Vai trò của người hoa trong việc hình thành và phát triển các đô thị ở trung và Nam Bộ Việt Nam (thế kỉ XVII-XIX)
Người Trung Hoa đến Việt Nam khá sớm, ít nhất cũng vào khoảng đầu Công
nguyên. Trải qua nhiều thế kỉ, người Hoa đã xuất hiện trên khắp ba miền của nước ta, tuy
nhiên, những người Hoa di cư đến miền Bắc chủ yếu là quan lại và binh lính của các đội
quân xâm lược nhiều hơn là thương nhân đến buôn bán (ngoại trừ một bộ phận người Hoa ở
Phố Hiến, Thăng Long), do vậy ở miền Bắc nước ta, những cộng đồng người Hoa thường
nhỏ lẻ, không có quy mô lớn và tiêu biểu như ở miền Trung và miền Nam.
Cũng như người Hoa ở các nước Đông Nam Á khác, người Hoa đến Việt Nam trải
qua một quá trình sinh sống và buôn bán lâu dài, họ đã lập nên những làng, những phố của
mình, hình thành nên những cộng đồng người Hoa ổn định và phát triển, trở thành một bộ
phận cư dân của cộng đồng dân tộc Việt.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của người hoa trong việc hình thành và phát triển các đô thị ở trung và Nam Bộ Việt Nam (thế kỉ XVII-XIX)
1 VNH.TB1.312 VAI TRÒ CỦA NGƯỜI HOA TRONG VIỆC HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC ĐÔ THỊ Ở TRUNG VÀ NAM BỘ VIỆT NAM (THẾ KỈ XVII - XIX) ThS. Tống Thị Quỳnh Hương Đại học Sư phạm Hà Nội Đặt vấn đề Người Trung Hoa đến Việt Nam khá sớm, ít nhất cũng vào khoảng đầu Công nguyên. Trải qua nhiều thế kỉ, người Hoa đã xuất hiện trên khắp ba miền của nước ta, tuy nhiên, những người Hoa di cư đến miền Bắc chủ yếu là quan lại và binh lính của các đội quân xâm lược nhiều hơn là thương nhân đến buôn bán (ngoại trừ một bộ phận người Hoa ở Phố Hiến, Thăng Long), do vậy ở miền Bắc nước ta, những cộng đồng người Hoa thường nhỏ lẻ, không có quy mô lớn và tiêu biểu như ở miền Trung và miền Nam. Cũng như người Hoa ở các nước Đông Nam Á khác, người Hoa đến Việt Nam trải qua một quá trình sinh sống và buôn bán lâu dài, họ đã lập nên những làng, những phố của mình, hình thành nên những cộng đồng người Hoa ổn định và phát triển, trở thành một bộ phận cư dân của cộng đồng dân tộc Việt. Trong khoảng từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX, cùng với sự hình thành các cộng đồng người Hoa, ở miền Trung và Nam Việt Nam cũng đã xuất hiện nhiều đô thị, trung tâm thương mại rất sầm uất với vai trò nổi bật của các Hoa thương. Những đô thị này đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong nhiều thế kỉ. Một số đô thị như: Thanh Hà, Bao Vinh, Cù Lao Phố, Hội An, Chợ Lớn đã trở thành những trung tâm buôn bán, trung chuyển hàng hóa quan trọng trong khu vực và quốc tế. 1. Bối cảnh định cư của người Hoa ở Việt Nam thế kỉ XVII - XIX Thế kỉ XV, sau thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của nhà Minh, nhà Lê sơ được thành lập, quốc gia Đại Việt trở thành một vương quốc cường thịnh ở Đông Nam Á. Nền kinh tế hàng hóa phát triển tạo điều kiện để có thể phát triển một nền thương mại toàn diện. Thuyền bè các nước láng giềng vẫn thường xuyên qua lại trao đổi ở các cảng Vân Đồn, Vạn Ninh (thuộc Quảng