Application of Exploratory Factor Analysis (EFA) and Analytic Hierarchy Process (AHP) in Valuation of Urban Residential Land in Quoc Oai Town, Quoc Oai District, Hanoi City
Land price is essential for land transactions, development of land policy,. Therefore, if
the determination of land values is accurate and objective, it will greatly contributes to sustainable,
economical and effective use of land resources. In this study, for identifying factors affecting land
prices, we had interviewed 100 people, including land users, officials, real estate agents, land
management experts. Using exploratory factor analysis, we identified five groups of 16 factors
affecting land prices in Quoc Oai Town: location, policy, region, individuality, and environment,
where location is the most influential factor group in land prices in Quoc Oai Town. Next, analytic
hierarchy process is used to determine weight of each factor and calculate their influence index. The
research results have proved the usefulness of combining EFA and AHP in identifying and
quantifying factors influencing on land prices for land valuation
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Application of Exploratory Factor Analysis (EFA) and Analytic Hierarchy Process (AHP) in Valuation of Urban Residential Land in Quoc Oai Town, Quoc Oai District, Hanoi City
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 45-57 45 Original Article Application of Exploratory Factor Analysis (EFA) and Analytic Hierarchy Process (AHP) in Valuation of Urban Residential Land in Quoc Oai Town, Quoc Oai District, Hanoi City Doan Quang Cuong, Tran Quoc Binh VNU University of Science, Vietnam National University, Hanoi, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam Received 29 November 2019 Revised 09 January 2020; Accepted 10 April 2020 Abstract: Land price is essential for land transactions, development of land policy,... Therefore, if the determination of land values is accurate and objective, it will greatly contributes to sustainable, economical and effective use of land resources. In this study, for identifying factors affecting land prices, we had interviewed 100 people, including land users, officials, real estate agents, land management experts. Using exploratory factor analysis, we identified five groups of 16 factors affecting land prices in Quoc Oai Town: location, policy, region, individuality, and environment, where location is the most influential factor group in land prices in Quoc Oai Town. Next, analytic hierarchy process is used to determine weight of each factor and calculate their influence index. The research results have proved the usefulness of combining EFA and AHP in identifying and quantifying factors influencing on land prices for land valuation. Keywords: exploratory factor analysis, analytic hierarchy process, land price, Quoc Oai town. ________ Corresponding author. E-mail address: binh.geomatics@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4521 D.Q. Cuong, T.Q. Binh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 45-57 46 Ứng dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích thứ bậc (AHP) trong định giá đất ở đô thị trên địa bàn thị trấn Quốc Oai, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội Đoàn Quang Cương, Trần Quốc Bình Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 29 tháng 11 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 09 