Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang

Kiên Giang có nguồn tài nguyên biển phong phú, đa dạng, rất giàu tiềm năng phát

triển du lịch biển đảo. Những năm qua, Kiên Giang đã ứng dụng quy hoạch không gian

biển (QHKGB) vào phát triển sản phẩm du lịch (SPDL) biển đảo và đạt được một số thành

tựu đáng kể mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế. Bài viết này tập trung nghiên cứu ứng dụng

QHKGB vào phát triển SPDL biển đảo, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm giúp

việc ứng dụng QHKGB vào phát triển SPDL biển đảo đạt hiệu quả cao.

Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang trang 1

Trang 1

Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang trang 2

Trang 2

Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang trang 3

Trang 3

Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang trang 4

Trang 4

Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang trang 5

Trang 5

Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang trang 6

Trang 6

Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang trang 7

Trang 7

Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang trang 8

Trang 8

Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang trang 9

Trang 9

Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang minhkhanh 7500
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang

Ứng dụng quy hoạch không gian biển vào phát triển sản phẩm du lịch biển đảo ở Kiên Giang
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Văn Quang 
____________________________________________________________________________________________________________ 
135 
ỨNG DỤNG QUY HOẠCH KHÔNG GIAN BIỂN 
 VÀO PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM DU LỊCH BIỂN ĐẢO Ở KIÊN GIANG 
PHẠM VĂN QUANG* 
TÓM TẮT 
Kiên Giang có nguồn tài nguyên biển phong phú, đa dạng, rất giàu tiềm năng phát 
triển du lịch biển đảo. Những năm qua, Kiên Giang đã ứng dụng quy hoạch không gian 
biển (QHKGB) vào phát triển sản phẩm du lịch (SPDL) biển đảo và đạt được một số thành 
tựu đáng kể mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế. Bài viết này tập trung nghiên cứu ứng dụng 
QHKGB vào phát triển SPDL biển đảo, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm giúp 
việc ứng dụng QHKGB vào phát triển SPDL biển đảo đạt hiệu quả cao. 
Từ khóa: quy hoạch không gian biển, sản phẩm du lịch biển đảo, tỉnh Kiên Giang. 
ABSTRACT 
The application of marine spatial planning 
in developing sea-island tourism products in Kien Giang 
Kien Giang has abundant and diverse marine resources, and high potentials to 
develop the sea island tourism. In recent years, King Giang has applied marine spatial 
planning in developing sea-island tourism products and obtained some remarkable 
achievements although there are still some shortcomings. The article focuses on studying 
the application of marine spatial planning in developing sea-island tourism products, in 
light of which, some solutions are suggested to enhance the effectiveness of the application 
