Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay

Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đang diễn ra ở

hầu hết các tỉnh thành phố trên cả nước với tốc độ ngày càng cao. Theo quy

luật chung, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa sẽ dẫn đến

việc hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị và phát triển hệ thống cơ sở hạ

tầng kinh tế - xã hội. Để có tiền đề về vị trí, đất đai phục vụ xây dựng các khu

công nghiệp, khu đô thị và các công trình công cộng thì hằng năm Nhà nước

tiến hành thu hồi một lượng lớn diện tích đất nông nghiệp giao cho chủ đầu tư

để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh, điều đó đã và đang làm nảy sinh

nhiều vấn đề xã hội phức tạp, nhất là việc chăm lo, ổn định đời sống cho người

dân sau khi đất bị thu hồi. Theo đó, bảo đảm việc làm, thu nhập và đời sống

cho người dân sau khi bị thu hồi đất là vấn đề được quan tâm gần đây.

Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay trang 1

Trang 1

Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay trang 2

Trang 2

Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay trang 3

Trang 3

Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay trang 4

Trang 4

Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay trang 5

Trang 5

Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay trang 6

Trang 6

Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay trang 7

Trang 7

Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay trang 8

Trang 8

Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay trang 9

Trang 9

Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang viethung 3620
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay

Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay
 178 
BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG CHO NGƯỜI DÂN 
BỊ THU HỒI ĐẤT TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA 
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY 
 TS. Đỗ Thị Hiện 
TÓM TẮT 
Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa đang diễn ra ở 
hầu hết các tỉnh thành phố trên cả nước với tốc độ ngày càng cao. Theo quy 
luật chung, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa sẽ dẫn đến 
việc hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị và phát triển hệ thống cơ sở hạ 
tầng kinh tế - xã hội. Để có tiền đề về vị trí, đất đai phục vụ xây dựng các khu 
công nghiệp, khu đô thị và các công trình công cộng thì hằng năm Nhà nước 
tiến hành thu hồi một lượng lớn diện tích đất nông nghiệp giao cho chủ đầu tư 
để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh, điều đó đã và đang làm nảy sinh 
nhiều vấn đề xã hội phức tạp, nhất là việc chăm lo, ổn định đời sống cho người 
dân sau khi đất bị thu hồi. Theo đó, bảo đảm việc làm, thu nhập và đời sống 
cho người dân sau khi bị thu hồi đất là vấn đề được quan tâm gần đây. 
Bài viết “Bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất 
trong quá trình công nghiệp hóa ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay” tập 
trung nghiên cứu một số quan điểm của Đảng về bảo đảm việc làm và đời sống 
cho người dân trong quá trình công nghiệp hóa, đồng thời nghiên cứu thực 
trạng và đưa ra một số giải pháp định hướng nhằm đảm bảo việc làm cho người 
dân bị thu hồi đất ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện nay. 
Từ khóa: chất lượng cuộc sống, người bị thu hồi đất, công nghiệp hóa, 
Đồng bằng sông Cửu Long 
1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bảo đảm chất lượng 
cuộc sống cho người dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa 
Có thể thấy, hơn 30 năm qua, nông nghiệp Việt Nam đã có những bước 
