Analyzing the Displacement of Horizon Geodetic Network at Tuyen Quang Hydropower
The world mathematicians given many method to adjust the free network, in which the
confirmation that the first norm of the solution vectors must minimizing to be the standard for
finding the solution in a multitude of solutions. This also conform with the weight transformation
process in the deformation model to find the solution for the most probable model, developed by
Adam Chrzanowski. The geodetic base point at hydropower plants are used as benchmarks to assess
the displacement of test points are attached on the dam. This article presents the iterative weight
transformation technique of the problem handle the free geodetic network at Tuyen Quang
hydropower. The results showed that the largest displacement value was 2.2 mm / year and
equivalent to the actual measurement error. This calculation method provides more useful
information about the displacement model of geodetic base points, helping to plan a large-scale
project safety assurance.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Analyzing the Displacement of Horizon Geodetic Network at Tuyen Quang Hydropower
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 93-107 93 Original Article Analyzing the Displacement of Horizon Geodetic Network at Tuyen Quang Hydropower Dinh Xuan Vinh Hanoi University of Natural Resources and Environment, 41A Phu Dien, Cau Dien, Tu Liem, Hanoi, Vietnam Received 27 May 2019 Revised 16 July 2019; Accepted 02 August 2019 Abstract: The world mathematicians given many method to adjust the free network, in which the confirmation that the first norm of the solution vectors must minimizing to be the standard for finding the solution in a multitude of solutions. This also conform with the weight transformation process in the deformation model to find the solution for the most probable model, developed by Adam Chrzanowski. The geodetic base point at hydropower plants are used as benchmarks to assess the displacement of test points are attached on the dam. This article presents the iterative weight transformation technique of the problem handle the free geodetic network at Tuyen Quang hydropower. The results showed that the largest displacement value was 2.2 mm / year and equivalent to the actual measurement error. This calculation method provides more useful information about the displacement model of geodetic base points, helping to plan a large-scale project safety assurance. Keywords: Displacement, Minimizing the first norm of vectors, Geodetic base points. ________ Corresponding author. E-mail address: dxvinh@hunre.