of marine spatial planning in developing sea-island tourism products. 
Keywords: marine spatial planning, the sea-island tourism products, Kien Giang 
province. 
* ThS, Trường Chính trị tỉnh Kiên Giang; Emai: phamvanquang59@yahoo.com.vn 
1. Đặt vấn đề 
Quy hoạch không gian biển là thuật 
ngữ quản lí chỉ mới xuất hiện những năm 
gần đây nhưng đã nhanh chóng được ứng 
dụng rộng rãi trong các ngành kinh tế 
biển, và trong sản xuất - kinh doanh của 
một số ngành kinh tế biển đặc thù nhằm 
nâng cao hiệu quả hoạt động trong môi 
trường biển. 
Du lịch biển đảo là một trong 
những ngành kinh tế quan trọng của tỉnh 
Kiên Giang, luôn chiếm tỉ trọng cao trong 
cơ cấu kinh tế của tỉnh. Bài viết này, tập 
trung nghiên cứu ứng dụng QHKGB vào 
phát triển SPDL biển đảo ở tỉnh Kiên 
Giang. Đây cũng là cách đổi mới phương 
pháp quản lí, nhằm giúp các doanh 
nghiệp du lịch vươn lên kinh doanh đạt 
hiệu quả cao, hội nhập quốc tế thành 
công, góp phần giúp tỉnh Kiên Giang 
thực hiện thắng lợi định hướng tập trung 
phát triển du lịch để từng bước trở thành 
ngành kinh tế mũi nhọn. 
2. Ứng dụng QHKGB vào xây dựng 
SPDL biển đảo 
2.1. QHKGB với việc phát triển SPDL 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 5(83) năm 2016 
____________________________________________________________________________________________________________ 
136 
Theo UNESCO: “Quy hoạch không 
gian biển là một quá trình phân tích và 
phân bổ các phần của không gian biển ba 
chiều cho các mục đích sử dụng cụ thể, 
để đạt được các mục tiêu sinh thái, kinh 
tế và xã hội thường được xác định thông 
qua tiến trình chính trị; kết quả của quá 
trình QHKGB thường là một kế hoạch 
tổng thể toàn diện cho một vùng biển. 
QHKGB là một phần của quản lí sử dụng 
biển”. [1] 
Ở Việt Nam, vấn đề QHKGB được 
quan tâm cùng với phân vùng chức năng 
các khu bảo tồn biển và quản lí tổng hợp 
vùng bờ. Phân vùng chức năng được coi 
là công cụ đầu tiên của chu kì QHKGB 
được rút kinh nghiệm từ quy hoạch sử 
dụng đất, áp dụng cho việc phân bổ các 
nguồn tài nguyên biển và không gian 
biển cho các mục đích sử dụng khác nhau 
có tính đến tình trạng của các hệ sinh 
thái, phù hợp với tầm nhìn chung, các giá 
trị kinh tế - văn hóa - xã hội và các mục 
tiêu phát triển bền vững. Thực chất phân 
vùng chức năng biển là sự phân chia 
không gian thành những “đơn vị không 
gian” nhỏ hơn theo những tiêu chí nhất 
định để có định hướng và cách thức khai 
thác, sử dụng tài nguyên biển hợp lí, hiệu 
quả và bền vững [1]. Đây là hoạt động đã 
có nhiều đóng góp cho hệ thống bảo tồn 
biển, có tác dụng tốt trong xây dựng 
SPDL biển đảo. Mối liên kết giữa các 
khu bảo tồn và các doanh nghiệp du lịch 
gắn bó lâu đời. Các khu bảo tồn cần du 
lịch và các doanh nghiệp du lịch cần 
không gian biển để bảo vệ. Du lịch luôn 
là tiêu chí xem xét và thiết lập quản lí các 
khu bảo tồn biển. Mỗi doanh nghiệp du 
lịch được giao những dự án đầu tư có sử 
dụng không gian biển nhất định cũng cần 
phải được tiếp tục phân thành những đơn 
vị không gian nhỏ hơn để tiện sử dụng 
cho việc khai thác SPDL biển đảo. 
Quản lí tổng hợp vùng bờ đã được 