Ninh), Càn Hải, Hội Thống (thuộc Nghệ An) Tuy nhiên, để giữ vững an ninh, nhà nước đặt các trạm kiểm soát ở cảng khẩu để kiểm 2 soát chặt chẽ những thương nhân nước ngoài ra vào buôn bán ở nước ta1, bởi vậy những mối quan hệ thương mại với Trung Hoa và các nước trong khu vực có phần bị hạn chế. Năm 1527, triều Mạc (1527 - 1592) thay thế triều Lê, tuy không giữ được sự ổn định và thống nhất đất nước, nhưng chính sách kinh tế nhất là chính sách đối với thương nghiệp của nhà Mạc tỏ ra cởi mở hơn triều Lê. Nhưng cũng từ giữa thế kỉ XVI, nhà Minh chuyển từ việc kiểm soát chặt chẽ ngoại thương bằng chính sách “Hải cấm” sang nới lỏng ngoại thương thì Việt Nam lúc này lại lâm vào tình trạng chia cắt kéo dài cho đến tận cuối thế kỉ XVIII. Khởi đầu là sự tái lập triều Lê (1532) dẫn đến cuộc chiến tranh Lê- Mạc (1539- 1592), tiếp theo là thời kì phân chia Đàng Trong - Đàng Ngoài, biểu hiện là cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn kéo dài (1627 - 1672). Trong những thời kì nội chiến đất nước chia cắt gây nhiều tổn hại cho nhân dân, nhưng cũng chính trong nhu cầu cạnh tranh gây dựng lực lượng, các chính quyền Đàng Trong và Đàng Ngoài đều phải chăm lo phát triển kinh tế, tranh thủ sự hỗ trợ của ngoại thương. Trong thời kì Đàng Trong - Đàng Ngoài thì thái độ mỗi bên đối với hoạt động ngoại thương có khác nhau, đặc biệt là đối với Hoa thương. Đàng Ngoài của họ Trịnh có phần dè dặt và thận trọng đối với hoạt động buôn bán của Hoa thương, chính quyền Trịnh tìm cách tách Hoa thương khỏi người Việt. Nhưng chính quyền Chúa Nguyễn ở Đàng Trong lại có thái độ hoàn toàn khác, họ hiểu rằng cần phải có buôn bán nếu Đàng Trong muốn tồn tại lâu dài. Chính vì thế, người Nhật và người Hoa không những được tạo điều kiện thuận lợi cho sinh sống và buôn bán ở Đàng Trong mà còn được tham gia vào bộ máy chính quyền ở đây. Bắt đầu từ nửa sau thế kỉ XVII trở đi, những kiều dân Trung Hoa được phép định cư ở những trung tâm kinh tế, đô thị, hải cảng của Việt Nam, đặc biệt là những vùng đất thuộc miền Trung và Nam Bộ ngày nay. Do đó, trong thời gian này, các cộng đồng người Hoa đã dần hình thành nên những phố chợ, trung tâm kinh tế tại nhiều nơi như Phố Hiến, Hội An, Chợ Lớn, Gia Định, Hà TiênSự nhập cư ồ ạt của người Hoa và sự hình thành các cộng đồng của họ như một thực thể dân cư tương đối ổn định trong cơ cấu dân cư- dân tộc Việt Nam bắt đầu từ thế kỉ XVII, một phần là kết quả của chính sách đón tiếp “nồng hậu” của chúa Nguyễn và sau đó là triều Nguyễn đối với những di dân người Trung Hoa2. Người Trung Hoa không những được phép cư trú vĩnh viễn tại Việt Nam mà họ còn nhận được rất nhiều ưu đãi từ phía chúa Nguyễn (1592 - 1771) và sau đó là triều đình Nguyễn (1802 - 1945) như được hưởng quyền công dân như người Việt Nam (nếu có nguyện vọng sinh sống lâu dài), không phải làm nghĩa vụ quân dịch và lao động công ích, được trao quyền thu thuế đối với những người giỏi nghề buôn bán và giao dịch, họ còn được hưởng nhiều chính sách ưu đãi khác trong lĩnh vực kinh tếNhà Nguyễn