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4398 VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 93-107 94 Phân tích biến dạng lưới mặt bằng tại thủy điện Tuyên Quang Đinh Xuân Vinh Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, 41A Phú Diễn, Cầu Diễn, Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 27 tháng 5 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 16 tháng 7 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 02 tháng 8 năm 2019 Tóm tắt: Bình sai lưới tự do được các nhà toán học thế giới đưa ra nhiều phương pháp giải, trong đó xác nhận Chuẩn bậc nhất của vector nghiệm phải nhỏ nhất làm tiêu chuẩn để tìm lời giải cho bài toán vô số nghiệm. Điều này cũng trùng hợp với quá trình biến đổi trọng số trong mô hình biến dạng để tìm lời giải cho mô hình xác suất nhất, do Adam Chrzanowski phát triển. Các điểm cơ sở trắc địa tại công trình thủy điện được sử dụng như những điểm chuẩn để đánh giá sự chuyển dịch của các điểm kiểm tra gắn trên thân đập ngăn nước. Bài báo này trình bày kỹ thuật tính chuyển dịch của các điểm cơ sở trắc địa tại thủy điện Tuyên Quang. Kết quả cho thấy giá trị chuyển dịch lớn nhất tương đương sai số đo đạc thực tế. Phương pháp tính này cung cấp thêm góc nhìn mới về mô hình dịch chuyển của các điểm cơ sở trắc địa, giúp hoạch định phương án đảm bảo an toàn công trình sau này. Từ khoá: Chuyển dịch, Cực tiểu hoá chuẩn bậc nhất vector, Điểm cơ sở trắc địa. 1. Mở đầu Phân tích biến dạng là một phần của công tác trắc địa, nhưng quá trình này liên quan tới một mô hình toán - lý phức tạp. Nếu chỉ xét riêng biến dạng hình học, việc xác định các vector biến dạng được thực hiện dựa trên các bước Nhận dạng mô hình - Ước lượng mô hình – Đánh giá mô hình [1]. Quan trắc biến dạng có tầm quan trọng lớn trong nhiều hoạt động liên quan đến kỹ thuật khảo sát. Các công trình xây dựng cần được theo dõi trong suốt thời gian xây dựng và sử dụng của chúng; các hoạt động của con người cũng là nguyên nhân gây ra chuyển dịch trên bề mặt trái đất, ví dụ như lún do khai thác mỏ, khai thác dầu ________ Corresponding author. E-mail address: dxvinh@hunre.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4398 hoặc nước ngầm, xây dựng các hồ chứa lớn. Với tiến bộ kỹ thuật hiện nay, cùng với biến động về môi trường và hiện tượng biến đổi khí hậu, mối quan tâm trong nghiên cứu về chuyển dịch vỏ trái đất ngày càng tăng. Từ đó, yêu cầu nâng cao độ chính xác và độ tin cậy trong đánh giá ổn định điểm khống chế trắc địa là đòi hỏi bức thiết. Về cơ bản, có cả lý do thực tế và lý do khoa học cho việc nghiên cứu biến dạng. Lý do thực tế là kiểm tra sự ổn định của các cấu trúc địa chất, kết cấu công trình và thiết bị cơ khí, đánh giá mức độ nguy hiểm của tình trạng bất ổn định, phát hiện các yếu tố ban đầu của một rủi ro. Lý do khoa học đó là sự cần thiết để hiểu rõ hơn cơ D.X. Vinh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 93-107 95 chế của biến dạng, kiểm tra các lý thuyết mới bao gồm cả các thiết kế trong xây dựng công trình [2]. Từ đó thiết lập các phương pháp dự báo an toàn. Việc phân tích biến dạng thường phải đối phó với lượng biến