Tương quan xói lở - bồi tụ một số khu vực lòng sông Tiền, sông Hậu

Tài liệu nghiên cứu của một số tác giả [1, 4, 6,

8] cho thấy xói lở dọc sông Tiền, sông Hậu trong

vài chục năm qua xẩy ra với quy mô lớn và tần suất

cao. Các tài liệu này đưa ra các số liệu về cường độ

xói lở trung bình dựa vào khảo sát thực tế thời

điểm xẩy ra xói lở hoặc các cuộc điều tra dân cư

sống dọc bờ sông. Nguyên nhân, cơ chế và các giải

pháp nhằm phòng tránh, giảm thiểu xói lở tại các vị

trí xung yếu cũng đã được nhiều tác giả đề cập [4,

5, 7]. Một số đoạn bờ, nơi có các đô thị như Tân

Châu, Hồng Ngự, Sa Đéc đã và đang được kè bằng

bê tông kiên cố với nguồn kinh phí lên tới hàng

trăm tỷ đồng.

Bài báo này xem xét đồng thời sự kiện xói lở và

bồi tụ bằng việc đánh giá biến động diện tích xói -

bồi lòng sông tại từng khu vực trong khoảng thời

gian từ 20 đến 40 năm.

Tương quan xói lở - bồi tụ một số khu vực lòng sông Tiền, sông Hậu trang 1

Trang 1

Tương quan xói lở - bồi tụ một số khu vực lòng sông Tiền, sông Hậu trang 2

Trang 2

Tương quan xói lở - bồi tụ một số khu vực lòng sông Tiền, sông Hậu trang 3

Trang 3

Tương quan xói lở - bồi tụ một số khu vực lòng sông Tiền, sông Hậu trang 4

Trang 4

Tương quan xói lở - bồi tụ một số khu vực lòng sông Tiền, sông Hậu trang 5

Trang 5

Tương quan xói lở - bồi tụ một số khu vực lòng sông Tiền, sông Hậu trang 6

Trang 6

Tương quan xói lở - bồi tụ một số khu vực lòng sông Tiền, sông Hậu trang 7

Trang 7

Tương quan xói lở - bồi tụ một số khu vực lòng sông Tiền, sông Hậu trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 5800
Bạn đang xem tài liệu "Tương quan xói lở - bồi tụ một số khu vực lòng sông Tiền, sông Hậu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tương quan xói lở - bồi tụ một số khu vực lòng sông Tiền, sông Hậu

