khái niệm văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn thêm về khái niệm văn hóa
5Số 20 - Tháng 6 - 2017 LÝ LUẬN VĂN HÓA NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA BÀN THÊM VỀ KHÁI NIỆM VĂN HÓA HOÀNG SƠN CƯỜNG Tóm tắt Văn hóa là một khái niệm có nội hàm và ngoại diên phức tạp. Đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa phản ánh những quan điểm, những trường phái lý thuyết khác nhau. Bài viết này vận dụng một số quẻ trong Kinh Dịch và luận bàn của người xưa để làm rõ hơn thuật ngữ văn hóa thông qua các phương diện: Văn hóa là phát minh, sáng tạo; Văn hóa là “yên lòng dân”; Văn hóa luôn vận động - phát triển; văn hóa có mối quan hệ mật thiết với kinh tế - chính trị. Qua đó khẳng định tính vận động, biện chứng trong nội hàm khái niệm văn hóa. Từ khóa: Bàn thêm, khái niệm văn hóa Abstract Culture is an inner and external complex concept. There have been hundreds of cultural definitions that reflect different theoretical views. This article applies some of the lots in I Ching and the discussion of the ancients to further clarify the cultural terminology through the following aspects: Culture is inventiveness, creativity; Culture is “peace of mind”; Culture is always moving - development; Culture is closely related to economics - politics. This confirms the motivational, dialectic within the cultural connotation. Keywords: Discuss more, cultural concepts Dù đã có quá nhiều định nghĩa thể hiện các khái niệm, quan niệm khác nhau về văn hóa và từ rất sớm, năm 1793, thuật ngữ “Culture” đã xuất hiện (4, tr. 36 - 37), nhưng do kho tàng trí tuệ của nhân loại được bổ sung nhiều nên cần bàn thêm về khái niệm “Văn hóa”. Mặc dù ở phương Đông từ mấy nghìn năm trước, người ta đã đưa ra luận thuyết về sự vận động của khái niệm “Văn hóa” (đem cái văn ứng dụng một cách sáng tạo vào cuộc sống) (2, tr. 12), nhưng do nền kinh tế vẫn còn lệ thuộc vào tự nhiên nên không ít khái niệm “Văn hóa” chưa giải quyết thấu đáo hiện tượng vận động “xoáy trôn ốc đi lên”. Nói tới khái niệm “Văn hóa”, chúng ta không chỉ nêu ra mô hình cấu trúc, mà điều quan trọng hơn cả là phải xuất phát từ chức năng giúp loài người “sinh tồn và phát triển” như Hồ Chí Minh đã nói (5, tập 3, tr.458) để hiểu nội hàm cơ bản của nó. 1. Văn hóa là phát minh, sáng tạo Với ba nền kinh tế (kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp - sản xuất hàng hóa từ nguyên liệu có sẵn và kinh tế tri thức - sản xuất hàng hóa từ nguyên liệu được sáng tạo mới) thì văn hóa không chỉ dừng lại ở cách ứng xử theo một khuôn mẫu, lễ nghi cứng nhắc, hoặc đua nhau khai thác tài nguyên thiên nhiên, mà phải coi “phát minh, sáng tạo” (5, tập 3, tr.458) là yếu tố cơ bản. Số 20 - Tháng 6 - 20176 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Khái niệm văn hóa đã được cha ông ta trăn trở từ rất lâu. Lê Quý Đôn đã chỉ ra cái “Văn” (mà quẻ Bí 賁 là biểu tượng) thể hiện trong quá trình vận động không ngừng và ngày một phát triển cao hơn (3). Theo Lê Quý Đôn, tuy quẻ Bí được gọi là “Văn” (văn hóa thành văn), nhưng