dạng rất nhỏ, thậm chí tương đương với sai số của phương pháp đo. Do đó, phân tích phải cực kỳ cẩn thận để đưa ra quyết định đúng đắn về mô hình biến dạng của cấu trúc [1]. Vào năm 1978, Hội nghị các nhà Khảo sát quốc tế (FIG) đã thành lập Ủy ban 6 chuyên trách Phân tích biến dạng do giáo sư Chrzanowski là chủ tịch. Nhiệm vụ chính của Ủy ban 6 là: 1/ Tối ưu hóa thiết kế mạng lưới quan trắc; 2/ Đánh giá dữ liệu quan trắc, xác nhận trị đo thô và sai số hệ thống; 3/ Phân tích biến dạng hình học; 4/ Giải thích ý nghĩa vật lý của biến dạng [3]. Trong khoảng thời gian từ đó đến nay, các nhóm của Ủy ban 6 tại các trung tâm nghiên cứu như: Delft, Fredericton, Hannover, Karlsruhe, Munich đã công bố nhiều thành quả về phương pháp quan trắc, phân tích và xử lý số liệu biến dạng [3]. Đặc biệt, các phương pháp phân tích biến dạng được Ủy ban 6 công bố mang tính tổng hợp, kế thừa và phát huy. Một số phương pháp đã dùng trước đây [1] như: Phương pháp Kostekhel, sử dụng sai số giới hạn của kết quả thống kê tọa độ điểm quan trắc làm thước đo sự ổn định của mốc trắc địa. Mốc được chọn làm điểm khởi tính phải nhận được kết quả [pvv] = min; Phương pháp Trernhikov, sử dụng nguyên lý “Tọa độ trung bình củ ... 47 1.534 -0.469 -2.911 -1.711 1.453 -1.302 5.212 2.782 -3.754 0.231 -1.796 -0.987 0.414 -2.447 2.782 3.362 -1.399 0.072 0.873 2.053 -3.490 1.534 -3.754 -1.399 6.370 -2.187 0.868 -1.860 1.088 -0.469 0.231 0.072 -2.187 2.256 Chu kỳ 1. Bảng 3. Nghịch đảo chuẩn nhỏ nhất của 𝑁𝑚 − 0.445 0.081 0.074 -0.056 0.099 0.000 0.000 0.000 0.130 0.606 0.106 -0.051 0.146 0.000 0.000 0.000 -0.001 0.032 0.370 -0.018 -0.100 0.000 0.000 0.000 -0.004 -0.051 0.012 0.530 0.089 0.000 0.000 0.000 0.028 0.071 -0.067 0.137 0.424 0.000 0.000 0.000 -0.169 -0.074 -0.194 -0.446 -0.042 0.000 0.000 0.000 -0.472 -0.183 -0.377 -0.064 -0.423 0.000 0.000 0.000 0.042 -0.482 0.076 -0.033 -0.192 0.000 0.000 0.000 Chu kỳ 1. Bảng 4. Nghiệm xác suất nhất Điểm cơ sở QT6 QT3 QT1 QT5 X’ (m) 0.0005 -0.0005 0.0023 -0.0023 Y’ (m) 0.0008 0.0005 -0.0002 -0.0011 Chu kỳ 1. Bảng 5. Tọa độ cuối cùng tính được Điểm cơ sở QT6 QT3 QT1 QT5 X (m) 0.001 956.715 1024.951 -184.900 Y (m) 0.001 0.000 606.806 426.219 D.X. Vinh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 93-107 103 Tương tự như cách tính của chu kỳ 1 khi giả định điểm gốc và phương vị gốc của lưới, các chu kỳ thứ 2 và 3 thì tọa độ gần đúng (số liệu đầu vào) được xác định căn cứ vào kết quả bình sai chu kỳ trước (bảng 5 đối với chu kỳ 2 và bảng 6 đối với chu kỳ 3). Nghĩa là, trọng tâm lưới luôn luôn không thay đổi. Ta thấy, hầu hết các điểm trong lưới không ổn định theo kết quả quan trắc các chu kỳ. Tọa độ cuối cùng như sau: Chu kỳ 2. Bảng 6. Tọa độ cuối cùng tính được Điểm cơ sở QT6 QT3 QT1 QT5 X (m) 0.001 956.713 1024.958 -184.901 Y (m) 0.001 0.001 606.807 426.219 Chu kỳ 3. Bảng 7. Tọa độ cuối cùng tính được Điểm cơ sở QT6 QT3 QT1 QT5 