tiến vượt bậc, phần lớn người nghèo sống ở nông thôn nhờ đó đã cải thiện đời 
sống, đưa Việt Nam trở thành một trong những nước có tỷ lệ xóa đói, giảm 
nghèo với tốc độ cao nhất trên thế giới. Thành quả này có được một phần nhờ 
vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đại hội 
Đảng lần thứ VII (tháng 6/1991) chỉ rõ: Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn 
với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng 
 Trường Đại học Hoa Sen. 
179 
 KỶ YẾU HỘI THẢO 
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH 
nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế xã 
hội. Đại Hội Đảng IX (tháng 4/2001) đề ra nhiệm vụ đẩy nhanh công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Trung ương ban hành Nghị quyết 5 
về “đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn thời kỳ 
2001-2010”. 
 Đến Nghị quyết lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông 
nghiệp, nông dân, nông thôn, nhận định: nông thôn Việt Nam đã đạt được 
những thành tựu khá toàn diện và to lớn. Đồng thời cũng nhấn mạnh vị trí chiến 
lược của nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đề cao vai trò chủ thể của nông dân 
và đề xuất xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, 
bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả 
năng cạnh tranh cao. Nghị quyết cũng đặt chỉ tiêu, đến năm 2020, lao động 
nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào 
tạo đạt trên 50%, số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%1. 
Trong bối cảnh quá trình công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô 
thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi cả nước với tốc độ ngày càng cao 
dẫn đến việc hình thành các khu công nghiệp, khu đô thị và phát triển hệ thống 
cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội. Theo đó, Nhà nước tiến hành thu hồi một lượng 
lớn diện tích đất nông nghiệp giao cho chủ đầu tư để thực hiện các dự án sản 
xuất kinh doanh, điều đó: “đã và đang làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức 
tạp, nhất là việc chăm lo, ổn định đời sống cho người dân sau khi đất bị thu 
hồi”2. Bảo đảm việc làm, thu nhập và đời sống cho người dân sau khi bị thu hồi 
đất là vấn đề được quan tâm trong những năm gần đây. Để bảo đảm việc làm và 
đời sống cho người dân bị thu hồi đất cần dựa trên các quan điểm sau: 
Một là, thu hồi đất phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là rất cần 
thiết, người bị thu hồi là người có đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội. 
Đất nông nghiệp là tài sản quý giá nhất, nguồn lực quyết định để người 
nông dân tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Trong 
nhiều năm, Đảng và Nhà nước đã có những nỗ lực hỗ trợ nông dân tiếp cận 
1 Đảng cộng sảnViệt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương 
khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.121-126 
2 Lưu Song Hà (2009), Điều tra điểm tâm lý nông dân bị thu hồi đất làm khu công nghiệp, 
Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr.22 
 180 
quyền sử dụng đất đai và vấn đề bảo hộ nông dân giữ quyền sử dụng đất cả với 
tư cách tư liệu sản xuất, lẫn tư cách tài sản1. Khác với các tư liệu khác, sức sản 
xuất của đất đai có thể không bị suy giảm cùng với thời gian nếu con người biết 
cách khai thác và sử dụng hợp lý. Đảm bảo an ninh lương thực là cần thiết cho 
sự phát triển bền vững, song, đảm bảo an ninh lương thực bằng cách giữ 
nguyên diện tích đất nông nghiệp vốn có là không hợp lý vì chúng ta có thể lợi 
dụng sức sản xuất không có hạn của đất và tận dụng sức mạnh của khoa học - 
công nghệ để thực hiện mục tiêu này với một số lượng diện tích đất nông 
