Vài trò, đặc điểm và ý nghĩa của kĩ năng quan sát đối với trẻ 5 - 6 tuổi

Bài viết trình bày khái quát cơ sở lí luận về kĩ năng quan sát của trẻ 5-6 tuổi: Khái niệm kĩ năng

quan sát; biểu hiện kĩ năng quan sát; đặc điểm kĩ năng quan sát của trẻ 5-6 tuổi; cơ sở tâm lí của kĩ

năng quan sát ở trẻ 5-6 tuổi; vai trò của quan sát đối với sự phát triển nhận thức của trẻ 5-6 tuổi. Đây sẽ

là cơ sở để nghiên cứu đánh giá thực trạng và đề xuất những biện pháp nhằm phát triển kĩ năng quan

sát cho trẻ 5-6 tuổi một cách hiệu quả.

Vài trò, đặc điểm và ý nghĩa của kĩ năng quan sát đối với trẻ 5 - 6 tuổi trang 1

Trang 1

Vài trò, đặc điểm và ý nghĩa của kĩ năng quan sát đối với trẻ 5 - 6 tuổi trang 2

Trang 2

Vài trò, đặc điểm và ý nghĩa của kĩ năng quan sát đối với trẻ 5 - 6 tuổi trang 3

Trang 3

Vài trò, đặc điểm và ý nghĩa của kĩ năng quan sát đối với trẻ 5 - 6 tuổi trang 4

Trang 4

Vài trò, đặc điểm và ý nghĩa của kĩ năng quan sát đối với trẻ 5 - 6 tuổi trang 5

Trang 5

Vài trò, đặc điểm và ý nghĩa của kĩ năng quan sát đối với trẻ 5 - 6 tuổi trang 6

Trang 6

pdf 6 trang minhkhanh 10900
Bạn đang xem tài liệu "Vài trò, đặc điểm và ý nghĩa của kĩ năng quan sát đối với trẻ 5 - 6 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vài trò, đặc điểm và ý nghĩa của kĩ năng quan sát đối với trẻ 5 - 6 tuổi