cũng cho phép người Hoa được lập nên những Bang hội truyền thống của họ. Tổ chức đồng hương (Bang) của người Hoa đầu tiên được thành lập ở Việt Nam vào năm 1787. Vào năm 1814, dưới thời vua Gia Long (1802 - 1819), tổ chức Bang được chính thức hóa về mặt pháp lý. Bang được thành lập dựa trên cơ sở đồng hương, đồng 1 Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 1, NxbB Giáo dục, H.1998, tr.330 2 Trần Khánh, Chính sách của nhà nước phong kiến Việt Nam đối với dân Trung Hoa di cư, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, 2000, Tr.69. 3 phương ngữ, nhằm mục đích bảo vệ sự an toàn tính mạng, của cải vật chất của người Trung Hoa di cư trên đất khách quê người. Mặt khác, thông qua các Bang, nhà Nguyễn có thể quản lý việc làm ăn, sinh hoạt và đi lại của người Hoa một cách dễ dàng hơn3. Nhờ những chính sách của triều Nguyễn, rất nhiều người Trung Hoa di cư đã tạo dựng được cơ nghiệp một cách vững chắc ở Việt Nam. Điều này đã thu ... Dinh, Nguyễn Khắc Thuần dịch, Mạc thị gia phả, Sđd, tr.15 24 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, tr.80 10 văn học Việt, Hoa để lập ra nơi để cùng nhau giảng bàn học vấn, xướng họa thơ văn, gọi là Chiêu Anh Các, lễ giáo Trung Quốc dần dần thấm nhuần vào nhân dân đất này25. Viết về vùng đất Hà Tiên, sách Văn Hiến Thông Khảo đời Thanh (1747) có ghi chép như sau: “Cảng Khẩu quốc là một xứ miền Tây Nam Hải, ở giữa An Nam và Xiêm LaVua đương thời tên là Thiên Tứ (Mạc Thiên Tứ - con của Mạc Cửu). Lịch sử truyền ngôi chưa rõ. Xứ ấy có núi cao nhưng lãnh thổ chỉ vài trăm dặm. Thành lũy làm bằng cây. Nhà cửa không khác gì với Trung Quốc. Từ nhà của vương đến dân thường tất cả đều làm bằng gạch ngói. Trong cách ăn mặc họ bắt chước theo triều đại trước (triều Minh). Vương búi tóc bọc lưới, đội khăn hay mũ bằng nhiễu, mình mặc áo thêu rồng, đai bằng sừng, mang hia. Dân chúng mặc áo cổ cao, tay rộngphong tục thì trọng văn, thích thơ ca. Trong xứ có miếu thờ Khổng Tử, từ vương đến nhà dân ai cũng thờ kính. Có một nhà nghĩa học dạy những thanh niên ưu tú mà nhà nghèo không có tiền ăn học. Những người Trung Hoa sang mà có khả năng thì được mời vào dạy học”26. Hà Tiên đã nhiều lần bị chiến tranh tàn phá, thiệt hại nặng nhất là trận đánh phá của quân Xiêm năm 1771. Quang cảnh Hà Tiên mà Trịnh Hoài Đức ghi lại trong “Gia Định thành thông chí” là đất Hà Tiên thời Gia Long đã được khôi phục và tu bổ với đền Quan Thánh bên phải, chùa Tam Bảo ở phía sau, chợ trấn ở phía Đông, miếu Hội Đồng ở phía Bắc. Hà Tiên được coi là nơi hội tụ của các văn nhân Trung Quốc đến từ Phúc Kiến, Quảng Đông, cũng là nơi việc giao dịch buôn bán với Nhật Bản và Trung Quốc sớm phát triển, là trung tâm của mối quan hệ ngoại giao Xiêm - Cao Miên- Đàng Trong. Năm 1676, nước Xiêm bị Miến Điện đánh chiếm, con vua Xiêm là Chiêu Thúy chạy sang nương náu ở Hà Tiên. Các cuộc xung đột giữa Đàng Trong với Cao Miên cũng được Mạc Thiên Tứ dàn xếp với kết quả là Cao Miên cắt đất để tạ lỗi Chúa Nguyễn hoặc tạ ơn vùng đất Hà Tiên đã giúp ông dựng