tháng 01 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 10 tháng 4 năm 2020 Tóm tắt: Giá đất là cơ sở phục vụ cho các giao dịch về đất đai, xây dựng chính sách về đất đai,... Do vậy, nếu việc xác định giá trị đất đai được chính xác, khách quan thì sẽ góp phần quan trọng cho sử dụng đất đai bền vững, tiết kiệm và hiệu quả. Trong nghiên cứu này, để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất, chúng tôi khảo sát 100 người dân (người dân sử dụng đất, cán bộ địa chính địa phường, nhân viên kinh doanh BĐS, chuyên gia quản lý đất đai). Kết quả phân tích nhân tố khám phá cho thấy 5 nhóm gồm 16 yếu tố ảnh hưởng đến giá đất tại trị trấn Quốc Oai bao gồm vị trí, chính sách, khu vực, cá biệt, môi trường. Trong đó, vị trí là nhân tố có ảnh hưởng lớn nhất đến giá đất tại thị trấn Quốc Oai. Từ đó, trọng số của từng yếu tố được xác định bằng phương pháp phân tích đa chỉ tiêu (AHP) nhằm xây dựng chỉ số ảnh hưởng của các yếu tố đến giá đất. Kết quả nghiên cứu đã chứng minh tính hữu dụng của sự kết hợp EFA và AHP trong nhận dạng và lượng hóa các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất phục vụ công tác định giá đất. Từ khoá: phân tích nhân tố khám phá, phân tích thứ bậc, giá đất, thị trấn Quốc Oai. 1. Mở đầu Với tốc độ đô thị hóa nhanh như ở nước ta hiện nay, giá đất vùng ngoại ô các thành phố tăng nhanh chóng và là tâm điểm chú ý của các bên tham gia thị trường bất động sản. Chính vì vậy, xác định giá đất sát với giá trị thực sẽ giúp thị trường đất đai vận hành thông suốt. Để định giá đất chính xác cần xác định các yếu tố tác động đến giá đất như vị trí, khoảng cách đến các tiện ích công cộng, trung tâm hành chính, trường học,... Thị trấn Quốc Oai là trung tâm huyện Quốc Oai, huyện ngoại thành nằm ở khu vực phía tây Thủ đô Hà Nội. Trong những năm gần đây, với ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: binh.geomatics@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4521 sự thay đổi mạnh mẽ về cơ sở hạ tầng và diện mạo đô thị, nông thôn, các giao dịch về bất động sản khu vực này ngày càng sôi động. Do đó, việc xác định các yếu tố hưởng đến giá đất là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách có những giải pháp hiệu quả trong quy hoạch sử dụng đất và phát triển thị trường bất động sản. Trên thế giới, việc xác định các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau như phương pháp phân tích đa chỉ tiêu, mô hình hồi quy đa biến, mô hình hồi quy trọng số địa lý,... Bằng việc kết hợp trọng số và mức độ ảnh hưởng đến giá đất của các chỉ tiêu thành phần, bản đồ giá trị các nhóm yếu tố ảnh hưởng được xây dựng nhằm phục vụ định D.Q. Cuong, T.Q. Binh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 45-57 47 giá đất và cung cấp thông tin đất đai. Việc kết hợp phân tích hồi quy đa biến và phân tích địa thống kê đã được sử dụng nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến giá đất trong nghiên cứu của Nzau [1]. Trong nghiên cứu của Demetris Demetrious [2], việc định giá đất được thực hiện bằng các kỹ thuật tiên tiến, bao gồm phân tích hồi quy bội (MRA) và phân tích trọng số địa lý bằng GIS để lựa chọn các nhân tố ảnh hưởng đến giá đất và xây dựng bản đồ giá đất. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ, GIS còn có thể được kết hợp với trí tuệ nhân tạo nhằm nâng cao khả năng xử lý các vấn đề không gian [3]. Hiện nay, nhiều tác giả đã sử dụng tích hợp các mô hình thực nghiệm về giá đất chuẩn và GIS để đánh giá sự phát triển bền vững của đất ở đô thị. Ở nghiên cứu của Zhao Xu [4], các mô hình giá đất chuẩn được tích hợp với công nghệ GIS và trực quan hóa dữ liệu giá đất và mô phỏng không gian 3D cho các khu vực đất ở đô thị. Tại Việt Nam, vấn đề giá đất được đề cập trong nhiều nghiên cứu. Việc xác đ ... đỉnh 0,54 1,0 0,060 7-9 đỉnh 0,32 0,95 0,033 >9 đỉnh 0,14 0,92 0,015 Độ rộng góc (0,33) <20o 0,54 1,0 0,030 20-40o 0,31 0,87 0,015 > 40o 0,15 0,80 0,006 Loại đường (0,47) Loại 2 0,73 1,0 0,345 Loại 5 0,17 0,66 0,052 Loại 6 0,10 0,57 0,026 Mặt tiền (0,25) < 5 m 0,15 0,81 0,029 5 – 10 m 0,30 0,90 0,070 >10 m 0,55 1,0 0,141 D.Q. Cuong, T.Q. Binh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 45-57 54 Với mục tiêu xây dựng bản đồ giá đất, nghiên cứu tiến hành thu thập dữ liệu về giá thị trường của các thửa đất nằm trong khu vực. Trong nghiên cứu này, giá đất tại thị trấn Quốc Oai chịu ảnh hưởng từ 9 yếu tố thành phần và được thể hiện thông qua chỉ số nhân tố chung (là giá trị trung bình trọng số của chỉ số nhân tố vị trí và nhân tố cá biệt). Như vậy, giá đất thị trường tại thị trấn Quốc Oai được xác định dưới dạng sau: G = IT* GQC Trong đó: G là giá đất của thửa đất cần xác định, IT là chỉ số ảnh hưởng chung, GQC là giá quy chuẩn (đã được tách các yếu tố ảnh hưởng khỏi giá đất). Giá quy chuẩn GQC được xác định là thương số giữa giá đất thu thập được và chỉ số ảnh hưởng chung (IT). Giá trị GQC của toàn bộ khu vực được xác định bằng phương pháp nội suy giá của 126 điểm giá thu thập trên thị trường. Trong nghiên cứu này, phương pháp nội suy trị trung bình trọng số (IDW) được sử dụng để nội suy giá đất, vì trong ba phương pháp nội suy IDW, Kriging, Spline thì phương pháp IDW thường cho kết quả tốt hơn [35]. Để tính giá đất quy chuẩn trung bình cho các thửa đất, công cụ Zonal Statistic as Table được sử dụng, giá đất quy chuẩn trung bình của các thửa đất thu được ở trường MEAN. Mỗi thửa đất riêng biệt có chỉ số ảnh hưởng của các yếu tố là khác nhau, do đó để tính giá đất cho các thửa đất, nghiên cứu tính giá đất cho từng thửa đất. Giá đất này được xác định bằng tích giữa giá quy chuẩn trung bình và chỉ số ảnh hưởng chung của thửa đất đó. Kết quả thu được bản đồ giá đất tại thị trấn Quốc Oai, với giá đất trung bình là 13,54 triệu đồng/m2, giá cao nhất dao động từ 27 - 28 triệu đồng/m2 thuộc khu vực trung tâm thị trấn. Các thửa đất nằm trong các làng mức giá chỉ từ 7 triệu đồng/m2. 4.3. Đánh giá độ tin cậy của kết quả Để so sánh mức độ phù hợp của chỉ số ảnh hưởng của các yếu tố đến giá đất của khu vực thị trấn Quốc Oai. Tác giả lựa chọn phương pháp hồi quy trọng số địa lý (Geographically Weighted Regression) để đối sánh với kết quả giá đất xây dựng từ bộ chỉ số ảnh hưởng. Hồi quy theo trọng số địa lý (GWR) là kỹ thuật hồi quy cục bộ được sử dụng để ước tính mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc theo không gian [36]. Trong lĩnh vực định giá đất, đây là phương pháp được sử dụng phổ biến nhằm xác định mức độ đóng góp của biến độc lập đối với biến phụ thuộc. Ngoài việc thể hiện mối quan hệ giữa các biến, mô hình GWR còn cho phép giải thích mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập thay đổi theo không gian. Kết quả mô hình hồi quy trọng số địa lý của 126 giá thu thập, với biến phụ thuộc là giá đất, biến độc lập là chỉ số vị trí (I_vitri), chỉ số cá biệt (I_cabiet) như sau: Bảng 9. Kết quả hồi quy GWR Variable Intercept I_vitri