Vài trò, đặc điểm và ý nghĩa của kĩ năng quan sát đối với trẻ 5 - 6 tuổi
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education - ISSN: 1859 - 4603 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC 
 Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục Tập 9, số 1 (2019), 117-122 | 117 
aTrường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng 
* Tác giả liên hệ 
Nguyễn Thị Triều Tiên 
Email: ntttien@ued.udn.vn 
Nhận bài: 
 20 – 12 – 2018 
Chấp nhận đăng: 
 20 – 03 – 2019 
VÀI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA KĨ NĂNG QUAN SÁT ĐỐI VỚI TRẺ 5-6 
TUỔI 
Nguyễn Thị Triều Tiêna*, Nguyễn Thị Diệu Hàa 
Tóm tắt: Bài viết trình bày khái quát cơ sở lí luận về kĩ năng quan sát của trẻ 5-6 tuổi: Khái niệm kĩ năng 
quan sát; biểu hiện kĩ năng quan sát; đặc điểm kĩ năng quan sát của trẻ 5-6 tuổi; cơ sở tâm lí của kĩ 
năng quan sát ở trẻ 5-6 tuổi; vai trò của quan sát đối với sự phát triển nhận thức của trẻ 5-6 tuổi. Đây sẽ 
là cơ sở để nghiên cứu đánh giá thực trạng và đề xuất những biện pháp nhằm phát triển kĩ năng quan 
sát cho trẻ 5-6 tuổi một cách hiệu quả. 
Từ khóa: quan sát; kĩ năng; kĩ năng quan sát; trẻ 5-6 tuổi; kĩ năng quan sát của trẻ 5-6 tuổi. 
1. Đặt vấn đề 
Phần lớn thông tin con người có được là nhờ quan 
sát (QS). QS là một trong những nhiệm vụ quan trọng 
nhất của giáo dục nhận thức, là một trong những thuộc 
tính tâm lí quan trọng của nhân cách. QS là chỗ dựa mở 
đầu cho các dự đoán, cho quá trình suy luận cũng như 
phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa [3]... 
Việc phát hiện, bồi dưỡng kĩ năng quan sát (KNQS) có 
ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của 
con người nói chung và trẻ 5 - 6 tuổi nói riêng. 
2. Nội dung 
2.1. Khái niệm kĩ năng quan sát 
2.1.1. Quan sát 
Có nhiều tác giả trong và ngoài nước đã đề cập đến 
khái niệm QS như: 
- V.V Bogoxlopxki và B.G. Ananhev cho rằng [11]: 
“QS là một hoạt động tâm lí phức tạp, trong đó tri giác, 
tư duy và ngôn ngữ liên kết lại trong một hành động trí 
tuệ thống nhất và toàn vẹn”. Bên cạnh đó, tác giả B.M. 
Cheplov, X.L. Rubistein, N.D. Levitop, P.PH. 
Kapcheriov thì cho rằng [11]: QS là tri giác có suy nghĩ. 
Tức QS không chỉ dừng lại ở nhận thức cảm tính mà 
thành phần chính của QS là các quá trình nhận thức lí 
tính. Theo mức độ định hướng của hoạt động, tri giác 
được phân chia thành tri giác có chủ định và tri giác 
không có chủ định, trong quá trình nhận thức thế giới 
xung quanh, sự tri giác có chủ định chính là QS. QS 
luôn có mục đích, nhiệm vụ cụ thể, có kế hoạch dưới 
một hình thức nào đó. Quá trình QS luôn tách các thuộc 
tính và phẩm chất chủ yếu nhất, bản chất nhất của đối 
tượng. Trong QS bao giờ cũng có yếu tố nghiên cứu và 
tìm hiểu sự vật. Mỗi lần QS người ta lại muốn tìm ra 
một sự thay đổi, mới lạ và khác biệt giữa các đối tượng, 
điều này làm cho QS trở thành quá trình khám phá, 
đóng vai trò chủ đạo trong quá trình nhận thức của con 
người về các đối tượng, sự vật xung quanh. 
- Nhiều tác giả trong nước cũng đã đề cập đến khái 
niệm QS như: Chuyên gia tâm lí Ngô Công Hoàn cho 
rằng “QS là mức độ phát triển cao nhất của tri giác” [2]. Còn 
với tác giả Nguyễn Ánh Tuyết: “QS là tri giác có chủ 
định” [5]. Tác giả Lê Quang Uẩn cho rằng: “QS là một 
hình thức tri giác cao nhất, tích cực nhất, chủ động và 
có mục đích” [9]. Tác giả Trần Thị Ngọc Trâm: “QS là 