X (m) 0.001 956.711 1024.956 -184.899 Y (m) 0.001 0.001 606.804 426.217 Bảng 8. Tổng hợp kết quả 3 chu kỳ và tính độ lệch (m) Chu kỳ (2-1) QT6 QT3 QT1 QT5 Chu kỳ (3-1) QT6 QT3 QT1 QT5 x2-x1= 𝑑𝑥 1 0.0000 0.0027 -0.0062 0.0011 x3-x1= 𝑑𝑥 2 0.0000 0.0047 -0.0045 -0.0001 y2-y1= 𝑑𝑦 1 0.0000 0.0002 -0.0006 -0.0002 y3-y1= 𝑑𝑦 2 0.0000 0.0002 0.0025 0.0025 Thuật toán của Mittermayer chính là đưa điểm gốc trong lưới trắc địa cơ sở về trọng tâm của mạng lưới đó, thỏa mãn (4). Ta thấy rằng, hầu hết các điểm trong lưới không ổn định, lớn nhất là 𝑑𝑥 1(𝑚𝑎𝑥) = 6,2 𝑚𝑚; 𝑑𝑥 2(𝑚𝑎𝑥) = 4,7 𝑚𝑚. Bước 2. Sử dụng thuật toán Biến đổi trọng số, xác định điểm chuyển dịch bằng cực tiểu hóa chuẩn bậc nhất vector chuyển dịch. Áp dụng công thức từ (14) đến (30). Kết quả tính ma trận W lần đầu chưa đạt điều kiện cực tiểu hóa. Bảng 9. Kết quả tính lặp ma trận W vòng thứ 2 với điều kiện cận dưới ±0,1 𝑚𝑚 (tương đương sai số của máy đo) 10000.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 10000.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 10000.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 10000.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.4238 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.2834 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.4225 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 1.2867 Ta có �̃�𝜏 của lần tính lặp thứ hai. Bảng 10. Giá trị �̃�𝜏 (m) 𝑑𝑥𝑄𝑇6 𝑑𝑦𝑄𝑇6 𝑑𝑥𝑄𝑇3 𝑑𝑦𝑄𝑇3 𝑑𝑥𝑄𝑇1 𝑑𝑦𝑄𝑇1 𝑑𝑥𝑄𝑇5 𝑑𝑦𝑄𝑇5 0.0000 0.0000 0.0000 0.0000 -0.0014 -0.0001 0.0014 0.0006 D.X. Vinh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 93-107 104 Bảng 11. Kết quả tính 𝑃𝑑 0.1424 0.0427 -0.0434 -0.0370 -0.0237 -0.0100 -0.0753 0.0043 0.0427 0.1899 0.0303 -0.0454 -0.0089 -0.0133 -0.0641 -0.1313 -0.0434 0.0303 0.1419 -0.0290 -0.0710 -0.0225 -0.0275 0.0212 -0.0370 -0.0454 -0.0290 0.1598 0.0633 -0.1112 0.0028 -0.0033 -0.0237 -0.0089 -0.0710 0.0633 0.1497 -0.0026 -0.0549 -0.0517 -0.0100 -0.0133 -0.0225 -0.1112 -0.0026 0.1180 0.0352 0.0065 -0.0753 -0.0641 -0.0275 0.0028 -0.0549 0.0352 0.1577 0.0262 0.0043 -0.1313 0.0212 -0.0033 -0.0517 0.0065 0.0262 0.1281 Sau đó xác định điểm có chuyển dịch nhiều nhất trong ma trận định vị lưới �̂� = (𝐵𝑇𝑃𝑑𝐵) −1𝐵𝑇𝑃𝑑𝑑, bắt đầu với 𝐵 𝑇. Quá trình tính toán kiểm định Fisher theo công thức (27) và (30) đều đạt yêu cầu. Bảng 12. Tìm 𝐵𝑇 đối với điểm QT5 và QT1 QT5 1 0 1 0 1 0 0 0 QT1 1 0 1 0 0 0 1 0 0 1 0 1 0 1 0 0 0 1 0 1 0 0 0 1 Tìm được dịch chuyển của điểm QT5 thông qua �̂� QT5 �̂�𝑥 -0.0018 (m) �̂�𝑦 -0.0011 (m) Tương tự, ta tìm được dịch chuyển của điểm QT1 thông qua �̂� QT1 �̂�𝑥 0.0021 (m) �̂�𝑦 -0.0003 (m) Vì khoảng dịch chuyển là cạnh huyền của tam giác vuông với các cạnh �̂�𝑥 và �̂�𝑦. Bảng 13. Thành quả thực hiện Biến đổi tuần tự trọng số sau chu kỳ 2 Trước khi thực hiện Biến đổi tuần tự trọng số Sau khi thực hiện Biến đổi tuần tự trọng số 𝑑𝑄𝑇6 (m) 𝑑𝑄𝑇3 (m) 𝑑𝑄𝑇1 (m) 𝑑𝑄𝑇5 (m) 𝑑𝑄𝑇6 (m) 𝑑𝑄𝑇3 (m) 𝑑𝑄𝑇1 (m) 𝑑𝑄𝑇5 (m) 0.0000 0.0027 0.0062 0.0011 0.0000 0.0000 0.0022 0.0021 Bảng 14. Thành quả thực hiện Biến đổi trọng số sau chu kỳ 3 Trước khi thực hiện Biến đổi tuần tự trọng số Sau khi thực hiện Biến đổi tuần tự trọng số 𝑑𝑄𝑇6 (m) 𝑑𝑄𝑇3 (m) 𝑑𝑄𝑇1 (m) 𝑑𝑄𝑇5 (m) 𝑑𝑄𝑇6 (m) 𝑑𝑄𝑇3 (m) 𝑑𝑄𝑇1 (m) 𝑑𝑄𝑇5 (m) 0.0000 0.0047 -0.0045 -0.0001 0.0000 0.0000 0.0025 0.0027 Đây thật sự là khác biệt. Dịch chuyển từ 2,2 mm đến 2,7 mm là xấp xỉ sai số đo lưới mặt bằng, khi giả thiết rằng: ±1 𝑚𝑚 là sai số do máy đo và từ ±1 𝑚𝑚 đến ±1,5 𝑚𝑚 là sai số do người đo trên mạng lưới cơ sở trắc địa thủy điện Tuyên Quang. Có thể thấy rằng, lưới trắc địa cơ sở đập thủy điện Tuyên Quang được xây dựng trên nền đá gốc khá ổn định. Mọi dịch chuyển dường như chỉ là sai số của kỹ thuật đo mà thôi. 3. Thảo luận 1.1. Sự khác biệt cơ bản của phương pháp Mittermayer so với phương pháp đang sử dụng bởi các kỹ sư trắc địa là sử dụng phương pháp “Giả nghịch đảo” để giải phương trình chuẩn khuyết hạng. Nó cho thấy sự giản đơn, tránh nhầm lẫn trong quá trình tính toán hoặc lập phần mềm. Như đã phân tích, tính toán bình sai lưới D.X. Vinh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 93-107 105 tự do bằng thêm “điều kiện ràng buộc nội” thường phải định nghĩa lại điều kiện ràng buộc, khiến cho việc xác định trung tâm lưới thêm khó khăn. Chiến lược ở đây là cực tiểu hóa chuẩn bậc nhất của vector tham số bình sai, điều này tương đồng với điều kiện ‖𝑥‖ = √𝑥𝑇�̂� = 𝑚𝑖𝑛. Chiến lược ấy cung cấp điều kiện “vững” cho bài toán bình sai [12]. Đây là ưu điểm của phương pháp bình sai Mittermayer. Nếu chỉ sử dụng bình sai lưới tự do và đặt một giá trị 𝑞 ≈ ±1 𝑚𝑚 để xác định chuyển dịch (cách làm truyền thống), điểm QT1 đạt giá trị max 6,2 mm, QT3 đạt giá trị 2,7 mm (bảng 8) và đương nhiên bị coi là dịch chuyển, đồng thời bị loại ra khỏi lưới. Nếu sử dụng phương pháp “Biến đổi tuần tự trọng số”, điểm QT1 giá trị dịch chuyển là 2,2 mm và QT5 là 2,1 mm. Giá trị chuyển dịch đều thấp hơn so với cách làm truyền thống, đồng thời vị trí điểm chuyển dịch thay đổi từ QT3 sang QT5. Nhưng điều quan trọng là trọng tâm lưới không thay đổi. Vì cách làm truyền thống đã loại bỏ điểm chuyển dịch làm cho lưới chỉ còn hai điểm và trọng tâm lưới đã thay đổi. Đây là ưu điểm của phương pháp “Biến đổi tuần tự trọng số”. 1.2. Nếu quan trắc nhiều chu kỳ, lưới có 4 điểm cơ sở trắc địa, chu kỳ đầu có thể điểm QT6 ổn định, nhưng chu kỳ sau không chắc điểm QT6 sẽ ổn định. Như vậy sẽ phải thay đổi điểm định vị lưới sau mỗi chu kỳ, làm cho kết cấu lưới không đồng nhất, khó có thể làm căn cứ để đánh giá các điểm mục tiêu quan trắc biến dạng công trình. Hơn nữa, từ những vị trí quan trắc khác nhau, ta sẽ nhận thấy đối tượng dịch chuyển theo phương khác nhau và giá trị chuyển dịch cũng khác nhau. Chúng ta có một chiến lược để xác định trung tâm ổn định của lưới, dù cho lưới có bị chuyển dịch và hầu hết các điểm đều không ổn định (theo quy luật ngẫu nhiên, các điểm không cùng chuyển dịch về một hướng). Đó chính là “cực tiểu hóa chuẩn bậc nhất của vector trị đo” trong quá trình bình sai lưới. Đây cũng đồng thời là điều kiện “vững” theo lý thuyết thống kê “Robust Statistic” mà Peter Huber đề xuất [12]. 