Tỷ lệ carcinôm xâm nhập trên nhóm bệnh nhân có kết quả sinh thiết bướu vú là carcinôm tại chỗ
Giới thiệu: Nhiều trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán là carcinôm ống tuyến vú tại chỗ (DCIS) qua sinh thiết một phần chuyển thành carcinôm xâm nhập (IBC) sau đoạn nhũ. Thật vậy, nhiều nghiên cứu đã cho thấy có khoảng 20-45 % trường hợp được chẩn đoán DCIS qua sinh thiết chuyển thành IBC sau đoạn nhũ, các nghiên cứu này cũng đã phân tích và đưa ra nhiều yếu tố giúp tiên đoán nguy cơ này. Mục đích của nghiên cứu chúng tôi là để tìm ra tỷ lệ chẩn đoán chưa đúng mức một tổn thương vú DCIS. Đồng thời tìm ra các yếu tố về lâm sàng và hình ảnh học và mô học giúp tiên đoán nguy cơ này. Phương pháp: Hồi cứu 173 trường haợp được chẩn đoán là DCIS qua sinh thiết tại Khoa Ngoại 4, BV Ung Bướu Tp HCM từ tháng 1/1/2013 đến 4/2017. Từ đó, tìm ra tỷ lệ chuyển thành IBC sau đoạn nhũ. Phân tích đơn biến và đa biến để tìm ra các yếu tố giúp tiên đoán nguy cơ xâm nhập này. Kết quả: Tuổi trung bình là 49,1 tuổi, kích thước bướu trung bình là 24mm, với đa số các trường hợp sờ được bướu trên lâm sàng (trên 95%). Tỷ lệ chuyển thành IBC sau đoạn nhũ là 22%. Các yếu tố có ý nghĩa độc lập trong tiên đoán nguy cơ xâm nhập là cách thức sinh thiết lõi kim và độ BI-RADS 4,5 trên siêu âm. Kết luận: Tỷ lệ chẩn đoán chưa đúng mức bướu vú DCIS là 22%. Các yếu tố giúp tiên đoán nguy cơ chẩn đoán chưa đúng mức này là cách thức sinh thiết lõi kim và độ BI-RAD 4,5 trên SA. Vai trò của sinh thiết lần hai và sinh thiết hạch lính gác được đặt ra trong tình huống này
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ carcinôm xâm nhập trên nhóm bệnh nhân có kết quả sinh thiết bướu vú là carcinôm tại chỗ
VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 287 TỶ LỆ CARCINÔM XÂM NHẬP TRÊN NHÓM BỆNH NHÂN CÓ KẾT QUẢ SINH THIẾT BƯỚU VÚ LÀ CARCINÔM TẠI CHỖ TRẦN VĔN THIỆP1, TRẦN TRỌNG HỮU2, TRẦN VIỆT THẾ PHƯƠNG3, NGUYỄN ANH LUÂN4 LÊ HOÀNG CHƯƠNG5, NGUYỄN ĐỖ THÙY GIANG5, PHẠM THIÊN HƯƠNG5, TRẦN THỊ YẾN UYÊN5,NGUYỄN VĔN THỪA5, TRƯƠNG CÔNG GIA THUẬN5, NGUYỄN HỒNG PHÚC5, PHẠM HUỲNH ANH TUẤN5, HỒ HOÀI NAM5 TÓM TẮT Giới thiệu: Nhiều trường hợp bệnh nhân được chẩn đoán là carcinôm ống tuyến vú tại chỗ (DCIS) qua sinh thiết một phần chuyển thành carcinôm xâm nhập (IBC) sau đoạn nhũ. Thật vậy, nhiều nghiên cứu đã cho thấy có khoảng 20-45 % trường hợp được chẩn đoán DCIS qua sinh thiết chuyển thành IBC sau đoạn nhũ, các nghiên cứu này cũng đã phân tích và đưa ra nhiều yếu tố giúp tiên đoán nguy cơ này. Mục đích của nghiên cứu chúng tôi là để tìm ra tỷ lệ chẩn đoán chưa đúng mức một tổn thương vú DCIS. Đồng thời tìm ra các yếu tố về lâm sàng và hình ảnh học và mô học giúp tiên đoán nguy cơ này. Phương pháp: Hồi cứu 173 trường hợp được chẩn đoán là DCIS qua sinh thiết tại Khoa Ngoại 4, BV Ung Bướu Tp HCM từ tháng 1/1/2013 đến 4/2017. Từ đó, tìm ra tỷ lệ chuyển thành IBC sau đoạn nhũ. Phân tích đơn biến và đa biến để tìm ra các yếu tố giúp tiên đoán nguy cơ xâm nhập này. Kết quả: Tuổi trung bình là 49,1 