hướng sự chú ý có tính mục đích rõ rệt vào đối tượng 
được QS. QS là một kĩ năng cho phép trẻ học được 
nhiều hơn những gì chúng đang nhìn thấy” [8]. 
Dựa trên những khái niệm trên, chúng tôi xin rút 
ra khái niệm về QS như sau: QS là hình thức cao nhất 
của tri giác được liên kết chặt chẽ với tư duy và ngôn 
ngữ, mang tính tích cực, chủ động, có mục đích và có 
Nguyễn Thị Triều Tiên, Nguyễn Thị Diệu Hà 
118 
kế hoạch rõ rệt giúp nhận thức phản ánh đầy đủ, rõ 
nét, hiệu quả các sự vật, hiện tượng và những biến đổi 
của chúng. 
2.1.2. Kĩ năng 
Có nhiều cách định nghĩa khác nhau về kĩ năng 
(KN), tùy vào cách tiếp cận, cụ thể: 
- “Từ điển Tiếng Việt” của tác giả Hoàng Phê định 
nghĩa: “Kĩ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học 
vào thực tiễn” [4]. 
- Theo Từ điển Giáo dục học [1], kĩ năng được 
phân chia thành 2 bậc: Kĩ năng bậc thấp (bậc I) và kĩ 
năng bậc cao (bậc II). Kĩ năng bậc thấp là khả năng thực 
hiện đúng hành động, phù hợp với những mục tiêu và 
điều kiện cụ thể. Ở bậc này có những kĩ năng hình thành 
không cần qua luyện tập, nếu biết tận dụng hiểu biết và 
kĩ năng tương tự đã có để chuyển sang các hành động 
mới. Kĩ năng bậc cao là khả năng thực hiện hành động, 
hoạt động một cách thành thạo linh hoạt, sáng tạo phù 
hợp với những mục tiêu trong những điều kiện khác 
nhau. Để đạt tới kĩ năng này cần trải qua giai đoạn luyện 
tập các kĩ năng đơn giản, sao cho mỗi khi hành động, 
người ta không còn bận tâm nhiều đến thao tác nữa vì 
nhiều thao tác đã tự động hóa. 
- Theo quan điểm tâm lí học: kĩ năng được hiểu là 
khả năng thực hiện có kết quả một hành động, một 
nhiệm vụ theo yêu cầu hoặc tiêu chuẩn đã định. Hiện 
nay, có hai quan điểm về khả năng này [10] [11]: 
+ Quan điểm thứ nhất: coi KN là mặt kĩ thuật của 
thao tác, hành động hay một hoạt động nào đó. Đại diện 
cho quan điểm này có các tác giả: V.A.Kruchetxki, 
V.X.Cudin, A.G.Covaliov, A. Leonchep, B.M. 
Chieplop, A.A. Xmirnov, Trần Trọng Thủy, Phạm Thị 
Diệu Vân, Hà Thế Ngữ V.A.Kruchetxki cho rằng: 
“Kĩ năng là thực hiện một hành động hay một hoạt động 
nào đó nhờ sử dụng những kĩ thuật, những phương thức 
đúng đắn”. Theo các tác giả trên, người có KN hoạt 
động nào đó là người nắm được các tri thức về hoạt 
động đó và thực hiện hành động theo đúng yêu cầu của 
nó mà không cần tính đến kết quả của hành động. 
+ Quan điểm thứ hai: Kĩ năng không đơn thuần là 
mặt kĩ thuật của hành động mà nó còn là biểu hiện mặt 
năng lực của con người. Theo quan niệm này, KN vừa 
có tính ổn định, vừa có tính mềm dẻo, tính linh hoạt, 
tính sáng tạo và tính mục đích. Đại diện cho quan điểm 
này có các tác giả: K.K.Platôlôp, G.G.Colubev, Paul 
Hersey, Ken Blanc Hard, P.A. Ruđich, N ... a ra dưới hình thức câu hỏi hoặc giao nhiệm 
vụ. Trẻ chỉ có thể tự đề ra những nhiệm vụ nhỏ trong 
những tình huống QS cụ thể chứ chưa tự xác định mục 
đích và nhiệm vụ QS. 
Hoạt động QS đòi hỏi ở trẻ sự tập trung chú ý, nỗ 
lực thực hiện nhiệm vụ đến cùng và đặc biệt là sự tham 
gia tích cực của các quá trình nhận thức tri giác, tư duy 
ngôn ngữ và trí nhớ. QS của trẻ mang tính khoa học bởi 
nó vừa là cái nhìn bao quát vừa là sự nắm bắt được cái 
đặc trưng của đối tượng trong mối quan hệ giữa các chi 
tiết bộ phận của chúng. Khi QS trẻ phải biết lựa chọn 
lựa sắp xếp các dấu hiệu đặc trưng, có ý nghĩa đối ở đối 