nghiệp lớn. Có thể thấy, Hà Tiên là vùng đất được khai phá và phát triển mạnh mẽ, trong đó người Hoa có vai trò rất quan trọng. Cộng đồng người Hoa ở đây đã được hình thành từ khoảng nửa sau thế kỉ XVII. Hà Tiên đã phát triển mạnh mẽ, trở thành một trung tâm kinh tế và văn hóa nổi bật ở vùng nam Đông Dương. Cộng đồng người Hoa ở Hà Tiên độc lập nhưng không biệt lập, khép kín. Trong quá trình phát triển của mình, họ đã dần dần hội nhập vào Việt Nam về mọi phương diện. 2.5. Khu vực Chợ Lớn Chợ Lớn cũng là khu vực sớm được những người dân Trung Hoa chọn làm nơi lập nghiệp. Thị trấn Chợ Lớn cách Sài Gòn 5 km về phía Tây Nam do người Hoa lập ra năm 1778, Chợ Lớn thường được gọi là chợ người Hoa, người đương thời còn gọi là Chợ Sài 25 Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 - 1777, Sđd, tr.435 26 Huỳnh Ngọc Đáng, Chính sách của chính quyền Đàng Trong đối với người Hoa (từ năm 1600 đến năm 1777), Luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr.42 11 Gòn. Lê Văn Duyệt sau khi được bổ nhiệm làm Tổng trấn Gia Định đặt tên cho chợ người Hoa này là Chợ Lớn. Năm 1782, thị tứ này bị quân Tây Sơn tàn phá nặng nề. Sau khi vua Gia Long lên ngôi (1802 - 1820), Chợ Lớn bắt đầu phát triển một cách nhanh chóng. Ngoài việc buôn bán lúa gạo và các nông sản khác, Hoa thương ở đây đã làm chủ việc phân phối các mặt hàng nhu yếu phẩm tiêu dùng hàng ngày do các nhà buôn từ Trung Quốc, các nước trong khu vực Đông Nam Á và từ châu Âu chuyển tới. Trước thời điểm thực dân Pháp thiết lập chế độ thuộc địa tại Nam Kỳ, ở thị trấn này đã có tới 500 ngôi nhà, có 2 kênh đào, 5 cái cầu (trong đó có 1 cầu làm bằng sắt), có nhiều kho hàng và các xưởng đóng thuyền. Hoạt động buôn bán của họ ở đấy tấp nập suốt ngày đêm27. Nơi đây “phố xá liên tiếp sát mái nhau, người Tàu và người ta ở chung lẫn lộn dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong các phố bày bán có: gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báuNhững hóa vật ở Nam Bắc theo đường sông đường biển chở đến không thiếu món nào. Đầu phía Bắc đường phố lớn có miếu Quan Thánh và 3 hội quán: Phúc Châu, Quảng Đông và Triều Châu chia đứng hai bên tả hữu, phía tây đường lớn có miếu Thiên Hậu, gần phía tây có hội quán Ôn Lăngấy là một thị phố lớn và đô hội náo nhiệt”28. Đặc biệt, từ cuối thế kỉ XVIII, nhiều người Hoa bỏ đất Biên Hòa về Chợ Lớn sinh sống, làm cho dân cư khu vực này đông đúc hơn và phố thị ngày càng sầm uất. Chợ Lớn trở thành đầu mối cung cấp hàng hóa cho cả khu vực mà hầu hết những nhà buôn lớn là người Hoa. Người Hoa ở Chợ Lớn đã bước đầu thành lập nên các Bang, Hội của mình để quản lý việc buôn bán và tương trợ lẫn nhau trong quá trình định cư tại khu vực này. Khu vực Chợ Lớn bao gồm nhiều thôn, xã, trong đó có xã Minh Hương. Chợ Lớn trước nằm trong địa hạt tổng Tân Long, sau là huyện Tân Long. Xã Minh Hương được thành lập từ năm 1698, cùng với nhiều thôn, xã khác của tổng Tân Long. Dân trong xã Minh Hương là những người Hoa đã nhập quốc tịch Việt, đa số làm nghề buôn bán chứ không có ruộng nương cày cấy nên phải đóng thuế theo quy chế “biệt nạp”. Năm 1771, vua Xiêm là Trịnh Quốc Anh đem quân đánh phá Hà Tiên, dân Hà Tiên không buôn bán được nữa, một số người Việt gốc Hoa ở đây đã phải chạy về Chợ Lớn để tá túc. Năm 1778, dân xã Thanh Hà gần như bỏ hẳn Cù Lao Phố gần Biên Hòa về Chợ Lớn trú ngụ. Từ đó, Chợ Lớn trở thành trung tâm tụ hội khá đông người Minh Hương. Những người Minh Hương ở đây chủ yếu làm dịch vụ xay xát, xuất cảng lúa gạo và các loại nông phẩm khác, đồng thời cung cấp nhu yếu phẩm xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng đang trên đà phát triển mạnh. Từ năm 1778, lưu dân đến quá đông, nhờ đào kinh Bảo Định, Rạch Cát, sau này thêm kinh Tàu Hủ nên việc vận chuyển hàng hóa trở nên dễ dàng hơn. Kinh Tàu Hủ (hay Kinh Chợ Lớn) được khởi công đào năm 1819, là đường thủy vận nối liền Sài Gòn-Chợ Lớn với các sông ngòi tại đồng bằng sông Cửu Long, nơi đây người Hoa vận chuyển hàng nhập cảng 27 Trần Khánh, Vai trò của người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á, Nxb Đà Nẵng, 1992, Tr.46 28 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, tập Hạ, Nha văn hóa Phủ quốc Vụ khanh đặc trách xuất bản, Sài Gòn, 1972, Tr.98 - 99 12 hay nội địa về bán cho cư dân lục tỉnh Nam Kì, sau đó mua lúa gạo, gia cầm và nông phẩm khác về bán lại. Hai bên bờ kinh sinh hoạt của người Hoa rất tấp nập29. Trên bản đồ thành phố Sài Gòn năm 1795, địa bàn Chợ Lớn đã được mệnh danh là Bazar Chinois (chợ Trung Hoa, hay còn gọi là Phố Khách). Năm 1819, Huỳnh Công Lý cho đào sông An Thông để cho Chợ Lớn trở thành nơi “tấp nập, đô hội”. Sau đó, người Minh Hương đã góp sức xây thêm kè, lát thêm cầu tàu bằng đá, tạo thành một bến cảng lớn rất sầm uất. Năm 1822, một nhà ngoại giao cũng là một nhà khoa học người Anh Finlayson đến Sài Gòn đã đánh giá rằng mỗi cái trong hai thị trấn Bến Nghé (tức Sài Gòn sau này) và Sài Gòn (tức Chợ Lớn bây giờ) đều to lớn bằng kinh đô Bangkok của nước Xiêm. Ông mô tả “Nhà cửa rộng lớn, thích hợp với phong thổ. Mái lợp ngói. Cột điều mộc. Vách thì trét đất sét lên sườn tre rồi tô hồ lên. Nhiều nhà cao tầng, sàn bằng ván, xếp hàng dọc theo bờ kênh, bờ sông hay dọc theo đường cái rộng quang đãng. Phố xá ngay hàng thẳng lối hơn là ở nhiều kinh thành Châu Âu”30. Trịnh Hoài Đức đã miêu tả trong “Gia Định thành thông chí” về Phố Chợ Lớn như sau: “Cách phía nam trấn 12 dặm, nằm hai bên quan lộ là thành phố lớn, ba đường xuyên thẳng giáp bến sông, một con đường chạy ngang ở giữa và một con đường dọc theo bờ sông. Phố xá liên tiếp liền mái nhau, người Tàu và người ta ở chung lẫn lộn, dài độ 3 dặm. Hàng hóa trong các phố bày bán có: gấm đoạn, đồ sứ, giấy mực, châu báu, sách vở, thuốc thang, trà bộtNhững món hàng ở Nam Bắc theo đường sông đường biển chở đến không thiếu món nàoPhía đông đường lớn, giữa có phố chợ Bình An đủ sản vật quý báu ở núi ở biển và thổ sản các nơi, ban đêm còn thắp đèn mua bán”31. Không chỉ là trung tâm buôn bán sầm uất trong nước, Chợ Lớn cũng mở rộng hoạt động buôn bán