ứng dụng nhiều cho phát triển SPDL biển 
đảo có “chức năng sản xuất” nhằm kết 
hợp các yếu tố đầu vào như lao động, tài 
nguyên thiên nhiên của dải ven biển, vốn 
và thời gian để tạo ra các SPDL mong 
đợi (như: bãi biển cho khách du lịch nghỉ 
dưỡng; chất lượng nước đảm bảo cho khu 
vực tắm biển, thể thao; bảo tồn biển cho 
các hoạt động tham quan, lặn biển; bảo 
tồn nguồn lợi thủy sản vùng bờ cho hoạt 
động du lịch câu cá giải trí; bảo tồn rừng 
ngập mặn giảm tổn thất biến đổi khí hậu 
và chống ô nhiễm môi trường). 
SPDL biển đảo chủ yếu dựa vào các 
yếu tố về tự nhiên, cảnh quan, điều kiện 
lịch sử - văn hóa, kinh tế-xã hội gắn với 
không gian biển để thu hút du khách đến 
tham quan, nghỉ dưỡng, trải nghiệm... 
Khi các yếu tố này được phát hiện, quy 
hoạch phát triển, khai thác và sử dụng 
cho mục đích du lịch thì chúng sẽ trở 
thành SPDL hấp dẫn [5]. Ứng dụng 
QHKGB giúp nhà quản lí và doanh 
nghiệp đánh giá mối quan hệ giữa sử 
dụng biển cho mục đích du lịch với sử 
dụng biển cho mục đích khác; xác định 
mối quan hệ giữa du lịch với môi trường 
biển. Cách tiếp cận này sẽ giúp Nhà nước 
và doanh nghiệp cùng xây dựng SPDL 
tương thích với điều kiện môi trường 
biển. 
2.2. Phương pháp ứng dụng QHKGB 
phát triển SPDL biển đảo 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Văn Quang 
_________________ ... 0 
8 Di tích LS-VH, di tích cách mạng 27 14 51,9 
9 Bảo tàng 02 02 100,0 
10 Lễ hội 03 03 100,0 
11 Làng nghề, cơ sở sản xuất nghề 11 06 54,5 
Nguồn: [2] 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Văn Quang 
____________________________________________________________________________________________________________ 
141 
- UBND Tỉnh cũng đã ứng dụng lồng 
ghép QHKGB vào các chương trình, kế 
hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng như: 
Đường hành lang ven biển phía Nam 
(200km), đường trên đảo Phú Quốc 
(211,72km) và các đảo khác (60km); sân 
bay quốc tế Phú Quốc, hệ thống cảng 
biển, bến hành khách, công trình điện, 
nước, thông tin liên lạc Tổng vốn đầu 
tư giai đoạn 2011-2015 khoảng hơn 
70.000 tỉ đồng, tạo ra sự chuyển biến tích 
cực, đánh thức tiềm năng du lịch biển đảo 
của tỉnh. [3] 
3.3. Doanh nghiệp tham gia đầu tư 
phát triển SPDL biển đảo 
Giai đoạn 2011-2015, tỉnh Kiên 
Giang đã thu hút thêm 60 dự án du lịch, 
nâng tổng số dự án đầu tư du lịch tính 
đến tháng 6 năm 2015 đạt 243 dự án, 
tổng diện tích 8.009,78 ha, tổng vốn đăng 
kí 137.149,89 tỉ đồng, có 154 dự án đã 
được cấp giấy chứng nhận đầu tư, 34 dự 
án đã hoàn thành và đi vào hoạt động. Cụ 
thể như sau: 
- Phát triển nhóm SPDL nghỉ dưỡng 
biển cao cấp, trung cấp, đại trà và du 
lịch tuần trăng mật: Đã quy hoạch không 
gian cho khu nghỉ dưỡng biển cao cấp và 
trung cấp tại Bãi Khem, Bãi Sao, Hòn 
Thơm và Dương Tơ (Phú Quốc); xây 
dựng các khu du lịch nghỉ dưỡng biển đại 
trà tại An Thới (Phú Quốc) và Hà Tiên. 
Cung cấp các dịch vụ lưu trú, ăn uống, 
nghỉ dưỡng... chất lượng cao gồm các 
khu resort biển cao cấp 4-5 sao và khu 
trung cấp 3-4 sao tương đối biệt lập, có 
bãi tắm và cảnh quan thiên nhiên đẹp, 