tượng QS theo các nhiệm vụ và yêu cầu mà GV đặt ra. 
Thái độ, động cơ QS của trẻ được xuất phát từ nhu cầu, 
hứng thú nhận thức được xuất hiện ở tuổi 5 - 6 tuổi. Vui 
chơi được coi là hoạt động chủ đạo của trẻ MG còn hoạt 
động học tập và lao động chỉ mới ở dạng sơ khai [6]. 
Trong hoạt động QS, tính chủ định của trẻ cũng 
tăng lên, trẻ đã làm chủ tri giác song nó vẫn chưa phải là 
một hoạt động hoàn toàn độc lập của trẻ. Trẻ lứa tuổi 
này đã có thể chủ động lựa chọn và sử dụng cách thức 
QS với những đối tượng QS quen thuộc. Tuy nhiên với 
những đối tượng QS mới, cần đến cách thức QS mới đòi 
hỏi có sự gợi ý, hướng dẫn của GV. Các nhiệm vụ nhận 
thức trong QS thường được trình bày dưới dạng các 
hành động chơi hoặc đặt trong các tình huống chơi, các 
nhiệm vụ GV đặt ra với các tình huống có vấn đề giúp 
trẻ lĩnh hội một cách dễ dàng hơn. QS của trẻ về các sự 
vật, hiện tượng xung quanh càng tích cực và hiệu quả 
bao nhiêu thì nội dung QS của trẻ càng phong phú và 
hấp dẫn bấy nhiêu. 
* Đặc điểm KNQS của trẻ 5 - 6 tuổi được biểu 
hiện cụ thể như sau [7]: 
- Kĩ năng phân biệt được các dấu hiệu thuộc tính 
bên ngoài đối tượng của trẻ ngày càng trở nên chính xác 
và đầy đủ hơn. 
- KNQS thể hiện không chỉ ở số lượng các đặc 
điểm, chi tiết, dấu hiệu thuộc tính, màu sắc biểu hiện 
bên ngoài của đối tượng và còn ở việc phát hiện ra bản 
chất, thuộc tính ẩn chứa bên trong của đối tượng thông 
qua QS, thí nghiệm với chúng trong các hoạt động học 
có chủ định, hoạt động vui chơi, hoạt động ngoài trời... 
- Thể hiện ở việc trẻ chủ động tri giác đối tượng 
phù hợp với nhiệm vụ nhận thức đặt ra. 
- Biết sử dụng hợp lí các giác quan và phối hợp các 
giác quan để tri giác đối tượng, giải quyết được nhiệm 
vụ nhận thức đặt ra. 
- Biết sử dụng ngôn ngữ mạch lạc để diễn đạt 
những đặc điểm đặc trưng, chính xác của đối tượng QS. 
Như vậy, để cho hoạt động QS của trẻ đạt hiệu quả và 
trở thành một hoạt động nhận thức độc lập thì rất cần sự tổ 
chức, hướng dẫn của GV. Khi tổ chức cho trẻ QS, GV 
đồng thời giải quyết các nhiệm vụ: cung cấp tri thức, phát 
triển tính ham hiểu biết, giáo dục thẩm mĩ đặc biệt là 
phát triển KNQS cho trẻ. 
Ở lứa tuổi 5 - 6 tuổi, hoạt động QS của trẻ đã phức 
tạp hơn. Khi QS tính chủ định của trẻ cũng tăng lên 
song nó vẫn chưa phải là hoạt động hoàn toàn độc lập 
của trẻ. Các nhiệm vụ nhận thức chủ yếu vẫn do giáo 
viên xác định và đưa ra dưới hình thức câu hỏi hoặc 
giao nhiệm vụ. Trẻ chỉ có thể tự đề ra những nhiệm vụ 
nhỏ trong những tình huống QS cụ thể chứ chưa tự xác 
định mục đích và nhiệm vụ QS; biết sử dụng hợp lí các 
Nguyễn Thị Triều Tiên, Nguyễn Thị Diệu Hà 
120 
giác quan và phối hợp các giác quan để tri giác đối 
tượng, giải quyết được nhiệm vụ nhận thức đặt ra; biết 
sử dụng ngôn ngữ mạch lạc để diễn đạt những đặc điểm 
đặc trưng, chính xác của đối tượng QS. Như vậy, để cho 
hoạt động QS của trẻ đạt hiệu quả và trở thành một hoạt 
động nhận thức độc lập thì rất cần sự tổ chức, hướng dẫn 
của giáo viên. 
2.4. Cơ sở tâm lí của kĩ năng quan sát ở trẻ 5-6 tuổi 
KNQS của trẻ diễn ra theo ba giai đoạn. Mỗi giai 
đoạn đều có sự tham gia tích cực của các quá trình 
tâm lí: cảm giác, tri giác, dựa trên các cách thức khảo 
sát trực tiếp đối tượng để có được biểu tượng bên 
ngoài của đối tượng đó [7], [11]. 
2.4.1. Giai đoạn mở đầu của quá trình quan sát 