I_cabiet Coefficient 6,06 20,74 14,08 Residual 0,01 R2 adjusted 0,8115 Để đánh giá hiệu suất của mô hình GWR, chỉ số R2 hiệu chỉnh được sử dụng. R2 đại diện cho hệ số xác định và đo lường mức độ phù hợp của dữ liệu, giá trị R2 có giá trị nằm trong khoảng [0;1] [37]. Giá trị R2 hiệu chỉnh là 0,8115 cho thấy 81,15%, giá đất được tại thị trấn Quốc Oai được giải thích bởi các biến trong mô hình. Hệ số phần dư là 0,01 gần với giá trị 0, có nghĩa sự khác biệt giữa giá trị quan sát và giá ước tính là rất ít. Kết quả thể hiện mô hình phù hợp với tập dữ liệu nghiên cứu. Như vậy, mô hình giá đất ở đô thị tại thị trấn Quốc Oai được xác định bởi công thức: 𝑃 = 6,06 + 20,74. 𝑉𝑖𝑡𝑟𝑖 + 14,08. 𝐶𝑎𝑏𝑖𝑒𝑡 + 0,01 Kết quả hồi quy 𝛽 cho thấy, khi giá trị chỉ số vị trí tăng lên 0,1 đơn vị giá đất ở đô thị tại thị trấn Quốc Oai tăng 2,074 triệu đồng/m2 và ngược lại. Khi giá trị chỉ số Cá biệt tăng 0,1 đơn vị, giá đất ở đô thị tại thị trấn Quốc Oai tăng 1,408 triệu đồng/m2. Theo kết quả hệ số hồi quy, nhân tố vị trí (𝛽 = 20,74) là nhân tố có mức độ ảnh hưởng rất cao đến giá đất ở đô thị ở thị trấn Quốc Oai, nhân tố cá biệt có hệ số 𝛽 =14,08. So sánh tỉ lệ ảnh hưởng của hai nhân tố này đến giá đất với trọng số xác định bằng phương pháp phân tích D.Q. Cuong, T.Q. Binh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 45-57 55 thứ bậc (AHP), kết quả cho thấy sự chênh lệch không đáng kể khi xác định bởi hai phương pháp. Sử dụng kết quả mô hình hồi quy trọng số địa lý để định giá đất cho khu vực thị trấn Quốc Oai, kết quả thu được giá đất thị trường của từng thửa đất. So sánh mức độ chênh lệnh về giá đất thực hiện bằng phương pháp sử dụng chỉ số ảnh hưởng của yếu tố và phương pháp GWR, có thể thấy rằng, kết quả của hai phương pháp khá tốt, mức độ chênh lệch không nhiều. Giá trị độ lệch trung bình là 0,004 triệu đồng/m2, độ lệch chuẩn là 1,64 triệu đồng/m2. Trong đó số thửa có mức chênh lệch nhỏ hơn 1,64 triệu đồng/m2 chiếm 72,5%, số thửa có mức chênh lệch nhỏ hơn 2,5 triệu đồng/m2 chiếm tỉ lệ 89,01% tổng số thửa được định giá. Hình 3. Biểu đồ phân bố chênh lệch giá đất của hai phương pháp. 5. Kết luận Từ dữ liệu điều tra khảo sát thực địa về các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất tại khu vực nghiên cứu, phương pháp phân tích nhân tố khám phá (EFA) và hệ thống thông tin địa lý (GIS) có khả năng đánh giá thang đo và phân nhóm các nhân tố ảnh hưởng đến giá đất. Qua kết quả phân tích nhân tố khám phá về các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất tại thị trấn Quốc Oai, 5 nhóm nhân tố có ảnh hưởng đến giá đất bao gồm: vị trí, chính sách, cá biệt, khu vực, môi trường. Trong đó, 2 nhân tố được đánh giá quan trọng nhất đối với giá đất ở đô thị là nhân tố vị trí (0,41) và nhân tố cá biệt (0,27). Ngoài ra, phương pháp phân tích đa chỉ tiêu AHP được sử dụng nhằm xác định trọng số của các chỉ tiêu thành phần trong các nhóm nhân tố. Trọng số của các yếu tố này được đưa vào quá trình xây dựng chỉ số ảnh hưởng của các yếu tố đến giá đất, phục vụ công tác định giá đất hàng loạt. Kết quả kiểm định thể hiện giá đất xác định bằng chỉ số ảnh hưởng có sự chênh lệch ít so với phương pháp GWR, với 89,01% chênh lệch dưới 2,5 triệu đồng/m2. Tài liệu tham khảo [1] Nzau, Modelling of influecen of urban sub-centres on spatial and temporal urban land value pattern, Case study of Nairobi, Kenya, Enschede, The Netherlands: International Institute for Aerial Survey and Earth Sciences (ITC), 2003. [2] D.Demetris, The assessment of land valuation in land consolidation schemes: The need for a new land valuation framework, Land Use Policy 54 (2016) 487-498. https://doi.org/10.1016/ j.landusepol. 