độc đáo, môi trường khá trong sạch; khu 
nghỉ dưỡng biển đại trà gồm nhiều cơ sở 
lưu trú 1-2 sao trở xuống. Khách du lịch 
lưu trú bình quân từ 2-3 đêm, thu hút khá 
nhiều du khách Việt Nam (từ TPHCM và 
Hà Nội) và du khách đến từ Pháp, Đức, 
Mĩ, Australia, Nga, Nhật. Khu nghỉ 
dưỡng đại trà phần lớn là Tây ba lô đa 
quốc gia, khách đến từ các tỉnh đồng 
bằng sông Cửu Long. Phân khu nghỉ 
dưỡng cao cấp và trung cấp có sức chứa 
300.000-360.000 khách/năm. Khu đại trà 
có sức chứa từ 400.000 – 450.000 
khách/năm. Đến nay, các khu nghỉ dưỡng 
đã thu hút khách nghỉ dưỡng cao cấp 
khoảng 30.000 lượt/năm, trung cấp 
150.000 lượt/năm và khách đại trà thu 
hút 350.000 lượt/năm. 
Tuy nhiên, hiện nay, các khu nghỉ 
dưỡng cao cấp và trung cấp chỉ mới có 
một số khách sạn, resort 3-4 sao, chỉ đáp 
ứng được một số nhu cầu của khách, chất 
lượng dịch vụ còn kém, quy mô nhỏ và 
chất lượng bãi biển vẫn chưa tốt. Khu 
nghỉ dưỡng đại trà chưa có quy hoạch, 
phân vùng tập trung. 
- Phát triển nhóm SPDL tham quan 
sinh thái, nghiên cứu khoa học, xem 
chim, xem động vật hoang dã trên cạn, 
xem dugong, cá heo, đồi mồi, lặn biển 
ngắm san hô và sinh vật biển: Các sản 
phẩm này được quy hoạch không gian tại 
các phân khu chức năng Vườn Quốc gia 
Phú Quốc, Khu bảo tồn động vật hoang 
dã trên đảo phía Bắc Phú Quốc, Vườn 
Quốc gia U Minh Thượng; lặn biển ngắm 
san hô và sinh vật biển ở quần đảo An 
Thới (Phú Quốc), quần đảo Hải Tặc (Hà 
Tiên) và quần đảo Bà Lụa (Kiên Lương). 
Sản phẩm tích hợp các hoạt động tham 
quan, tìm hiểu, nghiên cứu khoa học, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 5(83) năm 2016 
____________________________________________________________________________________________________________ 
142 
quan sát thực vật, côn trùng, các loài 
động vật hoang dã; xem chim, chụp ảnh, 
ghi âm; đi tàu xem dugong, cá heo, đồi 
mồi; tổ chức các hoạt động lặn 
snorkeling ngắm san hô và sinh vật biển. 
Khách du lịch là các nhà khoa học, các 
nhà nghiên cứu, những người yêu thích 
thiên nhiên biển đảo, học sinh, sinh viên 
Việt Nam (TPHCM, các tỉnh đồng bằng 
sông Cửu Long) và những người đến từ 
Anh, Pháp, Đức, Mĩ, Australia, Nhật 
Thời gian lưu trú thường từ 3-7 ngày. 
Hiện nay đã thu hút khoảng 35.000 lượt 
khách/năm 
Tuy nhiên, sản phẩm này vẫn còn 
rất hạn chế do cơ chế đóng cửa rừng và 
các khu bảo tồn biển. Tính chuyên nghiệp 
trong tổ chức chưa cao, số lượng khách 
ít. Đặc biệt, độ đục của nước biển do phù 
sa đổ ra từ các công trình thoát lũ ra biển 
Tây đang gây nhiễm đục trên diện rộng 
nước biển làm hạn chế việc tổ chức môn 
lặn biển. 
- Phát triển nhóm SPDL câu cá giải 
trí, thể thao biển, thể thao mạo hiểm, du 
lịch xe đạp và tắm suối: Sản phẩm được 
phân bổ không gian phát triển tại Phú 
Quốc, Kiên Lương, Nam Du (Kiên Hải), 
Rạch Giá, Hà Tiên và Vườn Quốc gia U 
Minh Thượng. Tổ chức các hoạt động 
đánh cá, câu cá, câu mực đêm, thưởng 
thức các món hải sản tại chỗ; chơi các 
môn thể thao biển như bơi lội, lướt ván, 
lướt ván có buồm, lướt sóng có cano kéo, 
dù lượn cano kéo, jet-ski; thể thao mạo 