1.3. Xác định điểm chuyển dịch và tính lượng chuyển dịch. Quá trình tính lặp ma trận W nhằm tìm ra “chuẩn bậc nhất của vector chuyển dịch được cực tiểu hóa”. Quá trình này cũng chỉ qua 3 lần tính lặp là có kết quả. Cận dưới được xác định để dừng quy trình lặp là sai số do máy đo (± 1 𝑚𝑚). Điều này là phù hợp với dữ liệu đo của chúng ta. Quá trình so sánh tính thống nhất giữa các chu kỳ quan trắc và quá trình ước lượng điểm ổn định được thực hiện thông qua kiểm định thống kê Fisher theo quy trình nghiêm ngặt. Do khuôn khổ bài báo nên chúng tôi phải giản lược bớt. Giá trị chuyển dịch được xác định trong quy trình biến đổi trọng số. Sau đó, điểm không ổn định được đánh dấu và tiến hành xây dựng mô hình biến dạng. Đối với công trình thủy điện Tuyên Quang, mô hình biến dạng rất đơn giản, do không có điểm nào được xác định là chuyển dịch. Quy trình phân tích điểm ổn định có thể kết thúc sau khi mô hình biến dạng được thông qua bằng việc xác định các tín hiệu chuyển dịch thông qua kiểm định thống kê toán học. 4. Kết luận Bài báo đã thực hiện bình sai lưới cơ sở mặt bằng thủy điện Tuyên Quang thông qua thuật toán Mittermayer, sau đó phân tích sự ổn định của điểm lưới bằng phương pháp “Biến đổi tuần tự trọng số”. Kết quả cho thấy: - Giá trị chuyển dịch nhỏ hơn so với chỉ thực hiện bình sai lưới tự do (2,2 mm so với 6,2 mm). - Vị trí điểm chuyển dịch thay đổi so với chỉ thực hiện bình sai lưới tự do (QT5 thay cho QT3). - Trọng tâm lưới không thay đổi sau mỗi chu kỳ đo do thực hiện “biến đổi trọng số” nên việc đánh giá chuyển dịch được thuận tiện. Việc đánh giá vị trí điểm ổn định được so sánh thống nhất giữa các chu kỳ và không dựa trên tiêu chuẩn 𝑞 ≈ ±1 𝑚𝑚. Tiêu chuẩn sai số đo (± 1 𝑚𝑚) dùng trong quá trình tính lặp ma trận trọng số W phản ánh đúng bản chất bài toán tìm trọng tâm lưới tự do thông qua các trị đo trắc địa. Sau đây là quy trình phân tích biến dạng của đập thủy điện Tuyên Quang. D.X. Vinh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 93-107 106 Yes No Biến đổi trọng số Xác nhận lượng chuyển dịch có nằm trong vùng tin cậy không? Đánh dấu điểm không ổn định Xây dựng mô hình biến dạng Tính toán ma trận trọng số của điểm dịch chuyển Yes Yes No Ước lượng mô hình biến dạng Tín hiệu dịch chuyển No Trọng số điểm không ổn định bằng 0 Thông qua mô hình Kết thúc Yes Xác định phương trình ma trận trọng số W = I Biến đổi vector dịch chuyển Lặp lại trọng số Hội tụ Biến đổi trọng số lần cuối No Tính toán chuyển dịch và ma trận hiệp phương sai Lượng chuyển dịch và ma trận hiệp phương sai điểm tham khảo Phân tích lưới mặt bằng Yes No Hiệu chỉnh trị đo 2 chu