lại được hiểu bao gồm hai công đoạn là “làm sách” (đúc rút kinh nghiệm từ quá trình lao động trước) và “đọc sách” (ứng dụng một cách sáng tạo những kinh nghiệm ấy vào quá trình lao động tiếp theo để thúc đẩy xã hội phát triển). Như thế là, để có cái văn sau phát triển hơn cái văn trước thì khái niệm “Văn” phải là một tổ hợp “danh-động từ”. Quẻ Bí (贲) trong sách Kinh Dịch có công thức: Cương nhu giao thác thiên văn dã, Văn minh dĩ chỉ nhân văn dã, Quan hồ thiên văn dĩ sát thời biến, Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ (剛柔交錯天文也,文明以止人文也,觀乎天 文以察時变,觀乎人文以化成天下). Công đoạn “đọc sách” (trong khái niệm Văn) mà Lê Quý Đôn nhắc tới bao gồm cả lao động chọn lựa kinh nghiệm tốt đẹp nhất, phù hợp nhất đã có, và sau đó phải vận dụng có hiệu quả nhất nhằm để thúc đẩy xã hội phát triển. Đó là một công đoạn vô cùng quan trọng, gọi là “Hóa”. Để có công đoạn quan trọng này, phải có quá trình tích lũy lâu dài và nghiêm túc. Thiền sư Viên Chiếu (999 - 1090) đã từng chê những người đọc sách mà không biết suy nghĩ và hành động hợp lý thì chẳng khác người mù ngắm trăng, người điếc nghe nhạc. Theo quy luật phủ định biện chứng thì không hẳn tất cả các kinh nghiệm đã có trong quá khứ đều bị coi là lạc hậu. Đồng thời cũng không thể nhất nhất đều “tin một cách mù quáng từng câu từng chữ có trong sách” (5, tập 11, tr.98). Bác Hồ đã từng dịch lại bốn câu kết của sách Tam Tự Kinh - một cuốn sách của “phong kiến” - như là những tiêu chí, những phẩm chất của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại chúng ta: Lười thì không tiến bộ Siêng năng chắc thành công Các bạn cố gắng mãi Như thế là anh hùng (5, tập 10, tr.457). (Cần hữu công - Hý vô ích - Giới chi tai - Nghi miễn lực 勤有功-戲無益-戒之哉-宜勉力). Với nhận thức “xã hội luôn biến đổi, xã hội sau phát triển hơn xã hội trước” (5, tập 11, tr.238), chúng ta hiểu rằng, tuy xã hội tư bản chủ nghĩa còn nhiều khiếm khuyết, nhưng do sản xuất hàng hóa, “làm ra được cái khác với cái có sẵn trong tự nhiên” nên rất đáng để chúng ta học tập. 2. Văn hóa phải “yên lòng dân” Nói tới khái niệm Văn hóa, người ta hay nhắc tới cụm từ “Yên lòng dân”, tức phương pháp cai trị xã hội. Muốn yên lòng dân, việc đầu tiên và quan trọng nhất là lo cho dân ấm no hạnh phúc (5, tập 4, tr.64). Hồ Chí Minh đã nhắc lại câu nói của người xưa “Dân coi miếng ăn là trời” (Dân dĩ thực vi thiên - 民以食为天) (5, tập 5, tr.553). Câu nói đó cũng giống như “ham muốn tột bậc” của Người là “làm sao để ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” (5, tập 4, tr.187). Người còn nói: “Có độc lập mà dân không có tự do hạnh phúc thì cũng là vô nghĩa” (5, tập 4, tr.64). Dù là xã hội sản xuất nông nghiệp hay sau này là xã hội công nghiệp thì như Nguyễn Trãi đã nói: “Chỉ có văn trị mới đưa xã hội tới thái bình” (Văn trị chung tu đáo thái bình (文治终 修到太平)(9, tr.289). Ý nghĩa lớn lao nhất của khái niệm “Văn trị” là quan tâm đến lợi ích của người dân, là có luật pháp nghiêm và minh (không thiên vị, không một ai được ngồi trên luật pháp). Mấy ngàn năm về trước, nhà triết học cổ đại phương