hiểm gồm các môn trekking, đi bộ leo 
núi, leo vách đá, thám hiểm hang động, 
đạp xe địa hình; đi xe đạp ngắm cảnh giải 
trí, rèn thể lực; tắm suối và thư giãn bên 
bờ suối... Phần lớn du khách là người trẻ 
tuổi Việt Nam và khách quốc tế. Sức 
chứa: 50.000-70.000 lượt khách/năm. 
Các doanh nghiệp lữ hành ở Phú Quốc, 
Rạch Giá, Hà Tiên đã tổ chức các tour du 
lịch này, thu hút khoảng 45.000 lượt 
khách/năm. 
Tuy nhiên, việc phân bổ không gian 
biển cho SPDL này chưa ổn định, số 
lượng khách không đều, quy mô còn nhỏ, 
đầu tư thấp, ít khách. 
- Phát triển nhóm SPDL tham quan 
danh thắng cảnh, di tích LS-VH, di tích 
truyền thống cách mạng, tham quan hệ 
sinh thái karst giao thoa biển và đồng 
bằng, du ngoạn bằng tàu tham quan đảo, 
sông, tham quan các làng nghề, trang 
trại..: Phân bổ không gian dọc theo dải 
ven biển từ cửa khẩu Xà Xía (Hà Tiên) – 
Rạch Tiểu Dừa (An Minh) và toàn vùng 
hải đảo Phú Quốc và Kiên Hải. Tích hợp 
tham quan di tích, danh thắng, các làng 
nghề, trang trại; thuê tàu ra thăm các đảo 
nhỏ, quần đảo; tham quan trên sông; trải 
nghiệm, nghiên cứu trao đổi về sản xuất, 
nghỉ ngơi, mua sắm sản phẩm ở các trang 
trại ngọc trai, trang trại chó, trồng hồ 
tiêu, điều, cây ăn trái Khách du lịch 
gồm khách quốc tế và nội địa, sức chứa 
không hạn chế. Sản phẩm này thu hút 
khoảng 3.500.000 lượt khách/năm. 
Tuy nhiên, các SPDL này vẫn còn 
nhiều hạn chế, hoạt động tham quan hoàn 
toàn tự phát, tự tổ chức, ít có nhu cầu lưu 
trú, các làng nghề chưa sẵn sàng đón 
khách, thiếu cảng du lịch cho hoạt động 
du ngoạn bằng tàu. 
- Phát triển nhóm SPDL hội nghị, du 
lịch tín ngưỡng - tâm linh, lễ hội, spa, du 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Văn Quang 
____________________________________________________________________________________________________________ 
143 
lịch ẩm thực, du lịch mua sắm, du lịch 
cửa khẩu, du lịch trung chuyển: Phân bổ 
không gian phát triển dọc theo dải ven 
biển từ cửa khẩu Xà Xía (Hà Tiên) đến 
Rạch Tiểu Dừa (An Minh) và trên toàn 
vùng hải đảo. Sản phẩm này góp phần 
làm phong phú thêm SPDL biển đảo, sức 
chứa không giới hạn. Hiện thu hút gần 
1.350.000 lượt khách/năm. Khách tập 
trung nhiều nhất vào các dịp lễ hội của 
địa phương, những ngày nghỉ lễ. 
Tuy nhiên, nhóm sản phẩm này về 
quy mô và điều kiện cơ sở vật chất còn 
hạn chế, chất lượng dịch vụ thấp, vẫn còn 
nhiều hiện tượng “chặt chém” du khách, 
nhất là vào những thời điểm “nóng”. 
3.4. Một số giải pháp nâng cao hiệu 
quả ứng dụng QHKGB vào phát triển 
SPDL ở Kiên Giang 
Ứng dụng QHKGB vào phát triển 
SPDL biển đảo của Tỉnh cần thực hiện 
đồng bộ các giải pháp sau: 
Cần phải khẩn trương đầu tư nhân 
lực, vật lực để thực hiện nghiên cứu, điều 
tra, khảo sát, thu thập đầy đủ thông tin, 
chính xác và khoa học về không gian 
biển, nhất là tìm hiểu đặc thù về tài 
nguyên du lịch, thị trường, các SPDL 
hiện có, tình hình hệ thống kết cấu hạ 
tầng, các hoạt động KT-XH gắn với 
biển. Trên cơ sở đó, xác định ranh giới 
các đơn vị không gian biển nào thì xây 
dựng loại hình du lịch nào. Phân bổ 
không gian biển để bảo tồn, phục hồi các 
