Phát triển đô thị ra vùng ven: rủi ro và thách thức đối với TP Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường

Tập trung dân cư gắn liền với đô thị hóa tại các thành phố lớn đã và đang là xu hướng toàn cầu khi dân số thế giới tăng nhanh với nhu cầu phát triển kinh tế và tìm kiếm cơ hội việc làm. Xu hướng này góp phần tạo lợi thế về con người cho các đô thị phát triển, nhưng đồng thời cũng phát sinh nhu cầu chỗ ở và các dịch vụ đô thị, vốn là tiền đề cho các mục tiêu phát triển không gian đô thị. Tuy nhiên, mặt trái của quá trình này là thúc đẩy quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng tại các vùng ven của đô thị - Vốn chứa đựng hệ sinh thái tự nhiên góp phần làm “khoảng đệm an toàn” trước rủi ro thiên tai, đảm bảo sự cân bằng giữa môi trường nhân tạo và tự nhiên. Với quan điểm chủ quan dựa vào sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ để cải tạo và thay đổi môi trường, các khu đô thị mới được quy hoạch và xây dựng có vị trí trên những khu vực rủi ro cao trước các biến cố thiên tai như ngập lụt, đồng thời góp phần làm tăng ô nhiễm môi trường và cả nguy cơ phát sinh và lây lan dịch bệnh. Do đó, quá trình phát triển và đô thị hóa ở vùng ven cần được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau, bao gồm lợi ích kinh tế và cả nhưng rủi ro phải đối mặt. Bằng phương pháp tổng hợp một số kết quả nghiên cứu đã công bố của Duy và nhóm tác giả (2017, 2018 và 2019) và số liệu thứ cấp được bổ sung, bài viết này nêu lên một số hệ quả của môi trường liên quan đến quá trình đô thị hóa và tập trung dân cư thiếu kiểm soát tại vùng ven. Từ đó, nhóm tác giả liên hệ đến những thách thức mà Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) đã và đang đối mặt, trong đó chú trọng đến ba vấn đề: ngập lụt, ô nhiễm khói bụi và tiếng ồn, và dịch bệnh, để làm cơ sở cho các ý phân tích và đề ra một số khuyến nghị đến chính quyền thành phố liên quan đến công tác lập quy hoạch và quản lý đô thị

Phát triển đô thị ra vùng ven: rủi ro và thách thức đối với TP Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường trang 1

Trang 1

Phát triển đô thị ra vùng ven: rủi ro và thách thức đối với TP Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường trang 2

Trang 2

Phát triển đô thị ra vùng ven: rủi ro và thách thức đối với TP Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường trang 3

Trang 3

Phát triển đô thị ra vùng ven: rủi ro và thách thức đối với TP Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường trang 4

Trang 4

Phát triển đô thị ra vùng ven: rủi ro và thách thức đối với TP Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường trang 5

Trang 5

Phát triển đô thị ra vùng ven: rủi ro và thách thức đối với TP Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường trang 6

Trang 6

Phát triển đô thị ra vùng ven: rủi ro và thách thức đối với TP Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường trang 7

Trang 7

Phát triển đô thị ra vùng ven: rủi ro và thách thức đối với TP Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 3340
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển đô thị ra vùng ven: rủi ro và thách thức đối với TP Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển đô thị ra vùng ven: rủi ro và thách thức đối với TP Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường

Phát triển đô thị ra vùng ven: rủi ro và thách thức đối với TP Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường
SË 103+104 . 202074
Tập trung dân cư gắn liền với đô thị hóa tại các 
thành phố lớn đã và đang là xu hướng toàn cầu 
khi dân số thế giới tăng nhanh với nhu cầu phát 
triển kinh tế và tìm kiếm cơ hội việc làm. Xu 
hướng này góp phần tạo lợi thế về con người 
cho các đô thị phát triển, nhưng đồng thời cũng 
phát sinh nhu cầu chỗ ở và các dịch vụ đô thị, 
vốn là tiền đề cho các mục tiêu phát triển không 
gian đô thị. Tuy nhiên, mặt trái của quá trình 
này là thúc đẩy quá trình đô thị hóa diễn ra 
nhanh chóng tại các vùng ven của đô thị - vốn 
chứa đựng hệ sinh thái tự nhiên góp phần làm 
“khoảng đệm an toàn” trước rủi ro thiên tai, đảm 
bảo sự cân bằng giữa môi trường nhân tạo và tự 
nhiên. Với quan điểm chủ quan dựa vào sự phát 
triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ để 
cải tạo và thay đổi môi trường, các khu đô thị 
mới được quy hoạch và xây dựng có vị trí trên 
những khu vực rủi ro cao trước các biến cố thiên 
tai như ngập lụt, đồng thời góp phần làm tăng 
ô nhiễm môi trường và cả nguy cơ phát sinh và 
lây lan dịch bệnh. Do đó, quá trình phát triển và 
đô thị hóa ở vùng ven cần được xem xét ở nhiều 
góc độ khác nhau, bao gồm lợi ích kinh tế và cả 
nhưng rủi ro phải đối mặt. Bằng phương pháp 
tổng hợp một số kết quả nghiên cứu đã công bố 
của Duy và nhóm tác giả (2017, 2018 và 2019) 
và số liệu thứ cấp được bổ sung, bài viết này nêu 
lên một số hệ quả của môi trường liên quan đến 
quá trình đô thị hóa và tập trung dân cư thiếu 
kiểm soát tại vùng ven. Từ đó, nhóm tác giả liên 
hệ đến những thách thức mà Thành phố Hồ Chí 
Minh (TP.HCM) đã và đang đối mặt, trong đó chú 
trọng đến ba vấn đề: ngập lụt, ô nhiễm khói bụi 
và tiếng ồn, và dịch bệnh, để làm cơ sở cho các 
ý phân tích và đề ra một số khuyến nghị đến 
chính quyền thành phố liên quan đến công tác 
lập quy hoạch và quản lý đô thị. 
Từ khóa: Phát triển không gian đô thị, vùng ven, khu vực mới phát 
triển, đô thị biển, hiểm họa môi trường
PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ RA VÙNG VEN: 
DIỄN ĐÀN 
PhAN Nhựt Duy* , NguyỄN thị LAN ANh**, trAàN truNg VĩNh***
ruÛI rO VÀ thÁCh thưÙC ĐỐI VỚI tP. hOà ChÍ MINh trưỚC CÁC hIỂM hOïA MÔI trưỜNg 
LIÊN QuAN ĐẾN VẤN ĐEà tẬP truNg DÂN Cư VÀ ĐÔ thị hÓA
rEsIDENCE CONCENtrAtION AND urbAN sPACE DEVELOPMENt IN thE suburbAN ArEAs Of CItIEs NEAr thE 
sEA: rIsks AND ChALLENgEs fOr hOChIMINh CIty tO ENVIrONMENtAL hAzArDs
As the global population has been increasing, urban concentration, associated with the urbanisation, has become a common trend driven 
by economic development especially in major cities. This takes part in the predominance in urban competitiveness inspite of the potential 
pressure on accommodation and urban services need to be developed. These can be seen as the driving factor to the rapid urbanisation 
process particularly in suburbs, which are actually the place for local ecological system, e.g. watercourse and vegetation; referred to 