tuổi, kích thước bướu trung bình là 24mm, với đa số các trường hợp sờ được bướu trên lâm sàng (trên 95%). Tỷ lệ chuyển thành IBC sau đoạn nhũ là 22%. Các yếu tố có ý nghĩa độc lập trong tiên đoán nguy cơ xâm nhập là cách thức sinh thiết lõi kim và độ BI-RADS 4,5 trên siêu âm. Kết luận: Tỷ lệ chẩn đoán chưa đúng mức bướu vú DCIS là 22%. Các yếu tố giúp tiên đoán nguy cơ chẩn đoán chưa đúng mức này là cách thức sinh thiết lõi kim và độ BI-RAD 4,5 trên SA. Vai trò của sinh thiết lần hai và sinh thiết hạch lính gác được đặt ra trong tình huống này. SUMMARY Background: Some patients who are initially diagnosed with ductal carcinoma in situ (DCIS) by partial biopsy eventually have their disease upstaged to invasive breast carcinoma (IBC) on final excision. Actually, there are many studies showed that underestimation rate of invasion from 20 to 45% and this showed some factors can help predict risk of invasion. Purpose of our study will show the underestimation rate of invasion on patients group who are initially diagnosed with DCIS and finding significant factors can help predict this risk of invasion. Methods: The records of 173 patients initially diagnosed with DCIS by partial biopsy from January 2013 to April 2017 were retrospectively reviewed. From there, finding rate upstaged to invasion carcinoma on final excision. Then, univariate and multivariate analysis can find significant factors which can help predict risk of invasion. Results: Median age is 49, in there, younger than 40 group is about 60%. Median size is 24mm. Almost cases is palpable lesions (over 95%). Rate upstaged to invasive carcinoma on final excision is about 22%. Univariate analysis finds 3 useful factors which help predict of invasion: score needle biopsy (p<0.001), lesions size is over than 20mm (p=0.004) and ultrasound BI-RADS score is 4 or 5 (p<0.001). Multivariate analysis finds 2 independent factors which help predict of invasion: score needle biopsy (p<0.0001) and ultrasound BI-RADS 1 PGS.TS. Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM - Bộ môn Ung thư Đại học Y Dược TP.HCM 2 BS. Bệnh viện Ung Bướu TP. Cần Thơ 3 TS.BS. Phó Trưởng Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 4 BSCKII. Trưởng Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM 5 BS. Khoa Ngoại 4 - Bệnh viện Ung Bướu TP.HCM VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 288 score is 4 or 5 (p=0.01). Conclusion: DCIS underestimation rate is 22%. This rate is related to diagnosed methods (score needle biopsy) and high ultrasound BI-RADS score (4 or 5). In this cases, the role of second time biopsy or sentinel lymph node biopsy should be discussed. Keywords: sinh thiết lõi kim, chẩn đoán chưa đúng mức, carcinôm ống tuyến vú tại chỗ, DCIS (Ductal carcinoma In Situ), IBC (invasive breast carcinoma), underestimation, score needle biopsy. ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư vú là bệnh lý ác tính thường gặp nhất ở phụ nữ. Theo Globocan 2012, ước lượng có khoảng 1,67 triệu ca ung thư vú mới mắc, chiếm 25% trong tổng số bệnh ung thư. Trong đó, DCIS chiếm tỷ lệ ngày càng nhiều, khoảng 20% các trường hợp (TH) mới chẩn đoán tương đương khoảng 50 000 ca mới mắc mỗi nĕm tại Mỹ. DCIS là dạng ung thư vú tiền xâm nhập, rất hiếm khi cho di cĕn hạch nách với tỷ lệ chỉ 1-2%. Tuy nhiên, một số TH được chẩn đoán ban đầu qua sinh thiết (ST) một phần là DCIS, sau khi đoạn nhũ lại cho kết quả mô học là IBC, ở nhóm này cần thiết phải khảo sát hạch nách di cĕn. Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trên thế giới cho thấy rằng có khoảng từ 20-45% TH được chẩn đoán là DCIS qua ST ban đầu chuyển thành IBC sau đoạn nhũ. Các nghiên cứu này cũng nêu lên nhiều yếu tố về lâm sàng, hình ảnh học, mô học để giúp tiên đoán nguy cơ xâm nhập này. Đó là các yếu tố về tuổi, kích thước (KT) bướu, độ BI-RADS cao, độ mô học cao, tình trạng hoại tử bã khô hay phương thức ST Tuy nhiên chưa có sự thống nhất giữa các nghiên cứu. Tại Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu phân tích các yếu tố tiên đoán này. Do đó, chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này với 2 mục tiêu: Khảo sát tỷ lệ chuyển thành IBC sau đoạn nhũ ở nhóm bệnh nhân có kết quả ST bướu vú là DCIS. Khảo sát các yếu tố giúp tiên đoán nguy cơ xâm nhập sau đoạn nhũ khi kết quả ST ban đầu là DCIS. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU -Tiêu chuẩn chọn mẫu: tất cả các TH được chẩn đoán là DCIS qua ST một phần (ST mở hoặc ST lõi kim) và được phẫu thuật đoạn nhũ sau đó tại Khoa Ngoại 4, BV Ung Bướu Tp HCM từ tháng 1/2013 đến tháng 4/2017. Các TH có đầy đủ thông tin cần thiết về lâm sàng, hình ảnh học và mô bệnh học. T ... m (42,2%). Do đó, phương thức ST lõi kim là một yếu tố quan trọng trong tiên đoán nguy cơ xâm nhập của một bướu vú được chẩn đoán là DCIS qua ST. CÁC YẾU TỐ TIÊN ĐOÁN NGUY CƠ CHẨN ĐOÁN CHƯA ĐÚNG MỨC PHÂN TÍCH ĐƠN BIẾN: Bảng 2: Các yếu tố về lâm sàng và mô học tiên đoán nguy cơ chẩn đoán chưa đúng mức Đặc điểm tại chỗ xâm nhập p Tuổi >55 45 (85) 8(15) 0,1 </=55 90 (75) 30 (25) Sờ chạm được u trên LS Có 124 (77,5) 36 (22,5) 0,5 Không 11 2 (15,4) Cách ST ST mở 92 (92) 8 (8) <0,001 ST lõi kim 43 (57,8) 30 (42,2) Số mẫu ST lõi kim >=4 20 (66,7) 10 (33,3) 0,3 <4 23 (53,5) 20 (46,5) KT bướu trên LS >=2cm 91 (73,4) 33 (26,6) 0,02 <2cm 44 (89,8) 5 (10,2) ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC Độ mô học Độ 1 40 (74) 14 (26) 0,7 Độ 2 53 (80,3) 13 (19,7) Độ 3 42 (79,3) 11 (20,7) Hoại tử bã khô Có 9 (100) 0 (0) 0,1 Không 126 (76,8) 38 (23,2) Bảng 3: Vai trò các yếu tố hình ảnh học trong tiên đoán nguy cơ CĐ chưa đúng mức Đặc điểm Tại chỗ Xâm nhập p -Tổn thương trên SA Có 131 (78) 37 (22) 0,9 Không 4 (80) 1 (20) -KTtrên SA VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 290 >=20mm 64 (69,6) 28 (30,4) 0,004 <20mm 67 (88,2) 9 (11,8) -Độ BI-RADS/ SA Độ 4 và 5 89 (73) 33 (27) <0,001 Khác 47 (92,2) 4 (7,8) -Vi vôi hóa Có 46 (70,8) 19 (29,2) 0,07 Không 85 (82,5) 18 (17,5) -Tổn thương trên NA Có 130 (77,8) 37 (22,2) 0,8 Không 5 (83,3) 1 (16,7) -Loại tổn thương/ NA Khối 51 (82,3) 11 (17,7) 0,3 Khác 79 (75,2) 26 (24,8) -Độ BI-RADS/ NA BI-RADS 4 và 5 101 (76,5) 31 (23,5) 0,5 Khác 34 (82,9) 7 (17,1) -KT bướu trên NA >/=20mm 36 (94,7) 2 (5,3) 0,005 0<20mm 99 (73,3) 36 (26,7) Qua phân tích đơn biến, các yếu tố cho thấy có ý nghĩa thống kê giúp tiên đoán nguy cơ chẩn đoán chưa đúng mức một bướu vú DCIS. Đó là yếu tố ST lõi kim (p<0,001), độ BI-RADS 4 và 5 trên SA (p<0,001), KT bướu từ 2cm trở lên trên hình ảnh học (p=0,005). Một số yếu tố khác như độ mô học, tạo khối trên NA, BI-RADS cao trên NA, vi vôi hóa không cho thấy có ý nghĩa thống kê giúp tiên đoán nguy cơ chẩn đoán chưa đúng mức này với p>0,05. PHÂN TÍCH ĐA BIẾN: Bảng 4: Phân tích đa biến các yếu tố tiên đoán nguy cơ chẩn đoán chưa đúng mức: Đặc điểm ß co- OR P ST lõi kim 0,04 5,3 <0,0001 BI-RADS 4 và 5/ SA 0,02 3,5 0,01 KT >/=20mm/ SA 0,02 2,6 0,09 KT >/=20mm/ NA -0,01 5 0,2 Qua phân tích đơn biến, có 3 yếu tố cho thấy có ý nghĩa thống kê giúp tiên đoán nguy cơ chẩn đoán chưa đúng mức một bướu vú DCIS. Đó là các yếu tố: ST bằng lõi kim, độ BI-RADS 4,5 trên SA và KT bướu vú trên hình ảnh học. Tuy nhiên khi phân tích đa biến chỉ tìm được 2 yếu tố có ý nghĩa độc lập giúp tiên đoán nguy cơ xâm nhập, đó là ST bằng lõi kim và độ BI-RADS 4 và 5 trên SA. KT bướu không có ý nghĩa độc lập trong tiên đoán nguy cơ này. BÀN LUẬN Đặc điểm nhóm nghiên cứu Độ tuổi trong mẫu nghiên cứu chúng tôi trung bình là 49 tuổi, với nhóm nhỏ hơn 40 tuổi chiếm tỷ lệ 60%, nhỏ hơn so với các nghiên cứu khác. Theo NC của tác giả Yen[13] thì tuổi trung bình là 55,5, hay theo phân tích gộp của Brennan[9] thì tuổi trung bình là 55. Tuổi càng trẻ, mô vú dày sẽ ảnh hưởng đến khả nĕng phát hiện được các bướu vú đặc biệt là các bướu nhỏ. Tuy nhiên, trong NC này, đa số các TH đến khám khi bệnh nhân đã tự sờ được khối bướu trên vú. Vì vậy, trên 90% các TH là sờ được bướu trên lâm sàng cũng như phát hiện được qua các phương tiện chẩn đoán hình ảnh. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với nhiều NC khác. Theo NC của tác giả Yen tại TT Ung thư Anderson (Mỹ), tỷ lệ sờ chạm được bướu trên lâm sàng chỉ chiếm 14%. Hay theo NC của tác giả Brennan, tỷ lệ sờ chạm được bướu chỉ chiếm 8%. Theo tác giả Doebar[12], SA phát hiện được bướu chiếm 48%, NA phát hiện bướu chiếm 90%. Qua đây cho thấy rằng NA có độ nhạy cao hơn so với SA trong khảo sát các bướu vú nhỏ. Mặt khác, do đặc điểm tuyến vú của phụ nữ Việt Nam có VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 291 thể tích thường nhỏ hơn so với phụ nữ Âu Mỹ, nên khả nĕng phát hiện được bướu vú cũng dễ dàng hơn. KT bướu vú trung bình trong NC chúng tôi lớn hơn so với nhiều NC khác. Theo NC của tác giả Doebar[12], KT trung bình của bướu vú là 16mm trên NA và 10mm trên SA. Trong NC này, bướu vú được ST bằng 1 trong 2 cách là ST mở và ST lõi kim, ST lõi kim vú được thực hiện từ những nĕm 2013 tại Bệnh viện Ung Bướu Tp HCM. Đây là phương pháp ít xâm lấn đang được thực hiện rộng rãi và đã được chứng minh có hiệu quả trong chẩn đoán các bướu vú. Trong NC