Tương quan xói lở - bồi tụ một số khu vực lòng sông Tiền, sông Hậu
 37
33(1), 37-44 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 3-2011 
TƯƠNG QUAN XÓI LỞ - BỒI TỤ MỘT SỐ KHU VỰC 
LÒNG SÔNG TIỀN, SÔNG HẬU 
HÀ QUANG HẢI, VƯƠNG THỊ MỸ TRINH 
E-mail: hqhai@hcmuns.edu.vn 
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - ĐHQG Tp. HCM 
Ngày nhận bài: 28-9-2010 
1. Giới thiệu 
Tài liệu nghiên cứu của một số tác giả [1, 4, 6, 
8] cho thấy xói lở dọc sông Tiền, sông Hậu trong 
vài chục năm qua xẩy ra với quy mô lớn và tần suất 
cao. Các tài liệu này đưa ra các số liệu về cường độ 
xói lở trung bình dựa vào khảo sát thực tế thời 
điểm xẩy ra xói lở hoặc các cuộc điều tra dân cư 
sống dọc bờ sông. Nguyên nhân, cơ chế và các giải 
pháp nhằm phòng tránh, giảm thiểu xói lở tại các vị 
trí xung yếu cũng đã được nhiều tác giả đề cập [4, 
5, 7]. Một số đoạn bờ, nơi có các đô thị như Tân 
Châu, Hồng Ngự, Sa Đéc đã và đang được kè bằng 
bê tông kiên cố với nguồn kinh phí lên tới hàng 
trăm tỷ đồng. 
Bài báo này xem xét đồng thời sự kiện xói lở và 
bồi tụ bằng việc đánh giá biến động diện tích xói - 
bồi lòng sông tại từng khu vực trong khoảng thời 
gian từ 20 đến 40 năm. 
2. Khu vực nghiên cứu 
Bốn khu vực nghiên cứu, nơi có hoạt động xói 
lở -bồi tụ diễn biến phức tạp gồm: 1) Tân Châu - 
Thường Phước; 2) Long Khánh - Hồng Ngự; 3) Sa 
Đéc; 4) Cù lao Ông Hổ - Long Xuyên (hình 1). 
Hình 1. Vị trí khu vực nghiên cứu 
Các dạng địa hình chính 
phân bố ở các khu vực này chủ 
yếu: đồng bằng ngập lụt, đê 
thiên nhiên, các doi cát ven, các 
doi cát giữa lòng, các lạch sâu 
và hố xoáy. 
3. Phương pháp nghiên cứu 
3.1. Phân tích bản đồ địa hình 
và tư liệu viễn thám 
Bản đồ tỷ lệ 1:50.000, hệ 
thống lưới chiếu UTM do quân 
đội Mỹ thành lập năm 1965-
1972 được sử dụng trong 
nghiên cứu này. Bản đồ được 
xây dựng trên cơ sở ảnh hàng 
không nên có độ chính xác khá 
cao. Các ảnh Landsat MSS năm 
1989, Landsat ETM+ năm 2001 
và 2008 được giải đoán và tích 
 38 
hợp với GIS để nghiên cứu biến động hình thái 
lòng sông(đường bờ và các bãi bồi). Bản đồ địa 
hình và ảnh vệ tinh cho phép phân tích cấu trúc 
tổng thể khu vực; phân loại các kiểu hình thái dòng 
chảy; biến động đường bờ (xói lở, bồi tụ); sự dịch 
chuyển các bãi cát ven và bãi cát giữa lòng; xác 
định sự phân bố thực vật ven sông [4, 8]. 
3.2. Đo đạc và khảo sát địa hình lòng sông 
Đo đạc địa hình lòng sông được thực hiện theo 
các mặt cắt ngang bằng máy đo hồi âm 
echosounder nối kết với hệ thống định vị toàn cầu 
(GPS). Các kết quả khảo sát địa hình tại bốn khu 
vực từ năm 1994 đến nay được sử dụng như là 
những tài liệu giám sát xói lở - bồi tụ diễn ra trong 
lòng sông. 
4. Tương quan xói lở - bồi tụ 
4.1. Khu vực Tân Châu - Thường Phước 
Sông Tiền chảy qua khu vực Tân Châu - 
Thường Phước từ biên giới với Campuchia đến 
mặt cắt ngang Tân Châu thuộc kiểu sông bện tết, 
lòng sông mở rộng, có những doi cát ven và các 
doi cát giữa lòng (đảo trôi). 