với nhiều nước trong khu vực. Các thương nhân người Hoa ở Chợ Lớn thường xuyên giao lưu buôn bán với thương nhân Campuchia, lại thêm chính sách đón nhận tàu buôn nước ngoài thời Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn Gia Định làm cho các hoạt động buôn bán và sản xuất ở Chợ Lớn càng thêm phát triển. Vì vậy, đến nay người Hoa ở Chợ Lớn vẫn tổ chức cúng bái rất linh đình vào dịp lễ giỗ của Lê Văn Duyệt và coi ông là vị thần tài của Sài Gòn. Khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam kỳ và bắt tay vào cai trị thì tình hình cơ cấu, tổ chức của người Hoa ở Chợ Lớn cũng biến động theo. Năm 1865, Pháp cho thành lập một hội đồng quản hạt tại Chợ Lớn gồm 5 người Việt Nam, 15 người Hoa và 5 người Minh Hương. Hội đồng này có nhiệm vụ tiếp đón người Hoa di cư và thu thuế cư trú. Mỗi Hoa kiều nhập cư vào Việt Nam buộc phải gia nhập một trong bảy bang đã có từ thời Nguyễn (đó là các bang Phúc Kiến, Phúc Châu, Triều Châu, Quảng Châu, Quế Châu, Lôi Châu, Hải Nam). Lúc này, Hội đồng quản hạt được coi là một đơn vị chính quyền tương đối độc lập với chính quyền trung ương, nó được phép ban hành những luật lệ riêng và không phải thông qua chính quyền thuộc địa như quản lý kiều dân, giá bán gạo, định mức xuất nhập cảng...Sau khi 29 Nguyễn Văn Huy, Người Hoa tại Việt Nam, Nxb NBC, Paris, 1973 30 Trần Văn Giàu, Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tr.244 31 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, tập Hạ, Sđd, tr.96 - 99 13 hoàn tất việc chiếm đóng Việt Nam (1884) và muốn giữ quan hệ ngoại giao tốt với Trung Hoa, chính quyền thuộc địa Pháp công nhận những người Hoa sống tại Việt Nam là công dân Trung Hoa, xác nhận sự bình đẳng của người Hoa với người Việt về nhiều phương diện, cả về tính mạng và tài sản, cho phép người Hoa đi lại tự do và được thành lập những cơ sở kinh doanh trên khắp lãnh thổ Nam Bộ. Tại Chợ Lớn, người Hoa cư ngụ trong mỗi phố được quyền thành lập một đại bang để quản lý những vấn đề nội bộ của người Hoa32. Khu vực Chợ Lớn hiện nay tuy đã có nhiều thay đổi so với trước đây, nhưng vẫn là một trong những trung tâm buôn bán phồn thịnh không chỉ của người Hoa mà còn có cả người Việt Nam, đồng thời nó cũng là một trung tâm kinh tế không thể thiếu của thành phố năng động bậc nhất Đông Nam Á là Thành phố Hồ Chí Minh. Kết luận Như vậy, sự có mặt của các thương nhân người Hoa trên một dải đất dài từ miền Trung đến miền Nam Việt Nam trong nhiều thế kỉ, đặc biệt là khoảng thời gian từ thế kỉ XVII đến XIX đã để lại những dấu ấn sâu sắc với các đô thị phát triển sầm uất. Các cộng đồng người Hoa không chỉ có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự hình thành những đô thị ở khu vực này mà những hoạt động kinh tế của họ còn góp phần đưa các đô thị đó trở thành những trung tâm thương mại sầm uất và thịnh vượng trong suốt ba thế kỉ. Thanh Hà, Hội An, Cù Lao Phố, Hà Tiên, Chợ Lớnlà những đô thị trong đó vai trò, đóng góp của người Hoa được thể hiện rõ nét trong quá trình hình thành và phát triển, tuy nhiên những hoạt động thương mại của người Hoa còn vượt ra ngoài những đô thị đó và góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế nước ta ở khu vực Đàng Trong. Trong số những đô thị còn lại đến ngày nay, chỉ có Chợ Lớn vẫn phát huy được vị trí của một trung tâm thương mại lớn ở một thành phố năng động bậc nhất Đông Nam Á và hàng ngày vẫn hòa vào sự phát triển chung của đất nước trong thời kì hội nhập và phát triển. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đỗ Bang, Phố cảng Thanh Hà - Bao Vinh trung tâm thương mại Phú Xuân - Huế thế kỉ XVII - XVIII - XIX, Nghiên cứu Lịch sử, số 5, 2006. 2. Đỗ Bang, Quan hệ và phương thức buôn bán giữa Hội An với trong nước, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Hội An, Nxb Khoa học xã hội, 1991. 3. Dinh Đức Hầu Vũ Thế Dinh, Nguyễn Khắc Thuần dịch, Mạc thị gia phả, Nxb Giáo dục, 2005. 32 Nguyễn Cẩm Thúy (CB), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ (từ thế kỉ XVII đến năm 1945), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000, tr.23 14 4. Huỳnh Ngọc Đáng, Chính sách của chính quyền Đàng Trong đối với người Hoa (từ năm 1600 đến năm 1777), Luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Thành phố Hồ Chí Minh, 1999. 5. Nguyễn Đình Đầu, Quá trình hình thành và phát triển phố cổ Hội An, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Đô thị cổ Hội An, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991. 6. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977. 7. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, Tập hạ, Nha văn hóa Phủ quốc Vụ khanh đặc trách xuất bản, Sài Gòn, 1972. 8. Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Tu Trai Nguyễn Tạo dịch, Tập trung, Nha văn hóa Phủ quốc Vụ khanh đặc trách xuất bản, Sài Gòn, 1972. 9. Trần Văn Giàu, Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 10. Nguyễn Văn Huy, Người Hoa tại Việt Nam, Nxb NBC, Paris, 1973. 11. Trần Khánh, Vai trò của người Hoa trong nền kinh tế các nước Đông Nam Á, Nxb Đà Nẵng, 1992. 12. Trần Khánh, Chính sách của nhà nước phong kiến Việt Nam đối với dân Trung Hoa di cư, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, 2000. 13. Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558-1777, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1969. 14. Thạch Phương, Sự hình thành cộng đồng người Hoa di cư thời các Chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỉ XVII-XVIII, Kỷ yếu Hội thảo Nam Bộ và Nam Trung Bộ - Những vấn đề lịch sử thế kỉ XVII- XIX, 2002. 15. Nguyễn Phan Quang, Việt Nam cận đại- những sử liệu mới, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1998. 16. Trương Hữu Quýnh, Đại cương Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Giáo dục, 1998. 17. Nguyễn Cẩm Thúy (CB), Định cư của người Hoa trên đất Nam Bộ (từ thế kỉ XVII đến năm 1945), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000. 18. Viện Sử học, Đô thị cổ Việt Nam, Hà Nội, 1989.
File đính kèm:
- vai_tro_cua_nguoi_hoa_trong_viec_hinh_thanh_va_phat_trien_ca.pdf