đối tượng thu hút du khách. Cần xây 
dựng thêm những công trình, dự án để hỗ 
trợ khai thác hiệu quả tiềm năng du lịch. 
Xây dựng các kế hoạch ứng phó có thể 
xảy ra trên biển. Xác định các hoạt động 
tương thích với du lịch để liên kết, kết 
hợp để cùng phát triển. Phối hợp giải 
quyết tốt những mâu thuẫn, xung đột 
trong sử dụng không gian biển của ngành 
du lịch. Thực hiện giải pháp này phải có 
sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước và 
doanh nghiệp, trong đó Nhà nước phải 
đóng vai trò chủ đạo. 
Đẩy mạnh ứng dụng QHKGB vào 
phát triển SPDL biển đảo theo một số 
bước sau: 1) Xác định các nhu cầu sử 
dụng không gian biển cho xây dựng 
SPDL và thành lập bộ máy thực hiện; 2) 
Huy động tốt nguồn vốn cho đầu tư du 
lịch; 3) Tổ chức tham gia cho các bên 
liên quan vào xây dựng sản phẩm; 4) 
Tiến hành các quá trình trước khi xây 
dựng sản phẩm du lịch như: đào tạo 
nguồn nhân lực, tập huấn, soạn thảo các 
văn bản dự án xây dựng SPDL biển 
đảo...); 5) Xác định và phân tích tình hình 
hiện tại; 6) Xác định và phân tích tình 
hình trong tương lai; 7) Thẩm định và ra 
quyết định phê duyệt dự án xây dựng 
SPDL biển đảo; 8) Thực hiện đầu tư xây 
dựng SPDL biển đảo; 9) Giám sát và 
đánh giá hoạt động xây dựng; 10) Điều 
chỉnh, hoàn thiện SPDL biển đảo. 
Phải thử nghiệm sản phẩm trước 
khi đưa sản phẩm vào khai thác chính 
thức. Phân tích hiệu quả khai thác sản 
phẩm. Trên cơ sở đó, tiếp tục hoàn thiện 
sản phẩm, đẩy mạnh giới thiệu, quảng bá 
SPDL biển đảo Kiên Giang để thu hút du 
khách; mở rộng liên kết giữa các doanh 
nghiệp, các đối tác trong nước và quốc tế, 
nhất là các công ti lữ hành để tạo nguồn 
khách trong nước và quốc tế. Vì SPDL 
Kiên Giang gắn với biển nên phải chú 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 5(83) năm 2016 
____________________________________________________________________________________________________________ 
144 
trọng theo dõi thông tin về biển bằng các 
loại công nghệ mới, hiện đại như: công 
nghệ cảm biến từ xa, công nghệ định vị, 
công nghệ theo dõi... Thu thập đầy đủ và 
chính xác thông tin cho việc ra quyết 
định quản lí, ứng phó với những tình 
huống có thể xảy ra trên biển. Kết hợp 
phát triển du lịch biển đảo với thủy sản, 
gắn phát triển du lịch với quốc phòng an 
ninh vì chúng tương thích. 
Tăng cường bảo vệ tài nguyên và 
môi trường du lịch. Cần đẩy mạnh công 
tác giáo dục môi trường để nâng cao 
nhận thức của du khách, doanh nghiệp và 
người dân địa phương về ý thức bảo vệ 
tài nguyên và môi trường du lịch biển 
đảo; đầu tư trang thiết bị để thu gom và 
xử lí chất thải ở các khu du lịch, luôn có 
kế hoạch ứng phó với sự cố tràn dầu; 
đảm bảo nguyên tắc phát triển SPDL biển 
đảo bền vững với 3 mục tiêu: kinh tế - xã 
hội - môi trường. 
Tập trung phát triển du lịch biển 
đảo trở thành ngành kinh tế mũi nhọn 
phải đảm bảo môi trường biển trong lành, 
nhưng hiện nay nước biển đang bị nhiễm 
đục trên diện rộng do phù sa đổ từ các 
công trình thoát lũ ra biển Tây. Vì vậy, 
cần phải có đề tài nghiên cứu để xử lí vấn 