Giai đoạn mở đầu của quá trình QS bắt đầu từ cảm 
giác. Cảm giác là hình thức phản ánh tâm lí khởi đầu, 
thấp nhất, là hình thức định hướng đầu tiên của cơ thể 
trong thế giới. Mỗi sự vật hiện tượng xung quanh đều 
được bộc lộ bởi hàng loạt các thuộc tính bề ngoài như 
màu sắc, hình dáng, kích thước, mùi vị hoặc âm thanh 
Những thuộc tính này tác động đến từng giác quan của 
chúng ta và cho ta những cảm giác cụ thể. Từ những 
cảm giác cụ thể, riêng lẻ trên cơ sở kinh nghiệm mà con 
người có những hình ảnh về đối tượng, tức là con người 
có tri giác về đối tượng. 
Trong quá trình QS, cảm giác là hình thức định 
hướng đầu tiên của con người trong hiện thực khách 
quan tạo nên mối liên hệ trực tiếp giữa cơ thể và môi 
trường xung quanh, là nguồn cung cấp những nguyên 
liệu cho chính các hình thức nhận thức cao hơn. “Cảm 
giác là viên gạch xây nên toàn bộ lâu đài nhận thức”. 
V. I. Leenin viết: “Tất cả hiểu biết đều bắt nguồn từ 
kinh nghiệm, từ cảm giác, tri giác” [11]. Cảm giác làm 
cho trẻ tích cực tìm tòi, thu thập thông tin về đối tượng, 
biết cách sắp xếp những thông tin có được để tạo ra kết 
quả QS. 
2.4.2. Giai đoạn diễn biến của quá trình quan sát 
Đây là giai đoạn trẻ huy động những hiểu biết ban 
đầu về đối tượng có được từ cảm giác để hình thành tri 
giác. Với tư cách là một mức độ nhận thức cảm tính cao 
hơn cảm giác, tri giác có vai trò quan trọng đối với con 
người, nó là thành phần chính của nhận thức cảm tính. 
Nếu ở giai đoạn đầu, cảm giác giúp trẻ có được những 
thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng thì ở giai đoạn 
này, trẻ sử dụng tri giác để nhận biết đối tượng một cách 
trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của các sự vật hiện 
tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của con 
người theo một cấu trúc nhất định. Giai đoạn này là giai 
đoạn diễn biến của quá trình tri giác. Đặc biệt hình thức 
tri giác cao nhất, tích cực nhất, chủ động và có mục đích 
là QS. Khi QS trẻ hoạt động các kiểu tri giác khác nhau. 
Để xác định tính chất, đặc điểm, thuộc tính đặc trưng và 
các mặt biểu hiện của sự vật, hiện tượng ban đầu, trẻ 
phải sử dụng kết hợp các cách thức khảo sát đa dạng: 
Sờ, cầm, nắm, nhìn, nghe, ngửi, khám phá qua thí 
nghiệm... Nhờ có tri giác mà các đặc điểm bên ngoài 
như: màu sắc, hình dạng, kích thước, cấu tạo ngoài, độ 
dày, mỏng, độ cứng, mềm, mùi vị... của các sự vật, hiện 
tượng được trẻ nhận biết một cách rõ nét và chính xác. 
2.4.3. Giai đoạn kết thúc 
Kết quả của quá trình QS là trẻ có những hiểu biết 
rõ ràng và chính xác về đặc điểm bên ngoài của đối 
tượng được khám phá. Đây là giai đoạn trẻ tổng hợp tất 
cả những thuộc tính riêng lẻ có được từ cảm giác và tri 
giác để tạo thành một cấu trúc trọn vẹn về sự vật hiện 
tượng. Quá trình tích lũy kiến thức đó giúp trẻ có được 
biểu tượng đầy đủ và chính xác về đối tượng không chỉ 
biểu hiện ở bên ngoài mà còn là phát hiện ra những 
thuộc tính, bản chất bên trong của đối tượng QS. Nhờ 
vậy mà KNQS của trẻ ngày càng được phát triển. 
2.5. Vai trò của quan sát đối với sự phát triển 
nhận thức của trẻ 5-6 tuổi 
 Trong cuộc sống thường nhật của chúng ta, mọi 
người thường đặt câu hỏi [7] “Người đó có thông minh 
hay không?” để khái quát về trí lực của con người đó. 
“Thông minh” có nghĩa là tai thông mắt sáng, từ đó thấy 
được, thông minh trước tiên nên lấy cảm nhận làm lực 