nghiệp ít hơn. Với biện pháp này, có thể chuyển một phần diện tích đất nông 
nghiệp sang phục vụ phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ, du lịch là 
những lĩnh vực tạo ra được nhiều việc làm hơn hàng chục lần so với đất để làm 
nông nghiệp và cũng đem lại thu nhập cao hơn, ổn định hơn cho người lao 
động. Đây cũng là phương thức phổ biến mà các quốc gia phát triển trên thế 
giới thực hiện. 
Người bị thu hồi đất là những người bị mất tư liệu sản xuất chính đã gắn 
bó với nhi ... ơng, liền kề với vùng kinh tế trọng điểm 
phía Nam nên vùng có mối quan hệ hai chiều rất chặt chẽ và quan trọng. Nằm giáp với Campuchia và 
183 
 KỶ YẾU HỘI THẢO 
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH 
tự nhiên, 32% diện tích đất nông nghiệp cả nước; nổi tiếng là châu thổ lớn và 
phì nhiêu vào bậc nhất không những của Việt Nam mà của cả Đông Nam Á. 
Đây là vùng trọng điểm sản xuất lúa gạo, trái cây nhiệt đới, thủy sản lớn nhất 
của Việt Nam. Đặc biệt trong 30 năm đổi mới, sản xuất lúa gạo, rau quả và nuôi 
trồng thủy sản đã phát triển rất đáng kể, đóng góp quan trọng vào mục tiêu an 
toàn lương thực và xuất khẩu của cả nước. 
Những năm gần đây, nhằm đáp ứng yêu cầu tốc độ đô thị hóa, ở ĐBSCL, 
Nhà nước tiến hành thu hồi đất nông nghiệp, đất ở... phục vụ nhu cầu xây dựng 
các khu công nghiệp, chế xuất và đô thị. Theo đó, ở tất cả các tỉnh trong khu 
vực ĐBSCL đều có hàng loạt các dự án công nghiệp, đô thị xây dựng trên cơ sở 
thu hồi đất nông nghiệp. Chẳng hạn, trên địa bàn TP Cần Thơ hiện nay có hơn 
5.752ha đất thuộc 66 đồ án qui hoạch xây dựng đang triển khai thực hiện, làm 
cơ sở để lập các dự án đầu tư. Về dự án đầu tư đã có 85 dự án được chấp thuận 
chủ trương đầu tư với tổng diện tích hơn 2.600ha. Trong đó có 28 dự án có 
quyết định giao đất với diện tích 652ha, 33 dự án đang triển khai nhưng chưa 
có quyết định thu hồi và giao đất với diện tích 1355ha,  Tại An Giang, năm 
2006, trên địa bàn tỉnh bao gồm TP Long Xuyên và các huyện thị đã có 3.450ha 
đất đô thị hoá, đến nay mức đô thị hoá đã lên 4.950ha. ở Vĩnh Long, Đồng 
tháp, Tiền Giang đều có hàng ngàn ha đất nông nghiệp bị thu hồi phục vụ 
quá trình công nghiệp hóa, đo thị hóa. 
Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất phù hợp chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế trong quá trình CNH, HÐH đất nước. Tuy nhiên, từ đây cũng nảy sinh nhiều 
vấn đề kinh tế, xã hội bức xúc ở địa phương, nhất là việc làm của lao động 
nông thôn sau khi bị thu hồi đất. 
Theo đánh giá chung, có 25-30% số lao động sau thu hồi đất không có 
việc làm hoặc việc làm không ổn định. Có tỉnh hàng chục nghìn lao động mất 
việc làm. Chính điều này đã ảnh hưởng đến thu nhập và chất lượng cuộc sống 
cùng chung sông Mê Kông là điều kiện giao lưu hợp tác với các nước trên bán đảo. Nằm ở vùng tận 
cùng Tây Nam của Tổ quốc có bờ biển dài 73,2 km và nhiều đảo, quần đảo như Thổ Chu, Phú Quốc 
là vùng đặc quyền kinh tế giáp biển Đông và vịnh Thái Lan. Vùng nằm trong khu vực có đường giao 
thông hàng hải và hàng không quốc tế giữa Nam á và Đông Nam á cũng như với châu úc và các quần 
đảo khác trong Thái Bình Dương. Vị trí này rất quan trọng trong giao lưu quốc tế. Theo kết quả điều 
tra dân số ngày 01/04/2011, dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 17.325.167 người, chiếm 
19,8% dân số cả nước. Tỷ lệ tăng dân số bình quân 1999-2009 là 0,6%. Đây là vùng đất hội cư của 
nhiều tộc người, trong đó chủ yếu là người Việt (90%), người Khơme (6%), người Hoa (2%), còn lại 
là người Chăm. Họ cùng chung sống và phát triển các loại hình hoạt động kinh tế. 
 184 
của người dân. Cùng với thất nghiệp hoặc việc làm không ổn định là nguy cơ 