Bản đồ xói lở-bồi tụ đường bờ (hình 2) cho 
thấy xói lở xuất hiện dọc hai bờ sông. Phía bờ phải, 
vách xói lở kéo dài liên tục. Đoạn bờ xói lở phía 
tây kênh Vĩnh An dài tới 1,857km. Hiện đoạn bờ 
này đang được tiến hành kè bê tông, nối tiếp với 
đoạn bờ kè khu trung tâm thị trấn. Đoạn bờ bồi tụ 
chỉ hình thành ở phía bắc cửa Vàm Xáng. 
Đoạn bờ trái từ kinh Vĩnh Lạc đến cù lao ven 
Thường Phước 2 có sự ổn định tạm thời do được 
chắn bởi doi cát ven kéo dài theo bờ sông. Thời 
gian trước năm 2000 đoạn bờ này từng bị xói lở 
đáng kể. Dọc các doi cát ven ở Thường Phước 2 
xói lở cũng xẩy ra mạnh mẽ. Trong tương lai đoạn 
bờ được che chắn bởi các doi cát tạm thời này sẽ 
lại bị xâm thực. 
Trong khu vực này, các doi cát giữa lòng, doi 
cát ven di chuyển và biến đổi liên tục về hình dạng 
và kích thước. So với các doi cát năm 1989 (đường 
gạch đứt trên hình 2 và 3), các doi cát hiện tại khác 
rất nhiều về hình dạng và vị trí phân bố. Năm 
1989 doi cát Vĩnh Bường rộng 0,5km, dài năm 
1,75km; nay tồn tại ở đây doi cát rộng 1,2m, kéo 
dài tới 4,2km. 
Dựa vào vị trí đường bờ trên ảnh vệ tinh 
Landsat (1989 và 2008), sử dụng GIS xác định độ 
dài đoạn bờ xói lở - bồi tụ, khoanh định và tính 
diện tích xói lở và bồi tụ (hình 3, bảng 1, 2). 
Bảng 1. Xói lở-bồi tụ bờ khu vực Tân Châu - 
Thường Phước 
Đường 
bờ 
Dài 
(km) 
Xói lở 
(km) 
Bồi tụ 
(km) 
Tỷ lệ (xói) (bồi) (%) 
Phải 15,47 13,42 2,05 (87) (13) 
Trái 12,46 7,08 5,38 (57) (43) 
Chiều dài bờ xói lở chiếm ưu thế (57-87%). 
Tốc độ xói lở trung bình tại ấp Vĩnh Bường: 
1m/năm, tại mũi nhô phía nam Thường Phước 2: 
35,8m/năm. Diện tích xói lở lớn hơn bồi tụ 
207,54 ha. Xói lở trung bình (diện tích đất mất): 
35,65ha/năm; bồi tụ trung bình: 24,73ha/năm. 
Sự hình thành các doi cát dẫn đến sự dịch 
chuyển lạch sâu và sự đổi hướng dòng chảy ở từng 
đoạn sông diễn ra liên tục theo không gian và thời 
gian. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp gây xói lở 
bờ. Hình 2 giải thích các đoạn bờ sông ở khu vực ấp 
Vĩnh Bường, Vĩnh Khánh (An Giang) bị xói mạnh 
do sự hình thành và dịch chuyển các doi cát giữa 
lòng. Trong khi đó, xói lở bờ ở Thường Phước 2 do 
doi cát ven Vĩnh Khánh hướng dòng về phía bờ này. 
Bảng 2. Diện tích xói lở-bồi tụ bờ khu vực Tân Châu-Thường Phước 
Xói lở Diện tích (ha) Địa danh Bồi tụ Diện tích (ha) Địa danh 
XB.1 304,7 Vĩnh Hưng-Vĩnh Khánh BB.1 47,43 Bắc Vàm Xáng 
XB.2 18,78 Thường Phước 1 DG.1 107,9 Vĩnh Xương 
XB.3 135,0 Thường Phước 2 DG.2 237,4 Vĩnh Bường 
dv.1 57,86 Doi cát ven Thường Phước 1 DV.1 42,28 Vĩnh Lạc 
dv.2 72,56 Doi cát ven Thường Phước 1 DV.2 27,10 Thường Phước 2 
dg.1; dg.2 (54,97); (33,58) (Cồn Béo), (Cồn Tàu -1989) DV.3 7,80 Thường Phước 2 
Tổng 677,45 Tổng 469,91 
 39
Hình 2. Bản đồ xói lở - bồi tụ đường bờ Hình 3. Bản đồ tính diện tích xói lở-bồi tụ 
4.2. Khu vực Hồng Ngự - Long Khánh 
Sông Tiền khu vực này thuộc kiểu sông phân 
nhánh: nhánh Bắc và nhánh Nam cù lao Long 
Khánh. Có thể xem hố xoáy Tân Châu là phần 