as the “safety buffer” against environmental harzards to ensure urban sustainable development. Relied on the engineering development 
in construction to change the natural environment, many cities have seen several new development areas located on low-laying lands 
vulnerable to environmental attacks such as extreme floods. Addtionally, this process will also exacerbate the increasing pollution of urban 
environment, even potential trigger and spread of diseases. Hence, the urbanisation and development of sub-urban areas need to be 
thouroughly considered from different viewpoints, from the economic development versus environmental hazards. By using the results from 
the research published by Duy et al. (2017, 2018) and Duy (2019), in cooperation with additional secondary data, this paper blames potential 
environmental problems related to the uncontrolled urban concentration and urbanisation in suburbs. This allows an inform to the challenges 
to HCMC, with the highlights in urban floods, air and noise pollution, and disease hazards; in order to raise some recommendations in urban 
planning and management to the local government.
75SË 103+104 . 2020
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝ 
1. Giới thiệu bối cảnh chung về 
phát triển đô thị và tập trung dân 
cư tại các đô thị lớn trên thế giới
Trong những thập niên gần đây, dân số thế 
giới luôn tăng với xu hướng tăng sự tập trung 
phân bổ tại các khu vực đô thị, đặc biệt là các 
đô thị cực lớn có tiềm năng phát triển kinh tế. 
Số liệu của Liên Hiệp quốc - UN (2014) đã 
cho thấy các thành phố trên thế giới hầu hết 
đều có sự gia tăng dân số từ 10 - 20 lần sau 
khoảng 50 năm - từ thập niên 1960, và dự 
báo khoảng 68% dân số thế giới tập trung tại 
các khu vực đô thị cho đến 2050 (UN, 2018). 
Số liệu gần đây nhất cho thấy năm 2000 thế 
giới có 371 đô thị hơn 1 triệu dân thì con số 
này đã là 548 năm 2018, và dự báo tiếp tục 
tăng lên 706 năm 2030 (UN, 2018). Các 
đô thị lớn (hoặc vùng đô thị cực lớn) luôn là 
“điểm đến” thu hút lao động dựa trên các lợi 
thế về việc làm, gắn kết và gia tăng giá trị lao 
động. Camagni et al. (1998) lý giải rằng các 
đô thị chứa đựng các nguồn tài nguyên về 
con người và công nghệ tạo lợi thế phát triển 
kinh tế. Trên thực tế, thu hút lao động - tích tụ 
dân cư sẽ tạo nguồn lực phát triển cho đô thị, 
đồng thời cũng sẽ tạo ra sự gia tăng về nhu 
cầu chỗ ở (liên quan đến thị trường bất động 
sản) và các nhu cầu dịch vụ đô thị, từ đó trở 
thành yếu tố thúc  ... o, đặt ra yêu cầu cho việc phải 
nâng nền các công trình, cải tạo bờ kè, xây cống ngăn triều... Tuy 
vậy cũng chỉ là những giải pháp tình thế xử lý cho những chiến lược 
không phù hợp về mở rộng và phát triển đô thị. Thay vào đó, nếu vấn 
đề căn cơ liên quan đến các yếu tố tác động đến nhập cư (tăng cơ 
học) chưa được xem xét và tìm hướng giải quyết phù hợp thì những 
giải pháp phía sau (về hạ tầng kỹ thuật, xã hội) phần lớn chỉ là mang 
tính tạm thời để giải quyết “phần ngọn”. Lấy ví dụ, thay vì dùng số 
tiền hàng chục nghìn tỷ đồng để mở rộng đường, cải tạo, xây mới hệ 
thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ giao thông, chống ngập nhằm giải 
quyết hệ quả của dân số tăng nhanh và áp lực đô thị hóa thì số tiền 
trên có thể dùng để hỗ trợ công ăn việc làm cho một bộ phận người 
dân, đặc biệt là người nghèo đang nhập cư tạm thời tại có thể quay 
về vùng nông thôn hay một số đô thị lân cận để phát triển công việc 
phù hợp. Bài toán phức tạp sẽ trở thành đơn giản đối các nhà quản lý 
và hoạch định chính sách. 
Do đó, quy hoạch đầu tư phát triển và hình thành các khu đô thị mới 
tại các vùng ven nên có sự tính toán và cân nhắc giữa lợi ích kinh tế 
và thiệt hại môi trường cùng những hệ quả theo sau để có những 
hướng tiếp cận và giải quyết vấn đề đơn giản hơn. Một số lập luận về 
khả năng “giãn dân” của các khu đô thị, “thành phố mới”, nhưng trên 
thực tế “vết dầu loang” vẫn tiếp diễn ở các không gian đệm - vùng 
ven như hiện nay tại TP.HCM. Điều này có thể liên quan đến tính 
thiếu hiệu quả của công tác quy hoạch và quản lý, dựa trên một cơ 
chế quy hoạch theo phương thức truyền thống với hệ thống các bản 
đồ “dạng phẳng”, trong đó quy hoạch sử dụng đất đóng vai trò chính 
nhưng không đủ khả năng chuyển tải hết những ý tưởng quy hoạch, 
nhất là về tổ chức không gian theo chiều cao. Bên cạnh đó, việc xây 
Hình 7: Các mức độ ô nhiễm tiếng ồn.
Nguồn: CEDR, 2012.
SË 103+104 . 202080
dựng các chính sách quản lý cần dựa trên những nghiên cứu và tính 
toán xác định ra các giá trị lượng tính cụ thể làm cơ sở cho việc đề 
ra các chính sách. Nếu đô thị chỉ ưu tiên mở rộng diện tích theo diện 
rộng mà thiếu cân đối với phát triển chiều cao tại các khu vực đất 
thuận lợi thì quá trình đô thị hóa vùng ven dẫn đến những tác động 
đến hệ sinh thái tự nhiên (bao gồm cả diện tích mặt nước) là điều khó 
tránh khỏi. Và ngược lại, những tác động từ môi trường tự nhiên đến 
cuộc sống của con người ngày càng diễn ra phức tạp, như là một hệ 
quả tất yếu của quá trình tương tác hai chiều; mà những rủi ro và thiệt 
cũng chính là do con người tạo ra.
4. Kết luận và kiến nghị 
Con người là nhân tố cốt lõi trong quá trình hình thành và phát triển 
đô thị. Quá trình này cũng gắn liền với tăng dân số, nhất là tăng cơ 
học với xu hướng di dân từ các vùng lân cận với mục tiêu mưu cầu 
lợi ích kinh tế và tìm kiếm môi trường để phát triển. Đây chính là yếu 
tố tiền đề cho các nhà quy hoạch và quản lý đô thị đề ra các mục 
tiêu phát triển, mở rộng không gian của rất nhiều đô thị, từ khu trung 
tâm cũ (hình thành ở giai đoạn sơ khai) ra các khu vực xung quanh 
- vùng ven. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nhiều khu vực thuộc vùng đất 
này đã không được ưu tiên xem xét phát triển khi đô thị mới được hình 
thành với nhiều lý do bất lợi liên quan đến điều kiện tự nhiên. Trong 
khi đó, việc cải tạo môi trường tự nhiên cục bộ sẽ có tác động đến 
sự ổn định và cân bằng của toàn đô thị; và có thể sẽ phải trả giá rất 
lớn cho những thiệt hại về con người và tài sản. Do đó, phát triển đô 
thị tại các khu vực này chắc chắn cần phải cân nhắc đến các yếu tố 