đói nghèo, thất học, tệ nạn xã hội gia tăng. 
Một vấn đề nữa là khi đẩy mạnh CNH nông nghiệp nông thôn thì nhờ 
khoa học công nghệ, sản lượng lương thực ở đồng bằng sông Cửu Long 
(ĐBSCL) tăng lên nhanh chóng, không chỉ rút ngắn thời gian thu hoạch mà còn 
tiết kiệm sức lao động cho nông dân. Trồng trọt vẫn là ngành sản xuất chính 
trong nông nghiệp ĐBSCL. Năm 2013, cánh đồng mẫu lớn phát triển được 
76.000 Ha. Giá thành sản xuất lúa đông xuân 3.616 đ/kg, hè thu 4.142 đ/hg. 
Sản lượng lúa của đồng bằng đạt 24,35 triệu tấn (tăng gấp 4 lần trong suốt 30 
năm đổi mới). Xuất khẩu gạo Việt Nam chiếm 20% thị phần thế giới hàng năm. 
Đến nay Đồng bằng sông Cửu Long đã cơ giới hóa khâu làm đất đạt 80%, tuốt 
lúa 95%, xay xát 95%, cả khu vực có 12.234 máy gặt lúa (8.698 máy gặt đập 
liên hợp) giúp cho diện tích thu hoạch lúa bằng máy đạt 56% diện tích. Có trên 
10.000 máy sấy lúa, chủ động sấy 42% diện tích lúa hè thu1. Tuy nhiên, khi cái 
gì cũng cơ giới hóa hết, thành ra những người không có tư liệu sản xuất, không 
trình độ bị thất nghiệp. Trên những cánh đồng khắp các tỉnh ĐBSCL chỉ còn 
những nông dân trên tuổi tứ tuần, hầu hết thanh niên đến tuổi lao động đều rời 
quê tìm đến các thành phố lớn để làm thuê. Nhiều xã trong khu vực có đến hơn 
30% dân lao động nghèo đi Bình Dương, TP. Hồ Chí Minh làm thuê. Điều 
đáng buồn là nghèo quá nên cũng có chừng 30% con em bỏ học theo cha mẹ đi 
làm ăn xa hoặc lao động trước tuổi2. Một nghịch lý là trong khi tốc độ phát 
triển lúa gạo không ngừng gia tăng, 10 triệu đ/ha (đông xuân), 2,4 triệu đ/ha 
(hè thu), 6,3 triệu đ/ha (thu đông) thì thu nhập bình quân / nông hộ /năm thấp. 
Tình trạng này vẫn đang có xu hướng tăng lên3. 
Nguyên nhân phổ biến dẫn tới người nông dân phải chuyển nghề và tìm 
kiếm việc làm mới là do không đáp ứng được yêu cầu về tay nghề, nhiều địa 
bàn có tới hàng nghìn lao động mất việc làm nhưng chỉ có số ít người đã qua 
đào tạo nghề. Lao động nông nghiệp qua đào tạo còn rất thấp (3,6%). Hơn nữa, 
số người lao động quá tuổi tuyển dụng (trên 35 tuổi), độ tuổi khó thích nghi với 
môi trường lao động mới chiếm tỷ lệ cao. Mặt khác, ở các vùng chuyển đổi đất, 
nhận thức của người lao động còn ỷ lại vào chính sách hỗ trợ tiền đền bù của 
1
bang-song-Cuu-Long-%E2%80%93-30-nam-nhin-lai 
2  
3  
185 
 KỶ YẾU HỘI THẢO 
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH 
Nhà nước mà chưa tự mình tìm kiếm việc làm, trong khi đó, việc tổ chức, chỉ 
đạo, tuyên truyền hướng dẫn cho người lao động ở các địa phương còn hạn chế. 
Bên cạnh những mặt tích cực từ quá trình đô thị hóa, cũng nảy sinh nhiều vấn 
đề phức tạp. Một bộ phận nông dân do không đủ đất sản xuất, thất nghiệp, 
khiến đời sống ngày càng khó khăn... Bên cạnh một số hộ gia đình giàu lên nhờ 
đền bù đất thì cũng không ít gia đình lâm vào cảnh "trắng tay". Hầu hết các gia 
đình sử dụng tiền đền bù vào việc mua sắm các phương tiện cho sinh hoạt như 
mua ti-vi, xe máy và xây nhà... thậm chí có gia đình còn cho con cái ăn chơi 
tiêu xài dẫn đến tệ nạn xã hội trong khu vực nông thôn ngày càng gia tăng. Qua 
điều tra cho thấy, thu nhập bình quân đầu người của các hộ nông dân bị thu hồi 
đất vừa qua chỉ có khoảng10% hộ thu nhập tăng, còn hơn 80% giảm so với 
trước. 
Những năm qua, Chính phủ đã có chính sách ưu tiên giải quyết việc làm 
cho người dân có đất bị thu hồi, nhưng thực tế chưa đáp ứng nhu cầu. Phần lớn 
nông dân trong vùng quy hoạch đều bị động khi phải chuyển đổi mục đích đất 
sản xuất. Trong khi đó, khả năng thu hút lao động vào các khu công nghiệp còn 
thấp, chưa đến 35% tổng số lao động đang làm việc ở nông thôn. Ðó là chưa kể 
một lượng lớn lao động không đáp ứng yêu cầu về tay nghề. Nhiều địa phương 