đề này nhằm bảo vệ độ trong sạch của 
nước biển. 
Nhà nước cần phải có chính sách 
đầu tư và hỗ trợ tài chính cho việc 
nghiên cứu, tập huấn, đào tạo nguồn nhân 
lực cho phát triển SPDL biển đảo trên địa 
bàn. Hỗ trợ ứng dụng khoa học - công 
nghệ, kinh nghiệm QHKGB vào phát 
triển du lịch. 
Kiến nghị Nhà nước nghiên cứu áp 
dụng cơ chế chính sách đặc thù cho một 
số vùng ven biển và hải đảo như đã từng 
áp dụng cho Phú Quốc, để đánh thức 
tiềm năng du lịch biển đảo của Tỉnh. 
4. Kết luận 
Kiên Giang có nguồn tài nguyên du 
lịch phong phú, đa dạng. Đây là nền tảng 
quan trọng để phát triển hệ thống SPDL 
chất lượng cao với những SPDL đặc thù, 
SPDL chính hấp dẫn không chỉ trong 
vùng mà còn trong cả nước và quốc tế. 
Du lịch đã được xác định là ngành kinh tế 
mũi nhọn trong chiến lược phát triển KT-
XH của tỉnh. QHKGB là phương pháp 
quản lí rất phù hợp với phát triển SPDL 
theo hướng bền vững. Kết quả ứng dụng 
QHKGB vào xây dựng SPDL biển đảo ở 
Kiên Giang những năm vừa qua đã đạt 
được một một số thành tựu đáng kể, hệ 
thống kết cấu hạ tầng KT-XH đã được 
xây dựng, hoàn chỉnh, cơ sở vật chất - kĩ 
thuật du lịch có bước phát triển mới, hệ 
thống SPDL khá phong phú, đa dạng, thu 
hút ngày càng nhiều du khách, góp phần 
quan trọng vào phát triển KT-XH của địa 
phương. 
Tuy nhiên, việc ứng dụng QHKGB 
vào phát triển SPDL biển đảo của Tỉnh 
vẫn chưa được quan tâm thực hiện đầy 
đủ, đồng bộ. SPDL của Tỉnh chưa thật sự 
phong phú và chưa có sức cạnh tranh cao, 
hệ thống các SPDL vẫn chưa hoàn chỉnh. 
Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến vị 
thế cũng như sức hấp dẫn của du lịch 
Kiên Giang. Hạn chế, yếu kém này đòi 
hỏi cần phải tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng 
QHKGB vào phát triển SPDL biển đảo 
của Tỉnh. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Văn Quang 
____________________________________________________________________________________________________________ 
145 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Chu Hồi và nnk (2013), Kỉ yếu Hội thảo Áp dụng Quy hoạch Không gian 
biển và Vùng bờ ở Việt Nam - Cách tiếp cận Quản lí dựa vào hệ sinh thái. Gland, 
Thụy Sĩ: IUCN. 
2. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Kiên Giang (2015), Báo cáo số liệu thống kê du 
lịch Kiên Giang 2011-2015, Kiên Giang. 
3. UBND tỉnh Kiên Giang (2010-2015), Tình hình kinh tế – xã hội và kế hoạch phát 
triển năm 2010-2015, Kiên Giang. 
4. UBND tỉnh Kiên Giang (2015), Kỉ yếu Hội thảo Định hướng và giải pháp phát triển 
kinh tế biển Kiên Giang, Kiên Giang. 
5. Viện Du lịch bền vững Việt Nam (2013), Chiến lược phát triển sản phẩm du lịch 
Kiên Giang đến năm 2020, Hà Nội. 
6. Douvere, F., Ehler, C. (2009), Ecosystem-Based Marine Spatial Management: An 
Evolving Paradigm for the Management of Coastal and Marine Places. Volume 
23, 2009, Ocean Yearbook, Canada, p1-27. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 13-8-2015; ngày phản biện đánh giá: 05-01-2016; 
ngày chấp nhận đăng: 21-5-2016) 

File đính kèm:

  • pdfung_dung_quy_hoach_khong_gian_bien_vao_phat_trien_san_pham_d.pdf