Đông là Lão Tử đã chỉ ra: loài người đang làm trái đạo trời bởi người nghèo phải cung phụng người giàu. Nhìn ra mâu thuẫn rồi nhưng ông “không thể tự túm tóc mình nhấc lên” bởi ông đang sống ngập sâu trong xã hội bất công, vô lý ấy. Cũng là xã hội sản xuất nông nghiệp nhưng ở nước ta, thực tế canh tác lúa nước trong điều kiện gió mùa đòi hỏi và bắt buộc mọi người 7Số 20 - Tháng 6 - 2017 LÝ LUẬN VĂN HÓA NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA phải gắn bó với nhau, nương tựa vào nhau mà sống. Trong bài thơ khắc trên “núi Truyền Đăng”(nay gọi là núi Bài Thơ) ở Quảng Ninh vào năm 1468, Lê Thánh Tông đã chỉ ra dân ta phải gắn bó với nhau như chân với tay, và phải tôn trọng chữ “thời”: Tráng tâm sơ cảm hàm tam cổ, Tín thủ dao đề tốn nhị quyền (壯心初感咸三股 信取遙提巽二權) Phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa của văn minh nhân loại, Hồ Chí Minh đã đặt mốc quan trọng trong việc nghiên cứu khái niệm văn hóa khi Người nói: “Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân”. Hai yếu tố cơ bản mà Hồ Chí Minh nêu ra khi nghiên cứu văn hóa là: người dân lao động “phát minh và sáng tạo”, làm ra văn hóa như một quy luật tự nhiên “vì lẽ sinh tồn và phát triển”. Còn xã hội có tốt đẹp hay không lại lệ thuộc vào việc “phương thức sử dụng” các thành quả lao động ấy có hợp lý hay không. Khi xã hội đã phát triển sang một giai đoạn mới mà “Văn hóa” vẫn được hiểu theo quan niệm xưa thì Hồ Chí Minh gọi là “đem cái nắp tròn đậy cái hộp vuông” (5, tập 2, tr.562). 3. Văn hóa luôn vận động và phát triển Hơn hai mươi năm trước, tôi đã thử vận dụng công thức tư duy nhị phân sơ khai để nghiên cứu văn hóa, giáo dục (1) trong xã hội phát triển. Đến nay khi đã có thêm nhiều tài liệu mới soi sáng, tôi muốn trở lại bàn thêm về vấn đề này. Các cụ Lê Quý Đôn, Phan Bội Châu và Ngô Tất Tố đã hé mở ra hướng nghiên cứu văn hóa trong xã hội phát triển theo hình thức “xoáy trôn ốc đi lên”. Lê Quý Đôn gọi quẻ Bí là Văn, là “Văn hóa thành văn” (làm và đọc sách), là cái đẹp (3). Quẻ Bí (賁) có cấu tạo trên là núi (☶), dưới là lửa (☲). Lửa chiếu sáng (vừa phải) làm cho núi rạng rỡ hơn lên. Đó là “làm đẹp cho đời”, là cái Văn. Sách Kinh Dịch lý giải: Trong thế giới luôn vận động phát triển, thì “Văn” không đứng im, mà “cái Văn” sau luôn phải tốt đẹp hơn “cái Văn” trước. Con người phải nhận thức được quy luật đó để hành động sao cho xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Văn hóa không phải là “những thực thể có sẵn”, mà là “quá trình nhận thức và hành động của con người nhằm: từ những cái tốt đẹp nhất đã và đang có, phấn đấu để vươn tới những cái tốt đẹp hơn cần phải có”! Thế giới luôn vận động, phát triển nên Văn hóa cũng không thể đứng im, không thể bất biến. Sách Kinh Dịch đưa ra công thức vận động của Văn hóa là: Đem cái Dương lên làm Văn cho cái Âm. Đem cái Âm lại làm Văn cho cái Dương (Cương thượng nhi Văn Nhu. Nhu lai nhi Văn Cương (刚上而文柔。