có tới hàng nghìn lao động bị mất việc làm nhưng số người đã qua đào tạo còn 
rất ít. 
Rõ ràng, việc công nghiệp hóa ruộng đồng đã thúc đẩy nền kinh tế nông 
nghiệp nhảy vọt nhanh chóng là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên, chính 
những nấc thang mới này đã “cướp” mất việc của một bộ phận không nhỏ lao 
động chân tay. Đã đến lúc “thay áo” mới cho nông nghiệp để phù hợp với cơ 
chế thị trường nhằm giải quyết hợp lý số lượng lao động dư thừa và nâng tầm 
sản xuất cho nông dân có điều kiện phát triển. Tạo việc làm ổn định, nâng cao 
thu nhập là yêu cầu cần thiết để đảm bảo chất lượng cuộc sống cho người dân 
sau khi bị thu hồi đất. 
2.2. Một số giải pháp 
Từ thực trạng nêu trên, để đảm bảo chất lượng cuộc sống, giải quyết tốt 
vấn đề việc làm, thu nhập và cho người dân sau khi bị thu hồi đất ở ĐBSCL, 
bên cạnh việc nhận thức đúng và đầy đủ về tình trạng nông dân không đất từ 
các cấp trung ương, bộ ngành đến các địa phương, nhà đầu tư và người dân cần 
thiết phải có những chỉ đạo kịp thời, cụ thể và khẩn trương để cụ thể hóa quan 
 186 
điểm, Nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước thành các chương trình, kế 
hoạch triển khai thực hiện. Đặc biệt, cần có các Chương trình đột phá từ tư duy 
đến chính sách; từ bố trí cán bộ đến điều hành, tổ chức thực hiện phải đạt được 
yêu cầu đột phá, thể hiện có sự phối hợp, gắn kết giữa các lĩnh vực, các ngành 
một cách đúng hướng, hiệu quả từ trước, trong và sau hiện thực thu hồi đất. 
Về quy hoạch, kế hoạch 
Tại vùng đồng bằng Sông Cửu Long có đến 111 khu, cụm công nghiệp. 
Trong số này chỉ có 5 khu họat động có hiệu quả. Tình trạng giải toả đất làm 
khu công nghiệp rồi bỏ trống và hậu quả mà người dân gánh chịu diễn ra phổ 
biến. Do vậy, cần tích cực rà soát xử lý các dự án treo. Tích cực tuyên truyền 
cho người dân, hạn chế người dân bán ruộng, bán đất cho các chủ đầu tư theo 
hình thức “tự thoả thuận” để rồi dần dần theo cuộc sống “đô thị hoá nửa mùa”, 
bằng nghề chạy xe ôm, làm ăn công, làm hồ ở các dự án. 
Gắn quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển các khu 
công nghiệp, khu đô thị, quy hoạch sử dụng đất với kế hoạch giải quyết việc 
làm và đào tạo nghề. Việc triển khai thu hồi đất gắn với tuyên truyền về các 
khâu học nghề, chuyển nghề và tự tạo việc làm của người dân, trước hết là cho 
lớp thanh niên tại chỗ, có kế hoạch đào tạo họ cho phù hợp với nghề và cơ cấu 
lao động của doanh nghiệp đồng thời phối hợp tốt giữa các cấp ban, ngành, 
đoàn thể và tổ chức xã hội để nắm bắt nhu cầu tuyển dụng và thông tin về thị 
trường lao động, có kế hoạch ưu tiên sử dụng lao động địa phương. 
Về nâng cao chất lượng lao động nông thôn và tạo việc làm cho lao động 
nông thôn 
Giáo dục và đào tạo giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững 
của đất nước, đối với lao động nông thôn, việc phát triển đào tạo nghề sẽ góp 
phần quan trọng trong việc tạo việc làm và tìm kiếm việc làm mới khi bị thu 
hồi đất. Việc nâng cao chất lượng lao động nông thôn và tạo việc làm cho lao 
động nông thôn cần được chủ trọng. và được xác định: “là sự nghiệp của Đảng, 
Nhà nước, của các cấp, các ngành và toàn xã hội”1. Do vậy, tăng cường công 
tác giáo dục, khuyến khích các phong trào học tập để thanh niên đến tuổi lao 
động có dủ trình độ văn hóa tự tìm kiếm việc làm ngoài nông nghiệp, mở rộng 
1 Thủ tướng chính phủ (27/11/2009), Quyết dịnh phê duyệt đề án đào tạo nghề cho lao động 
nông thôn đến năm 2020, số 1956/QĐ-Ttg. 
187 
 KỶ YẾU HỘI THẢO 
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 
TỪ THỰC TIỄN ĐẾN CHÍNH SÁCH 
nâng cao chất lượng dạy nghề, gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm, xã hội 