chúng tôi, sử dụng súng ST tự động, kim 14G dưới hướng dẫn SA, số mẫu ST từ 4 mẫu trở lên chỉ chiếm 41%. Theo nhiều NC ở Châu Âu hay Mỹ, ngoài sử dụng kim 14G, một số TH được ST bằng kim 11 G kết hợp với hút chân không (VAB), số mẫu ST từ 5 mẫu trở lên chiếm tỷ lệ cao hơn, như theo tác giả Park[11] là 54% hay theo tác giả Chan và Lim[10] tỷ lệ này là 91%. Tỷ lệ IBC sau đoạn nhũ Bảng 5: So sánh tỷ lệ IBC sau đoạn nhũ của các NC Nghiên cứu Cách ST Tỷ lệ xâm nhập (%) Trần Vĕn Thiệp (n=160) ST mở 10,7 ST lõi kim 14G 45,5 Yen (n=398) ST mở 10 ST lõi kim 11 G và 14 G 25,4 Park (n=69) ST lõi kim 14 G 30,4 Dillon (n=73) ST lõi kim 14 G 42 Lee (n= 201) ST lõi kim 14 G 54,5 Brennan (n=7350) ST lõi kim 14 G 30,3 NC này (n=173) ST mở 8 ST lõi kim 14 G 42,2 ST mở: Mẫu mô lớn, đại diện được cho bướu vú. Do đó, tỷ lệ chẩn đoán chưa đúng mức thấp. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ở nhóm ST mở tương tự như nghiên cứu của tác giả Trần Vĕn Thiệp hay NC của tác giả Yen với tỷ lệ chẩn đoán chưa đúng mức bướu DCIS dao động từ 8-10%. ST lõi kim: Mẫu mô thường nhỏ hơn ST mở, thường không đại diện được cho bướu vú, đặc biệt là những bướu vú nhỏ (nhỏ hơn 1,5cm), các bướu vú tĕng sản ống tuyến vú không điển hình (ADH), hay các bướu nhú trong ống. ST lõi kim không giúp phân biệt được các tổn thương vú dạng ADH với DCIS, hay giữa DCIS và IBC. Do đó, tỷ lệ chẩn đoán chưa đúng mức bướu vú DCIS ở nhóm ST lõi kim cao hơn nhiều so với nhóm ST mở. Theo tác giả Liberman[15], số mẫu ST lõi kim thường phải trên 4 mẫu và mẫu mô không vỡ vụn sẽ cho độ đặc hiệu cao. Tuy nhiên trong NC chúng tôi, tỷ lệ số mẫu ST lõi kim trên từ 4 mẫu trở lên chỉ chiếm tỷ lệ 41%. Mặt khác, kỹ thuật ST lõi kim mới được triển khai thực hiện tại BV Ung Bướu Tp HCM từ những nĕm 2013. Do đó, tỷ lệ chẩn đoán chưa đúng mức nguy cơ xâm nhập của bướu DCIS trong NC chúng tôi cao hơn so với một số NC khác như theo tác giả Yen[13] thì tỷ lệ này là 25,4% hay kết quả phân tích gộp của tác giả Brennan[9] là 30,3%. Các yếu tố tiên đoán nguy cơ chẩn đoán chưa đúng mức Bảng 6: Các yếu tố tiên đoán nguy cơ chẩn đoán chưa đúng mức Nghiên cứu Yếu tố tiên đoán có ý nghĩa Yen (n=398) tuổi 4cm, grad 3, sờ chạm bướu trên LS Chan và Lim (n= 95) KT bướu trên NA>/=2cm, STLK <10 mẫu Dillon (n=73) Tổn thương dạng khối trên NA, KT bướu >/=5cm Edna May L Go (n= 157) KT bướu >2cm trên hình ảnh học, grad cao Lee (n=201) KT bướu >2cm/SA, tổn thương dạng khối/ NA, sờ chạm bướu trên LS Brennan (n=7350) STLK 14 G, grad 3, KT bướu >2cm trên hình ảnh học, BI-RADS 4, 5, TT dạng khối trên NA, sờ chạm bướu trên LS NC này (n=173) STLK 14 G, BI-RADS 4 và 5/ SA NC chúng tôi cho thấy 2 yếu tố có ý nghĩa trong tiên đoán nguy cơ xâm nhập, đó là yếu tố ST bằng lõi kim và độ BI-RADS 4 và 5/ SA. Kết quả này cũng tương đồng với kết quả của nhiều NC khác. Tuy nhiên, trong NC chúng tôi, yếu tố độ BI-RADS cao trên NA không cho thấy có ý nghĩa tiên đoán nguy cơ xâm nhập. Điều này được giải thích là do mẫu NC có độ tuổi trẻ, dưới 40 tuổi chiếm tỷ lệ cao, mô vú