rủi ro về môi trường để giảm thiểu những rủi ro và tác động đến các 
cộng đồng định cư mới tại khu vực và toàn đô thị. Hơn nữa, cần xem 
xét đến mặt trái của quá trình này là sẽ tiếp đà cho xu hướng tiếp tục 
tăng dân số cho toàn đô thị. Đô thị càng tập trung dân cư, thì khi xảy 
ra thiên tai, dịch bệnh hay những hệ quả của ô nhiễm môi trường thì 
mức độ lan truyền hệ quả kinh tế - xã hội càng cao đến các khu vực 
khác (cả trong và ngoài nước). Điều này càng đặt ra thách thức cho 
các nhà quy hoạch và quản lý đô thị cần quan tâm hơn đến khả năng 
cân bằng phát triển đô thị, mức độ tập trung và phân bố dân số giữa 
các đô thị trong một vùng.
Đối với TP.HCM, mở rộng phát triển không gian đô thị tại vùng 
ven nếu thiếu kiểm soát và có giải pháp cân bằng hợp lý sẽ phải 
đối mặt với:
i) Rủi ro: thiệt hại con người và tài sản khi xảy ra thảm họa thiên tai 
(chẳng hạn như ngập lụt), đồng thời tăng mức ô nhiễm môi trường 
gây ra bởi khói bụi và tiếng ồn, và khả năng lây lan nhanh, phức tạp 
khi xảy ra dịch bệnh; 
ii) Thách thức: tạo ra những tác động, hệ lụy đến các khu vực đô thị 
đã phát triển ổn định dẫn đến phát sinh nhu cầu cải tạo nâng cấp hệ 
thống hạ tầng kỹ thuật, xã hội; trong khi hệ thống quy hoạch vẫn theo 
phương thức truyền thống dựa trên nền tảng quy hoạch sử dụng đất 
là chính, thiếu những nghiên cứu chuyên sâu về ảnh hưởng và tác 
động đến môi trường.
Nếu tăng dân số, mở rộng không gian đô thị là một xu hướng khó 
“ngăn chặn” thì những giải pháp căn cơ trong quá trình lập và quản lý 
quy hoạch (cả quy hoạch chung của vùng và thành phố) cần:
n Cân đối lại tỷ lệ lao động nhập cư giữa đô thị trung tâm và các đô 
thị khác trong vùng (TP.HCM) trong đồ án quy hoạch vùng nhằm đạt 
được một mức cân bằng phù hợp (trong tầm kiểm soát và khả năng 
đáp ứng hạ tầng kinh tế của mỗi đô thị); xem xét cẩn trọng đối với 
các đồ án quy hoạch phát triển các khu đô thị mới liên quan đến khả 
năng thúc đẩy việc tăng dân số, đồng thời, các quy tắc “hoàn trả môi 
trường” (chẳng hạn diện tích mặt nước, cây xanh, mức xả thải không 
khí) cần đặt ra rõ ràng và được quản lý chặt chẽ; 
n Mở rộng không gian đô thị trong sự hài hòa giữa giải pháp mở rộng 
diện tích (cho phép) đô thị hóa và phát triển chiều cao (trên khu vực 
đất thuận lợi) song song với những đánh giá tác động và chất lượng 
của môi trường trong đô thị, từ đó cần xác định các giá trị ngưỡng 
phát triển về dân số tương ứng với mức phát triển của môi trường 
tự nhiên;
n Tích hợp các kịch bản - giải pháp dự phòng rủi ro (cho tình huống 
xấu nhất) làm tiền đề cho các kịch bản phát triển kinh tế linh hoạt 
bằng các phương pháp quy hoạch mới (chẳng hạn quy hoạch sử 
dụng đất có tính đến yếu tố chiều cao và theo nhiều kịch bản). 
81SË 103+104 . 2020
≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝ 
NGAøy NHAäN BAøi: 29/3/2020
NGAøy GưÛi PHẢN BiEäN: 01/4/2020
NGAøy DUyEäT đAêNG: 15/4/2020
Tài liệu Tham khảo:
1. Asia Development Bank – ADB (2010). Ho Chi Minh City Adaptation to Climate 
Change. ADB, Philippines, ISBN: 978-971-561-893-9.