柔來而文刚). Với nhận thức ấy, Phan Bội Châu đã hoán đổi vị trí của hai hào 2 và 6 của quẻ Thái 泰 | (7, tr.369), Ngô Tất Tố hoán đổi vị trí hai hào 5 và 6 của quẻ Kí Tế 既濟 (8, tr.325), để thành quẻ Bí 賁 là “cái tốt đẹp hơn cần phải có”. Quẻ Thái 泰 có cấu tạo trên là Đất ☷, dưới là Trời ☰. Trời luôn bốc lên, Đất luôn lắng xuống nên chúng luôn gặp nhau để phát triển (như mùa xuân, như bình minh, như tuổi trẻ...). Quẻ Thái 泰 là “cái tốt đẹp nhất của trời đất”, nhưng không hẳn khi có nó là mọi chuyện đều suôn sẻ. Năm nào chẳng có mùa xuân, nhưng có năm thuận mưa vừa nắng, mùa màng tốt tươi, có năm lụt chưa qua, hạn đã tới. Ai chẳng có tuổi trẻ, nhưng có người thành đạt, có người suốt đời đói khổ... Quẻ Kí Tế 既濟 có cấu tạo trên là nước ☵, dưới là lửa ☲. Lửa đốt nóng làm cho nước bốc hơi, tạo thành mây, mưa là những điều kiện thiết yếu tạo nên sự sống. Quẻ Kí Tế 既濟 cũng là biểu tượng của một xã hội cân bằng cả về số lượng lẫn chức trách mà tạo hóa đã ban phát và đòi hỏi cả nam và nữ phải tuân thủ. Tài nguyên có sẵn trong thiên nhiên, khai thác mãi rồi cũng cạn kiệt. Để có được “cái tốt đẹp hơn cần phải có”, Văn hóa - Giáo dục phải được coi là “nguồn lực” để phát triển xã hội. Số 20 - Tháng 6 - 20178 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA Mở đầu sách Tam tự kinh có câu: Sinh tương cận, tập tương viễn (生相近,集相遠), có nghĩa là lúc mới sinh ra, con người ta tương đối giống nhau, nhưng quá trình học tập, rèn luyện làm cho người ta ngày một khác xa nhau (người giỏi người dốt, người giàu người nghèo). Sách Kinh Dịch chỉ ra ở quẻ Lữ 旅 có câu “Trước cười sau khóc”, nói về những kẻ mải rong chơi nên suốt đời đói khổ, về sau hối không kịp. Còn ở quẻ Đồng Nhân 同人lại có câu “Trước khóc sau cười”, chỉ những người chịu thương chịu khó, “làm tận sức” (5, tập 15, tr.588) , “chắc sẽ thành công” (5, tập 10, tr.457). Tư duy biện chứng chỉ ra rằng, không hẳn những cái trước đây được coi là tốt đẹp, ngày nay và mai sau vẫn mãi mãi được tôn vinh. Và, cũng không hẳn mọi kinh nghiệm mà loài người đã đúc kết được trong quá khứ, ngày nay đều bị coi là “lạc hậu”. Đánh giá hơn hay kém phải căn cứ vào sự phát triển xã hội theo hình thức “xoáy trôn ốc đi lên”, vòng sau phát triển cao hơn vòng trước. Cách mạng là sự phát triển, thay đổi về bản chất. Trong nền sản xuất nông nghiệp, con người sống dựa hoàn toàn vào số của cải có sẵn trong thiên nhiên thì lý thuyết “đại đồng” (chia đều cái nghèo) là tiến bộ. Bước sang nền sản xuất hàng hóa, làm ra “cái khác với cái có sẵn trong tự nhiên” để sống, thì nếu ai vẫn khăng khăng bênh vực thuyết “đại đồng”, Hồ Chí Minh khẳng định đó là “phần tử phản cách mạng” (5, tập 2, tr.563). Ngược lại, không hẳn cái gì “mới” (về mặt thời gian) cũng đều “hơn” cái trước đây, bởi trong những kinh nghiệm mà nhân loại đã chắt lọc và đúc kết ra, có nhiều cái đã là chân lý vĩnh cửu. Nếu “Văn hóa” chỉ được hiểu là “bản tổng kết quá khứ” thì nó luôn luôn lạc hậu. Bởi vậy, khi dùng biểu tượng quẻ Bí 賁 để chỉ cái Văn, Lê Quý Đôn không chỉ nói là “làm sách” mà còn gọi là “đọc sách”. Trong các câu đối (một hình thức văn rất cô đọng), cha ông ta cũng đã chỉ ra là đọc sách xưa cốt để hiểu nay: Thư pháp vị tất toàn sư