QS cơ bản. Lực QS là nền tảng quan trọng của kết cấu 
trí lực, là khởi điểm phát triển tư duy, cũng là “đôi mắt” 
của bộ não thông minh, đồng thời là điều kiện tất yếu 
của sáng tạo. Cho nên người ta thường nói: “Tư duy là 
trọng tâm, QS là khởi điểm”. 
Chúng ta đều biết, thông tin mà một người bình 
thường tiếp xúc được từ thế giới bên ngoài, hầu hết 
thông tin con người có được thông qua con đường thị 
giác và thích giác truyền đến bộ não. Nếu chúng ta thiếu 
KNQS, sự phát triển trí năng giống như cây xanh sinh 
trưởng mà không có đất vậy. Bất cứ sự vật hiện tượng 
nào mà con người nhận biết được, đầu tiên đều bắt đầu 
bởi QS, kế đến mới là chú ý, trí nhớ và tư duy, vì QS 
 ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục Tập 9, số 1 (2019), 117-122 
 121 
cũng là điểm xuất phát của nhận thức, đồng thời nó 
mượn sự giúp đỡ của tư duy để phát triển. Nếu con 
người nói chung và trẻ em nói riêng có KNQS thấp thì 
đối tượng ghi nhớ của người đó thường mơ hồ, không rõ 
ràng. Trí nhớ kém thì không thể có được phản ứng 
nhanh chóng và chuẩn xác. Hiệu quả QS không tốt sẽ 
ảnh hướng đến sự phát triển tư duy và trí lực, từ đó hình 
thành vòng tuần hoàn không tốt. 
Nhìn từ góc độ sinh lí và tâm lí, một người nếu 
sống trong môi trường đơn điệu, thiếu sự kích thích, cơ 
hội QS ít, sẽ khiến cho tế bào não bị ức chế, lớp vỏ não 
phát triển khá chậm. QS là hình thức cao nhất để phát 
triển cảm nhận giác quan, được phát triển trên nền tảng 
của nhiều loại năng lực tổng hợp như thị giác, thính 
giác, xúc giác, khứu giác, khoảng cách, phân biệt hình 
ảnh, nhận thức thời gian Trẻ dựa vào QS nhạy bén, có 
thể thu thập được kiến thức về thế giới xung quanh. 
Kiến thức và kinh nghiệm của trẻ đến từ QS, QS tốt là 
điều kiện đầu tiên trong việc có được kiến thức phong 
phú; ngược lại, kiến thức phong phú có thể thúc đẩy 
KNQS phát triển. Ví dụ: Trẻ được QS quả Xoài, thì lần 
sau khi gặp các loại quả khác, trẻ sẽ chủ động QS đặc 
điểm về màu sắc, hình dạng, cấu tạo, vị, ích lợi của 
các loại quả khác. Lâu ngày, kiến thức về các loại quả 
của trẻ sẽ ngày càng phong phú và đa dạng. Có thể nói, 
kiến thức càng phong phú, ước muốn QS của trẻ sẽ càng 
phong phú, ước muốn QS của trẻ sẽ càng mạnh, trẻ QS 
càng tỉ mỉ và có hiệu quả. Như vậy, QS là nền tảng để 
trẻ nhận biết được thế giới, cũng là điểm then chốt để 
trẻ hướng đến tương lai thành công sau này. 
2.6. Ý nghĩa việc phát triển kĩ năng quan sát đối 
với trẻ 5-6 tuổi 
Phát triển kĩ năng quan sát có ý nghĩa quan trọng 
đối với quá trình nhận thức thế giới xung quanh của trẻ. 
Đứa trẻ được rèn luyện và phát triển khả năng quan sát 
sẽ dễ dàng hình thành được các biểu tượng một cách 
chính xác, tỉ mỉ, đầy đủ và khái quát nhất về các sự vật 
hiện tượng xung quanh cuộc sống. Bên cạnh đó, kĩ năng 
quan sát giúp trẻ trở nên linh hoạt, nhạy bén trong việc 
tìm tòi, khám phá, phát hiện đầy đủ các đặc điểm, mối 
liên hệ, quan hệ, sự thay đổi và phát triển, nguyên nhân 
và hậu quả, thuộc tính của các đối tượng quan sát. Điều 
này giúp trẻ nhận thức thế giới xung quanh một cách 
toàn diện và sâu sắc. Tư duy của trẻ cũng nhờ đó mà trở 
nên nhanh nhạy hơn dẫn đến các hoạt động của trẻ cũng 
trở nên chủ động và hiệu quả hơn. 
Quan sát là hình thức cao nhất của tri giác, các kết 
quả do quá trình quan sát mang lại sẽ cung cấp vốn biểu 