2016.03.008. [3] G.Noelia, M.Gámez, E.Alfaro, ANN+ GIS: An automated system for property valuation, Neurocomputing 71 (2008) 733-742. https:// doi.org/10.1016/j.neucom.2007.07.031. [4] X.Zhao, Q.Li, Integrating the empirical models of benchmark land price and GIS technology for sustainability analysis of urban residential development, Habitat International 44 (2014) 79-92. https://doi.org/10.1016/j.habitatint.2014. 04.012. [5] L.K. Ninh, Factors affecting the price of peri- urban land in the Mekong Delta, Journal of Asian Business and Economic Studies 254 (2011) 11-17 (in Vietnamese). [6] N.Q.Hoa, N.H. Duong, Building a model of mass land valuation for Go Vap district, Ho Chi Minh City, Journal of Asian Business and Economic Studies 26(3) (2016) 82-103 (in Vietnamese). [7] F.L. Paulo, P. Belfiore, Principal Component Factor Analysis, Multivariate Exploratory Data Analysis, Elsevier Inc., 2019, pp.383-438. [8] J.B. Nichols., S.D. Oliner, M.R. Mulhall, Swings in commercial and residential land prices in the United States, Journal of Urban Economics 73(1) (2013) 57-76, https://doi.org/10.1016/j.jue. 2012. 06.004. D.Q. Cuong, T.Q. Binh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 45-57 56 [9] V.Willy, Land value and price of land, Land use, land cover and soil sciences 3, UNESCO-EOLSS, 2005. [10] G. George, P. Tatian, K. Pettit, Supportive Housing and Neighborhood Property Value Externalities, Land Economics 80 (2004) 33-54. https://doi.org/10.2307/3147143. [11] K. Nasr, B.A. Portnov, Economic, demographic and environmental factors affecting urban land prices in the Arab sector in Israel, Land Use Policy 50(2016)518-527.https://doi.org/ 10.1016/j.landusepol. 2015. 08.031. [12] M. Jafar, R. Samadi, A. Hosseini, Evaluating and analysis of socio-economic variables on land and housing prices in Mashhad, Iran, Sustainable Cities and Society 41 (2018) 695-705. https:// doi.org/10.1016/j.scs.2018.06. 022. [13] N. Hiroki, Relationship among land price, entrepreneurship, the environment, economics, and social factors in the value assessment of Japanese cities, Journal of Cleaner Production 217 (2019) 144-152. https://doi.org/10.1016/j.jclepro. 2019.01.201. [14] WHO, Burden of Disease From Environmental Noise The World Health Organization, 2011. [15] B. Nir, D. Lavee, The Benefits and Costs of Noise Reduction, Journal of Environmental Planning and Management 46 (2003) 97-111. https://doi. org/10.1080/713676703. [16] K.K. Sik, S.J. Park, Y.J. Kweon, Highway traffic noise effects on land price in an urban area, Transportation Research Part D: Transport and Environment 12 (4) (2007) 275-280. https://doi. org/10.1016/j.trd.2007.03.002. [17] M.D. Carlos, Does noise have a stationary impact on residential values?, Journal of European Real Estate Research 2(3) (2009) 259-279. https://doi. org/10.1108/1753926091099 9992. [18] D.M. Faris, Estimating land value uplift around light rail transit stations in Greater Kuala Lumpur: An empirical study based on geographically weighted regression (GWR), Research in Transportation Economics 74 (2019) 10-20. https:// doi.org/10.1016/j.retrec. 2019.01. 