2. Bộ Tài nguyên & Môi trường - MNRE (2010). Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về tiếng 
ồn. QCVN 26:2010/BTNMT.
3. Camagni R., Capello R., Nijkamp P. (1998). Towards sustainable city policy: an 
economy–environment technology nexus. Ecol. Econ. 24 (1), pp. 103–118. DOI: 
10.1016/S0921-8009(97)00032-3.
4. Cao, D. T. (2017). Phần mềm ứng dụng GIS mô phỏng ô nhiễm tiếng ồn do giao 
thông. Tạp chí Môi trường số chuyên đề I.
5. Carey, I. M., Anderson, H. R., Atkinson, R. W., Beevers, S. D., Cook, D. G., Strachan, 
D. P., Dajnak, D., Gulliver, J., and Kelly, F. J. (2018). Are Noise and Air Pollution Related 
to the Incidence of Dementia? A Cohort Study in London, England. BMJ Open, vol.8(9), 
doi: 10.1136/bmjopen-2018-022404.
6. CEDR Project Group Road Noise (2012). Value for Money in Road Traffic Noise 
Abatement. Procedia - Social and Behavioral Sciences, Vol.4. DOI: 10.1016/j.
sbspro.2012.06.1112.
7. Dockery, D. W. (2001), Epidemiologic Evidence of Cardiovascular Effects of 
Particulate Air pollution. Environmental Health Perspectives, vol. 109, pp. 483-486.
8. Duong, H. H., Nguyen, D. T. C., Nguyen, L. S. P., To, T. H. (2018). Fine Particulate 
Matter (PM2.5) in Ho Chi Minh City: Analysis of The Status and The Temporal Variation 
Based on The Continuous Data From 2013-2017. Science & Technology Development 
Journal: Natural Sciences, Vol 2, Issue 5., pp. 131 -137.
9. Duy P. N. (2015). Khả năng phục hồi nhanh của đô thị: Từ những thảm họa cho đến 
các bài học kinh nghiệm trong quá trình quy hoạch và quản lý không gian nhằm giảm 
thiểu rủi ro ngập lụt trong đô thị. Quy hoạch đô thị, Vol. 22-2015. Hiệp hội Quy hoạch 
phát triển đô thị Việt Nam.
10. Duy P. N., Chapman L., Tight M., Thuong L. V., and Linh P. N. (2017a). Increasing 
Vulnerability to Floods in New Development Areas: Evidence from Ho Chi Minh 
City. International Journal of Climate Change Strategies and Management, Vol. 10 (1), 
pp.197-212. Emerald. DOI: 10.1108/IJCCSM-12-2016-0169
11. Duy P. N., Chapman L., Tight M., Thuong L. V., and Linh P. N. (2017b). Urban 
Resilience to Floods in Coastal Cities: Challenges and Opportunities for Ho Chi Minh City 
and other Emerging Cities in Southeast Asia. Journal of Urban Planning and Development, 
Vol. 44 (01), ASCE. DOI: 10.1061/%28ASCE%29UP.1943-5444.0000419
12. Duy P. N., Chapman L., Tight M. (2018). Resilient Transport System to Reduce Urban 
Vulnerability to Floods: A Case Study of Ho Chi Minh City, Vietnam. Travel Behavior 
and Society, Vol 15 (2019), pp. 28 – 43. Elsevier. DOI: 10.1016/j.tbs.2018.11.001
13. Duy P. N. (2019a). Developing Flood Resilience Transport System for coastal cities: 
A Case Study of Ho Chi Minh City, Vietnam. PhD thesis to University of Birmingham. 
URL: https://etheses.bham.ac.uk/id/eprint/9164/9/Duy2019PhD_Redacted.pdf
14. Duy P. N. and Proverbs D. (2019b). Những ảnh hưởng của giải pháp bờ kè đối 
với vấn đề ngập trong đô thị: Bài học kinh nghiệm cho TP.HCM từ thất bại của các 
hệ thống bảo vệ tại một số đô thị trên thế giới. Kỷ yếu hội thảo Quy hoạch và Phát 