cổ, Văn chương trọng tại năng thông kim 書法未必全师古,文章重在 能通今(6, tr.215). Thậm chí, khi đọc sách, người đọc còn phải thấy những điều tác giả chưa thấy. Có thể nêu một vài ví dụ: Khi kể chuyện Tây du ký, Hồ Chí Minh đã nhắc tới phẩm chất của Đường Tăng - người “lãnh đạo” đoàn người đi xin kinh Phật - là đã “có quyết tâm sắt đá, thực hiện triệt để đến cùng mục tiêu đúng đắn đã đặt ra” (4, tr.58). Nhà Hán học Vũ Tôn Sán phát hiện ra trên bìa cuốn Đại Việt sử ký toàn thư của Nội các quan bản, chữ “Mậu (戊) trong chữ “Việt” đã được chấm thêm một dấu chấm để thành chữ “Tuất” là tuổi của Lý Công Uẩn, người dựng nên nhà nước độc lập đầu tiên sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Trong 3 câu thơ thứ 1088 - 1090 của Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã “kín đáo” nêu ra vấn đề này. Muốn hiểu thấu các di sản tư tưởng trong quá khứ, nhiều khi ta phải đặt mình trong không gian, tâm thức của người viết xưa. Chẳng hạn muốn hiểu thấu đáo hai câu thơ của Lê Thánh Tông viết trên đá núi Bài Thơ năm 1468 (đã dẫn ở trên), người đọc phải hiểu “nghĩa ẩn đằng sau con chữ” (5, tập 1, tr.461). Điều đó chỉ ra rằng, trong sách còn có những lời “vô ngôn” hoặc “ý tại ngôn ngoại”. Bởi thế trong “Tuyên ngôn của các Đảng cộng sản” F.Ăngghen mới nói, con chữ là một trong ba điều kiện giúp con người thoát khỏi thế giới dã man, tiến lên xã hội văn minh. Khi đã bước sang xã hội sản xuất hàng hóa, làm ra cái “khác với cái có sẵn trong tự nhiên” mà vẫn mong chỉ dùng đạo đức để quản lý xã hội (đức trị) là ảo tưởng. Quản lý xã hội ngày nay chủ yếu phải bằng luật pháp nghiêm minh trên cơ sở thể chế xã hội hợp lý, mọi người phải lao động sáng tạo hết mình, “tận sức” (5, tập 15, tr.588) và phân phối thành quả lao động hợp lý, “bình quân chủ nghĩa là trái với chủ nghĩa xã hội” (5, tập 10, tr.583). 4. Văn hóa trong mối quan hệ với kinh tế - chính trị Trong Kinh Dịch (cuốn sách ra đời ít nhất đã hơn bốn ngàn năm trăm năm về trước), có quẻ 9Số 20 - Tháng 6 - 2017 LÝ LUẬN VĂN HÓA NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA thứ 64, quẻ cuối cùng trong chu kỳ phát triển thấp gọi là quẻ Vị Tế 未濟. Trong quẻ ấy có câu chuyện con cáo nhỏ muốn bơi qua sông (để chuyển lên chu kỳ phát triển cao hơn) nhưng lười biếng, cứ để cái đuôi dài lướt thướt của mình kéo lê thê trong nước, nên không thể nào bơi được qua sông. Câu chuyện ấy chỉ ra: ngày nay, chúng ta muốn chuyển đổi từ nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, lạc hậu, lên nền sản xuất công nghiệp, sản xuất hàng hóa (hoặc gọi là “công nghiệp hóa nông nghiệp”) mà vẫn “siêng ăn biếng làm”, thì giấc mơ “bỏ qua thời kì phát triển” nào đó (mà không tuân thủ những bước đi của sự phát triển tất yếu), thì cũng chỉ là điều ảo tưởng. Để thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, khi Người nhấn mạnh đến việc phát triển sản xuất (tăng năng suất lao động) và phân phối thành quả lao động một cách hợp lý nhằm lo “miếng ăn” cho dân, chúng tôi thấy cần phải chú ý hơn nữa đến “phác thảo tư tưởng” của Ngô Tất Tố, khi ông chuyển