dày, khó khảo sát bướu vú qua NA hơn là SA. Tổn thương dạng khối trên NA cũng không có ý nghĩa tiên đoán do đa số TH trong NC chúng tôi có KT bướu lớn, đa số đã sờ được trên lâm sàng. Trong NC chúng tôi, tỷ lệ độ mô học độ 3 chiếm tỷ lệ khoảng 30%, thấp hơn khá nhiều so với nhiều NC khác như theo NC của tác giả Yen[292] thì tỷ lệ này là 50%, hay tác giả Brennan là 52%, và yếu tố này là một yếu tố có ý nghĩa độc lập giúp tiên đoán nguy cơ xâm nhập của bướu, tuy nhiên trong NC của chúng tôi không cho thấy điều đó. Yếu tố về KT bướu vú trên 2cm, qua phân tích đơn biến cho thấy có ý nghĩa trong tiên đoán VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 292 nguy cơ xâm nhập. Tuy nhiên, khi phân tích đa biến, yếu tố này không có ý nghĩa độc lập trong tiên đoán nguy cơ xâm nhập. Điều này được giải thích là do đa số các bướu vú nhỏ được chỉ định ST mở hơn là ST lõi kim. Mà như chúng ta đã biết ST mở cho tỷ lệ chẩn đoán chưa đúng mức thấp hơn nhiều so với ST lõi kim. HẠN CHẾ CỦA NGHIÊN CỨU DCIS phần lớn có KT nhỏ, thường khó sờ chạm được trên lâm sàng. Tuy nhiên, trong mẫu nghiên cứu này có rất ít TH có bướu vú nhỏ không sờ chạm. Tình trạng hoại tử bã khô trên giải phẫu bệnh chưa được đánh giá đầy đủ. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu 173 TH được chẩn đoán DCIS qua ST một phần tại khoa ngoại 4, BV Ung Bướu Tp HCM, chúng tối rút ra một số kết luận như sau: Tỷ lệ chuyển thành IBC sau đoạn nhũ là 22%. Trong đó, ở nhóm ST mở là 8% và ST lõi kim là 42,2%. Các yếu tố giúp tiên đoán nguy cơ chẩn đoán chưa đúng mức một bướu vú có kết quả ST một phần là DCIS bao gồm yếu tố về phương thức ST (ST lõi kim) và độ BI-RADS 4,5 trên SA. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. American College of Radiology (2013), Breast Imaging Reporting and Data system (Bi-rads), Bi-rads®- Mamography, fifth edition. 2. American College of Radiology (2103), Breast Imaging Reporting and Data System (Bi-rads), Bi-rads®-Ultrasound, fifth edition. 3. Chiara Trentin, Valeria D, Patrick M, Simona M & cs (2012), “Predictors of invasive breast cancer and lymph node involvement in ductal carcinoma in situ initially diagnosed by vacuum- assisted breast biosy: Experience of 733 cases”, The breast, 21, 635 - 640. 4. Christine Tunon-de-Lara, Marie PC, Marie CB & cs (2015), “The role of sentinel lymph node biopsy and factors associated with invasion in extensive DCIS of the breast treated by mastectomy: the cinnamome prospective multicenter study”, Annals of surgical oncology, 22, 3853 - 3860. 5. Emil D. Kurniawan, Allison Rose, Arlene Mou & cs (2010), “Risk factors for invasive breast cancer when core needle biopsy shows ductal carcinoma in situ”, Arch Surg, 145(11), 1098- 1104. 6. Gustavo MB, Decio RJ, Sebastiao Pitao, Eduardo de F. CF & cs (2016) “Diagnostic underestimation of atypical ductal hyperplasia and ductal carcinoma in situ at percutaneous core needle and vacuum-assisted biopsies of the breast in a Brazillian reference institution”, Radiol Bras, 49 (1), 6-11. 