triển bờ kè sông Sài Gòn, sông và kênh nội thành, pp. 212 – 216. URL: https://qhkt.
hochiminhcity.gov.vn/Media/Uploads/H%C3%ACnh%20H%E1%BB%99i%20
th%E1%BA%A3o%20-%20H%E1%BB%99i%20ngh%E1%BB%8B/2019%20-%20
b%E1%BB%9D%20s%C3%B4ng%20SG%20den%202015/kiyeu_hoithao_bsong%20
SG-%C4%91%C3%A3%20n%C3%A9n.pdf
15. General Statistic Office of Vietnam – GSOV (1976 - 2015). Population of Ho Chi 
Minh from 1986 – 2015 (data extracted).
16. Investment and Trade Promotion Center of HCMC (2015). Ho Chi Minh City at A 
Glance – 2015 (online). URL: 
index_html/?set_language=en
17. Nguyễn, Đ. T. (2007). Xây dựng Bản đồ hiện trạng tiếng ồn tại TP.HCM. Viện Môi 
trường & Tài nguyên.
18. Nguyen, T. H. G. and Nguyen, T. K. O. (2014). Roadside Levels and Traffic Emission 
Rates of PM2.5 and BTEX in Ho Chi Minh City, Vietnam, Atmospheric Environment, 
vol. 94, pp. 806–816.
19. Nicholls, R. J. (2011). A Global Ranking of Port Cities With High Exposure to Climate 
Extremes. Climatic Change, Vol. 104, pp. 89-111, doi: 10.1007/s10584-010-9977-4.
20. Phi, H. L. (2013). Urban flood in Ho Chi Minh City: causes and management 
strategy. Vietnamese Journal of Construction Planning, Vol. 63, pp. 26-29, Hanoi. (In 
Vietnamese).
Steering Center of Flood Control Program of Ho Chi Minh City – SCFC (2016). Flooding 
reports for the events in 15th September 2015, and in 26th September 2016.
21. Storch, H. and Downes, N.K. (2011). A scenario-based approach to assess Ho Chi 
Minh City urban development strategies against the impact of climate change. Cities, 
Vol. 28, pp. 517-526, doi: 10.1016/J.CITIES.2011.07.002.
22. Thinh N.X, Bräuer A. and Teucher V. (2009). Introduction into Work Package Urban 
Flooding of the BMBF Megacity Research Project Ho Chi Minh City. Environmental 
Informatics and Industrial Environmental Protection: Concepts, Methods and Tools. 
Berlin: Shaker Verlag, ISBN: 978-3-8322-8397-1
23. Trân, T. N. H. và Trương T. H. (online). Viết thêm về quy hoạch Coffyn 1862. URL: 
a50d-4732-b0b7-5514012ff99b&groupId=13025
24. Trương H. T (online). Đô thị hóa vùng ven đô: Nghiên cứu sự biến đổi kinh tế - 
xã hội qua trường hợp xã Bà Điểm (Hóc Môn) và Vĩnh Lộc A (Bình Chánh). Đại học 
Khoa học Xã hội và Nhân văn (online). URL: 
Seminars/Truong_Do%20thi%20hoa%20vung%20ven%20-%20nghien%20cuu%20
su%20bien%20doi.pdf
25. United Nations (2018). World Urbanisation Prospects – Highlights. New York: 
UN. URL:https://www.un.org/development/desa/en/news/population/2018-revision-of-
world-urbanization-prospects.html
26. Van T. T., Lan H. T. and Trung L. V (2011). Changes of Temperature on Urban 
Surface during Urbanization by Satellite Method: A Case Study of Ho Chi Minh City 
(translated from Vietnamese). Journal of Earth Sciences of Vietnam, Vol. 33(3), 347-359
27. Viet, L. V. (2008). The Urbanization and Climate Changes in Ho Chi Minh City. 
Proceedings TEDI of the 10th Conference of Res. Inst. Of Hydrology and Environment, 
pp. 369 - 375.

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_do_thi_ra_vung_ven_rui_ro_va_thach_thuc_doi_voi_t.pdf