003. [19] M. Sathita, A. Fukuda, V. ichiensan, V. Wasuntarasook (2018), Hedonic pricing model of assessed and market land values: A case study in Bangkok metropolitan area, Thailand, Case Studies on Transport Policy, Available online 21 September 2018. https://doi.org/10.1016/j.cstp. 2018.09.008. [20] H.V. Dung, Identify factors that affect real estate prices, Journal of Finance 11 (2016) 54-57 (in Vietnamese). [21] H. Shougeng, S. Yang, W. Li, C. Zhang, F. Xu, Spatially non-stationary relationships between urban residential land price and impact factors in Wuhan city, China, Applied Geography 68 (2016) 48-56. https://goi.org/10.1016/j.apgeog. 2016.01. 006. [22] J. Hair, W.C. Black, B.J. Babin, R.E. Anderson, Multivariate Data Analysis, Pearson, 2009. [23] B. Shenavr, S.M. Hosseini, Comparison of multi- criteria evaluation (AHP and WLC approaches) for Land capability assesment of Urban development in GIS, International Journal of geomatics and geosciences 4 (2014) 435-446. [24] P.S. Liem, T.V. Tuan, Building Land Price Zone in Rural Areas: A Case Study of Duong Quang Commune, Gia Lam District, Hanoi City, Vietnam Journal Agriculture Science 16 (2018) 601-612 (in Vietnamese). [25] C.R. Bollinger, K.R. Ihlanfeldt, D.R. Bowes, Spatial Variation in Office Rents within the Atlanta Region, Urban Studies 35 (1998) 1097- 1118. https://doi.org/10.1080/0042098984501. [26] B. Rabia, A.C. Aydinoglu, Providing land value information from geographic data infrastructure by using fuzzy logic analysis approach, Land Use Policy 78 (2017) 46-60. https://doi.org/10.1016/ j.landusepol.2017.07. 029. [27] O. Evren, V. Dokmeci, G. Kiroglu, G. Egdemir, Spatial Analysis of Residential Prices in Istanbul, European Planning Studies, 15 (5) (2007) 707-721. https://doi.org/ 10.1080/09654 310701214085. [28] N.D. Tho, N.T.M. Trang, Researching Marketing Sciences - Applying SEM linear structure model in business administration, Publisher of National University of Ho Chi Minh City, 2007 (in Vietnamese). [29] J. Nunnally, Psychometric Theory, New York : McGraw-Hill, US, 1994. [30] H. Trong, C.N.M. Ngoc, Analyze research data with SPSS, Hong Duc Publishing House, 2008 (in Vietnamese). [31] A.F.M. Alkarkhi, W.A.A. Alqaraghuli, Factor Analysis, Easy Statistics for Food Science with R, 143-159, Elsevier, 2019. D.Q. Cuong, T.Q. Binh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 45-57 57 [32] J.B. David, M. Knott, I. Moustaki, Latent Variable Models and Factor Analysis: A Unified Approach, Wiley, UK, 2011. [33] S. Thomas, The analytic hierarchy process, MCGraw-Hill, New York, 1980. [34] S. Thomas, The analytic hierarchy process- What it is and how it is used, Mathl Modelling 9 (1987) 161-176. https://doi.org/10.1016/0270-0255(87) 90473-8. [35] T.Q. Binh, L.P. Thuy, Đ.T.M. Tam, Researching to build grassroots land information system software in urban areas (case study of Nguyen Du ward, Hai Ba Trung district, Hanoi city), Project VNU - QG.08.14, 2010 (in Vietnamese). [36] L. Binbin, M. Charlton, A.S. Fotheringhama, Geographically Weighted Regression Using a Non-Euclidean Distance Metric with a Study on London House Price Data, Procedia Environmental Sciences 7(2011)92-97. https://doi.org/10.1016/ j.proenv. 2011.07.017. [37] A.S. Fotheringham, C. Brunsdon, M. Charlton, Geographically Weighted Regression-The Analysis of Spatially Varying Relationships, Wiley, University of Newcastle, UK, 2002.
File đính kèm:
- application_of_exploratory_factor_analysis_efa_and_analytic.pdf