hóa các hoạt động dạy nghề 
Về tạo cơ chế chính sách kinh tế - xã hội đối với lao động lớn tuổi, lao 
động nữ. 
Lao động lớn tuổi (trên 35) và lao động nữ chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số 
lao động bị thu hồi đất ở nước ta hiện nay, trong khi đó khả năng tự chuyển đổi 
nghề nghiệp của nhóm này lại thấp. Họ chỉ có thể tham gia vào phân mảng thị 
trường lao động phổ thông hoặc tư tạo việc làm trong lĩnh vực dịch vụ, thương 
mại và đời sống. Do vậy, cần có cơ chế chính sách kinh tế - xã hội đối với 
nhóm này. Một mặt, phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống, nghề phi 
nông nghiêp. Ở nông thôn, đầu tư cơ sở hạ tầng ở nông thôn và cho vay vốn ưu 
đãi để tự họ tổ chức các hoạt động dịch vụ nhỏ lẻ phù hợp. 
Ưu tiên những sáng kiến mới phát triển nông thôn 
Đây là giải pháp mang tính lâu dài và thường xuyên. Để giải quyết vấn 
đề việc làm và nâng cao thu nhập cho người nông dân sau khi bị thu hồi đất cần 
có sự hợp tác mạnh mẽ hơn và ưu tiên những sáng kiến mới ở các cấp độ (đặc 
biệt chú ý các sáng kiến cụ thể, phù hợp ở ngay tại địa phương) về phát triển 
nông thôn và giảm nghèo. Các sáng kiến ấy hướng đến và có thể được tiến hành 
như “một cuộc cách mạng trong nông nghiệp” nhằm thu hẹp khoảng cách về 
năng suất khi mà người nông dân đã bị giảm diện tích sản xuất thì cần tăng vụ; 
phổ biến các công nghệ sau thu hoạch nhằm giảm thiểu thất thoát sản lượng; 
tăng cường quảng bá và đưa vào sử dụng các giống năng suất cao; có khả năng 
chống sâu bệnh tốt; có thể tận dụng các nguồn gien chưa được khai thác; 
3. Kết luận 
Công nghiệp hóa hiện đại hóa là con đường tất yếu để phát triển kinh tế 
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc chuyển một phần nguồn 
lực đất đai từ mục đích sản xuất nông nghiệp sang phục vụ các ngành công 
nghiệp và dịch vụ là cần thiết. Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến việc hàng 
triệu lao động nông thôn ở ĐBSCL không còn đất sản xuất, mất hoặc thiếu việc 
làm, đời sống khó khăn. Đảm bảo việc làm cho người dân bị thu hồi đất ở 
ĐBSCL là yêu cần bức thiết, làm tốt vấn đề này sẽ góp phần thực hiện “Gắn kết 
chặt chẽ chính sach kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng 
 188 
cao chất lượng cuộc sống cho người dân, đảm bảo để nhân dân được hưởng thụ 
tốt hơn thfnh quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển kinh tế”1. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đảng cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm BCH 
TW khoa IX 
2. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc 
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nôi. 
3. Đảng cộng sản Việt Nam (2008), Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy BCH 
TW khóa X 
4. Đảng cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban 
chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 
5. 
hay-that-nghiep-hoa 
6. 
nong-thon-Dong-bang-song-Cuu-Long-%E2%80%93-30-nam-nhin-lai 
7.  
8. Lưu Song Hà (2009), Điều tra điểm tâm lý nông dân bị thu hồi đất làm 
khu công nghiệp, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 
9. Thủ tướng chính phủ (27/11/2009), Quyết dịnh phê duyệt đề án đào tạo 
nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020, số 1956/QĐ-Ttg. 
10. Trung tâm khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia, Vấn đề nghèo đói 
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Số 3-2002. 
11. www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi 
1 Đảng cộng sảnViệt Nam (2016), Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, Hà 
Nôi, tr.136 

File đính kèm:

  • pdfbao_dam_chat_luong_cuoc_song_cho_nguoi_dan_bi_thu_hoi_dat_tr.pdf