tượng, tài liệu cho quá trình nhận thức cảm tính làm cơ 
sở cho quá trình nhận thức lí tính. Từ đây sẽ giúp trẻ 
chuyển từ tư duy trực quan hành động sang tư duy trừu 
tượng. Đối với trẻ 5-6 tuổi, KNQS có ý nghĩa quan 
trọng trong việc chuẩn bị vào trường phổ thông bởi QS 
là một trong những năng lực có bản cần cho hoạt động 
học tập của trẻ trong những năm đầu tiểu học. 
3. Kết luận 
QS là hình thức cao nhất của tri giác, việc phát triển 
KNQS cho trẻ mẫu giáo đặc biệt là trẻ 5 - 6 tuổi trong 
các hoạt động là một trong những nhiệm vụ quan trọng 
trong công tác giáo dục trẻ ở trường mầm non. Hoạt 
động QS của trẻ 5-6 tuổi đã phức tạp hơn so với trẻ lứa 
tuổi nhỏ hơn về nhiệm vụ nhận thức, đối tượng, tính 
chất, thời gian QS cũng kéo dài hơn, đa dạng và phong 
phú hơn đối với sự thay đổi và phát triển của sự vật hiện 
tượng. KNQS có ý nghĩa quyết định và giúp trẻ tiếp 
nhận những kiến thức của thế giới muôn màu sắc xung 
quanh trẻ chuẩn bị cho trẻ có những tiền đề cơ bản để 
bước vào trường phổ thông. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Thị Ngọc Bích (1988). Tâm lí học nhân 
cách. Một số vấn đề lí luận. NXB Giáo dục, Hà Nội. 
[2] Ngô Công Hoàn (1996). Tâm lí học và giáo dục 
học. NXB ĐHSP Hà Nội. 
[3] Ngô Công Hoàn (chủ biên) (2012). Tâm lí học 
khác biệt. NXB ĐHQG Hà Nội. 
[4] Hoàng Phê (1995). Từ điển Tiếng Việt. NXB Đà 
Nẵng, Đà Nẵng. 
[5] Nguyễn Ánh Tuyết (2002). Tâm lí học trẻ em. 
NXB Giáo Dục Hà Nội. 
[6] Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên) (2014). Tâm lí học 
trẻ em lứa tuổi mầm non. NXB ĐHSP Hà Nội. 
[7] Nguyễn Thị Triều Tiên (2014). Thiết kế và sử 
dụng trò chơi toán học nhằm phát triển khả năng 
quan sát cho trẻ 5-6 tuổi. Luận văn Thạc sĩ KHGD, 
Trường ĐHSP Hà Nội. 
[8] Trần Thị Ngọc Trâm, Lê Thu Hương, Lê Ánh 
Tuyết (2011). Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương 
trình giáo dục mầm non (mẫu giáo lớn 5-6 tuổi). 
NXB Giáo Dục. 
[9] Nguyễn Quang Uẩn, Trần Hữu Luyến, Trần Quốc 
Nguyễn Thị Triều Tiên, Nguyễn Thị Diệu Hà 
122 
Thành (1998). Tâm lí học đại cương. NXB ĐHQG 
Hà Nội. 
[10] Trịnh Thị Xim (2012). Rèn luyện kĩ năng quan sát 
trẻ của sinh viên cao đẳng sư phạm ngành giáo dục 
mầm non. Luận án Tiến sĩ Giáo dục học, Hà Nội 
[11] Nguyễn Thị Xuân (2007). Biện pháp hướng dẫn 
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi làm quen với thiên nhiên nhằm 
phát triển năng lực quan sát. Luận án Tiến sĩ Lí luận 
và lịch sử giáo dục, Hà Nội. 
THE ROLE, CHARACTERISTIC AND SIGNIFICANCE OF OBSERVATIONAL SKILL 
OF CHILDREN AGED 5 YEARS TO 6 YEARS OLD 
Abstract: The paper presents an overview of the rationale for observational skills of children aged 5-6 years: Concept of 
observational skills; Expression of observational skills; Characteristics of observational skills of children 5-6 years old; Psychological 
basis of observational skills in children 5-6 years old; The role of observation for the cognitive development of children from 5-6. This 
will be the basis for studying and evaluating the situation and proposing effective measures to develop observational skills of children 
at the age of 5-6. 
Key words: observation; skill; observational skills; 5,6-year-old children; Observational skills of children at the age of 5-6. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_dac_diem_va_y_nghia_cua_ki_nang_quan_sat_doi_voi_tre.pdf