kỳ (Bắt đầu) D.X. Vinh / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 3 (2019) 93-107 107 Lời cảm ơn Tác giả cảm ơn sự hỗ trợ số liệu quan trắc thủy điện Tuyên Quang của Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện I. Tác giả cũng cảm ơn những ý kiến đóng góp của người phản biện đã giúp hoàn thiện nội dung bài báo này. Tài liệu tham khảo [1] Đinh Xuân Vinh, Phan Văn Hiến, Nguyễn Bá Dũng, Lý thuyết và phương pháp phân tích biến dạng. Giáo trình đào tạo thạc sĩ, NXB Tài nguyên – Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội, 2016. [2] Huang Sheng Xiang, Yin Hui, Jiang Zheng. Phan Văn Hiến biên dịch, Xử lý số liệu quan trắc biến dạng, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2012. [3] Adam Chrzanowski, Chen Yongqi, James Michael Secord. Geometrical Analysis of Deformation Surveys. Papers of the Deformation Measurements Workshop, Boston, 31 October- 1 November 1986, p. 369-383. ca/ccge/publications/downloads/CCGE%20- %201986%20-%20Geometrical%20analysis% 20of%20deformation%20surveys.pdf [4] Phan Văn Hiến, Đinh Xuân Vinh, Phạm Quốc Khánh, Tạ Thanh Loan, Lưu Anh Tuấn, Lý thuyết sai số và bình sai trắc địa, NXB Xây dựng, Hà Nội, 2017. [5] Tao Benzao, Phan Văn Hiến biên dịch, Bình sai lưới tự do và phân tích biến dạng, NXB Tài nguyên-Môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội, 2017. [6] E. Mittermayer, A generalisation of the least- squares method for the adjustment of free networks. Springer, Bulletin Géodésique (1946- 1975). June 1972, Volume 104, Issue 1, pp 139– 157. https://doi.org/10.1007/BF02530298 [7] E.J. Schlossmacher, An iterative technique for absolute deviations curve fitting. Journal of the American Statistical Association. 1973, Vol 68, Issue 344, 857-859. https://doi.org/10.1080/ 01621459.1973.10481436 [8] Calyampudi Radhakrishna Rao, Sujit Kumar Mitra. Generalized Inverse of Matrices and its Application. Wiley and Sons, New York, 1971. https://archive.org/details/in.ernet.dli.2015.13466 9 [9] Adam Chrzanowski, Chen Yongqi, Analysis of Deformation Surveys – A Generalized method, Technical Report No 94. Department of Geodesy and Geomatics Engineering. University of New Brunswick, P.O. Box 4400, Fredericton, N.B. Canada. E3B 5A3. 1983. [10] M. Walter Welsch, Otto Heunecke, Models and terminology for the analysis of geodetic monitoring observations. Official Report of the Ad-Hoc Committee of FIG Working Group 6.1, Published by The International Federation of Surveyors (FIG). 2001. Frederiksberg, Denmark. 5/figpub25.asp [11] Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng Điện I, Số liệu quan trắc điểm cơ sở trắc địa thủy điện Tuyên Quang. [12] Peter J.Huber, Elvezio M.Ronchetti. Robust statistics, second edition. Published by John Wiley & Sons, Inc., Hoboken, New Jersey, Canada, 2009.
File đính kèm:
- analyzing_the_displacement_of_horizon_geodetic_network_at_tu.pdf