đổi vị trí hào 2 và hào 3 của quẻ Tổn (損) để thành quẻ Bí (賁) (8, tr.325). Chúng tôi thể hiện “phác thảo” này trong hình vẽ sau: Quẻ Tổn (損) có cấu tạo trên là núi (☶) dưới là đầm lầy (☱). Đạo trời chỉ ra: phải đem phù sa từ trên núi rải xuống đầm lầy để “ích trên lợi dưới”. “Phác thảo tư tưởng” của Ngô Tất Tố là chuyển thẳng quẻ Tổn (損) sang quẻ Bí (賁). Ý nghĩa của sự “chuyển” này là để tạo sự hài hòa giữa “núi” và “đầm lầy”, trong cái nọ, có cái kia. Điều này phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh: “Văn hóa phải nằm trong kinh tế và chính trị”. Trong bức thư gửi triển lãm mỹ thuật năm 1951, Hồ Chí Minh đã nêu ra một triết lý văn hóa. Triết lý ấy được thể hiện trong cách “định nghĩa” có một không hai về mô hình xã hội lý tưởng: “Có thực mới vực được đạo”. Đó là chủ nghĩa duy vật, đó là gốc của chủ nghĩa Mác - Lê nin (5, tập 5, tr.553). Trong mô hình xã hội lý tưởng, Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: “Chủ và thợ phải hợp tác với nhau trong lao động để cùng có lợi” (5, tập 5, tr.124). Trong hình vẽ trên, chúng tôi đề xuất thêm: trước hết phải chuyển đổi vị trí hào 2 và hào 5 của quẻ Tổn (損) để thành quẻ Ích (益); tiếp đến, chuyển đổi vị trí hào 3 và hào 5 của quẻ Ích (益) để thành quẻ Bí. Sự chuyển đổi này cũng phù hợp với hai công đoạn “hợp tác lao động” và “phân phối thành quả lao động hợp lý” trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh. Khái niệm Văn hóa của Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh yếu tố “phát minh và sáng tạo” cùng với “phương thức sử dụng hợp lý” thành quả của các phát minh và sáng tạo đó (5, tập 3, tr.458). Tư tưởng “Văn hóa không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế và chính trị” của Hồ Chí Minh không hề hạ thấp vai trò của Văn hóa, mà ngược lại chính là trả lại cho Văn hóa vị trí cao cả và thiêng liêng vốn có. H.S.C (Nguyên giảng viên Khoa Quản lý Văn hóa - Nghệ thuật, Trường ĐHVH HN) Tài liệu tham khảo 1. Hoàng Sơn Cường (2003), Văn hóa một góc nhìn, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội. 2.馮天攸(1991),河孝明,周迹明,-中华文 化史,上海人民出版社. 3. Lê Quý Đôn (2007), Lời nói đầu thiên Nghệ văn chí, sách Lê triều thông sử, Ngô Thế Long dịch, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 4. Trần Văn Giang (2004), Bác Hồ kể chuyện Tây du ký, In lần thứ 5, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 5. Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Nxb. Sự thật Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 6. Trần Lê Sáng, Phạm Kỳ Nam, Phạm Đức Duật (2009), Hoành phi câu đối Hán - Nôm tinh tuyển, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 7. Chương Thâu (1992), Phan Bội Châu toàn tập, tập 7, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 8. Ngô Tất Tố (1995), Kinh Dịch trọn bộ, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 9. Nguyễn Trãi Toàn tập (1976), Nxb. Khoa học xã hội. Ngày nhận bài: 5 - 1 - 2017 Ngày phản biện, đánh giá: 14 - 6 - 2017 Ngày chấp nhận đăng: 30 - 6- 2017
File đính kèm:
- ban_them_ve_khai_niem_van_hoa.pdf