7. Laura L (2000), “Clinical management issues in percutaneous core breast biopsy”, Radiologic clinics of North America, 38(4), 791-807. 8. Lei Huo, Nour S, Kelly KH &cs (2006), “Predictors of invasion in patient with core- needle biopsy- diagnosed ductal carcinoma in situ and recommendations for a selective approach to sentinel lymph node biopsy in ductal carcinoma in situ”,Cancer, 107 (8), 1760-1768. 9. Meagan E. Brennan, Robin M. Turner, Stefano Ciatto & cs ( 2011) “Ductal carcinoma in situ at core - needle biopsy: meta - analysis of underestimation and predictors of invasive breast cancer”, Radiology, 2060(1), 119-128. 10. Mun Yew PC, Serene Lim (2010), “Predictors of invasive breast cancer in ductal carcinoma in situ initially diagnosed by core biopsy”, Asian Journal of Surgery, 33(2), 76-82. 11. Sung Hee Park, Min Jung Kim, Soo Jin Kim & cs (2014) “Ductal carcinoma in situ diagnosed using an ultralsound-guided 14 - gause core needle biopsy of breast masses: can underestimation be predicted preoperatively”, Ultrasonography, 33, 128 - 135. 12. S.C Doebar, C. de Monye, H. Stoop & cs (2016), “Ductal carcinoma in situ diagnosed by breast needle biopsy: Predictors of invasion in the excision specimen”, The breast, 27, 15 - 21. 13. Tina WF.Yen, Kelly .H, Merrick I R & cs (2005), “Predictors of Invasive Breast cancer in patients with an initial diagnosis of ductal carcinoma in situ: A guide to selective use of sentinel lymph node biopsy in management of ductal carcinoma in situ”, the American College of surgeons, 200(4), 516 - 526. 14. Gustavo Machado Badan, Decio Roveda Junior, Sebasstiao Piato & cs (2016), ”Diagnostic underestimation of atypical ductal hyperplasia and ductal carcinoma in situ at percutanous core needle and vaccuum-assited biopsies of the breast in a Brazilian reference institution”, Radio Bras, 49(1), 6-11. VÚ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 293 15. Liberman L (2000), “Centennial dissertation, Percutaneous imaging guided core breast biopsy: state of the art at the millennium”, AJR Am J Roentgenol, 174: 1191 - 1199. 16. Cowell CF, Wiegelt B, Sakr RA, Ng CK, Hicks J, King TA & cs (2013), “Progression from ductal carcinoma in situ to invasive breast cancer: revisited” Mol Oncol, 7: 859 - 69. 17. Bluff JE, Menakuru SR, Cross SS, Higham SE, Balasubramanian SP, Brown NJ & cs (2009), “Angiogenesis is associated with the onset of hyperplasia in human ductal breast disease”, Br J Cancer, 101: 666 - 72. 18. Oda G, Sato T, Ishikawa T, Kawachi H, Kawachi H, Nakagawa T, Kuwayama T & cs (2012), “Significance of stromal decorin expression during the progression of breast cancer”, Oncol Rep, 28: 2003 - 8. 19. Van Bockstal M, Lambein K, Gevaert O, De Wever O, Praet M, Cocquyt V & cs (2013), “Stromal architecture and periductal decorin are potential prognostic markers for ipsilateral locoregional recurrence in ductal carcinoma in situ of the breast”, Histopathology, 63: 520 - 33.
File đính kèm:
- ty_le_carcinom_xam_nhap_tren_nhom_benh_nhan_co_ket_qua_sinh.pdf