chuyển tiếp giữa khu vực Tân Châu - Thường 
Phước và Hồng Ngự - Long Khánh. 
Nhánh Bắc: Phía bờ phải, xói lở chủ yếu xẩy ra
ở đầu cù lao Long Khánh (hình 4, 5) và doi cát ven 
ấp Long Phước. Bờ bồi tụ kéo dài từ giữa doi cát 
ven ấp Long Phước đến cuối cù lao ấp Long 
Khánh. Phía bờ trái, từ năm 2000 tới nay, xói lở đã 
giảm đáng kể do hoạt động bồi tụ hình thành cù lao 
Thường Thới Tiền. Tuy vậy, sự tồn tại hố xoáy sâu 
xấp xỉ 40 m ở cửa sông Sở Thượng (hình 6) làm 
cho bờ sông hiện vẫn xói lở rải rác. 
Hình 4. Xói lở tại đầu cù lao Long Khánh (2006) 
Hình 5. Xói lở tại đầu cù lao Long Khánh (2009) 
 40 
Nhánh Nam: Trước năm 2000 đáy sông chủ yếu 
bồi tụ, sau năm 2000 hoạt động bồi tụ sông Tiền tại 
khu vực Thường Thới Tiền đã đẩy dòng chảy từ 
nhánh Bắc sang nhánh Nam. Kết quả là xâm thực 
sâu phát triển làm gia tăng xói lở cả hai bờ. 
Nếu tính cả bờ xói cũ ở khu vực Hồng Ngự thì 
bờ xói lở chiếm ưu thế (hình 6, bảng 3). Tốc độ xói 
trung bình tại đầu cù lao Long Khánh là 25m/năm. 
Bảng 3. Xói lở-bồi tụ bờ khu vực Hồng Ngự-Long Khánh 
Đường bờ Dài 
(km) 
Xói lở 
(km) 
Bồi tụ 
(km) 
Tỷ lệ 
(xói) 
(bồi) (%) 
Phải 10,41 4,33 6,08 (42) (58) Nhánh 
Bắc Trái 14,63 11,36 3,27 (78) (22) 
Phải 10,93 8,15 2,78 (75) (25) Nhánh 
Nam Trái 7,75 5,4 2,35 (70) (30) 
Bồi tụ lòng sông chiếm trung bình là 23,5 ha/năm, 
trong khi xói lở trung bình 16,45 ha/năm (hình 7, 
bảng 4). 
Dễ dàng nhận thấy sự hình thành và phát triển
doi cát ven Long Phước đã gây ra xói lở bờ trái 
nhánh Bắc vào thời kỳ trước năm 2000. Trong khi 
đó sự bồi đắp và mở rộng cù lao Thường Thới Tiền 
là nguyên nhân bồi tụ lấp đầy lòng sông nhánh Bắc 
và xói lở hai bờ nhánh Nam từ năm 2000 tới nay. 
← Hình 6. Bản đồ xói lở- 
bồi tụ đường bờ 
← Hình 7. Bản đồ tính diện tích 
xói lở-bồi tụ 
 41
Bảng 4. Diện tích xói lở-bồi tụ từ năm 1989 đến 2008 
Xói lở Diện tích (ha) Địa danh Bồi tụ Diện tích (ha) Địa danh 
XB.1 29,05 Thường Thới Tiền BB.1 56,12 Ấp Thượng 
XB.2 8,51 Ấp Thượng Hóa BB.2 93,54 Đông cù lao Chà Và 
XB.3 0,86 Hồng Ngự BB.3 24,83 Long Hưng 
XB.4 7,69 Hồng Ngự BB.4 3,97 Ấp Phú Lợi 
XB.5 105,1 Tây cồn Long Khánh DV.1 107,9 Cù lao Thường Thới Tiền 
XB.6 53,45 Đông Nam cồn Long 
Khánh 
DV.2 155,6 Long Phước 
XB.7 31,63 Long Hòa DG.1 5,27 Phú Lợi 
dg.1; dg.2; 
dv.1 
33,83; 34,49; 
8,08 
Phú Lợi 
Tổng 312,69 447,23 
4.3. Khu vực Sa Đéc 
Tư liệu bản đồ và viễn thám cho thấy khúc uốn 
sông Tiền tại Sa Đéc biến đổi liên tục với sự hình 
thành hàng loạt các doi cát ven kế tiếp nhau ở phía 
bờ trái. Hoạt động bồi tụ ở bờ trái, mở rộng cồn 
Bình Thạnh (hình 8) đã đẩy lòng sông Tiền về phía 
nam gây sạt lở bờ phải (hình 9). Vách xói lở bờ phải 
kéo dài tới 12,51km. Điểm xói lở lớn nhất phân phố 
ở đầu khúc cong phía đông thị xã Sa Đéc. Trong 
43 năm (1965-2008) bờ sông Tiền tại đây lở tới 
1,47km, trung bình mỗi năm hơn 34m, tương đương 
với sự mở rộng cồn Bình Thạnh ở phía bờ trái. 
Hình 8. Bản đồ xói lở - bồi tụ đường bờ Hình 9. Bản đồ tính diện tích xói lở - bồi tụ 
Bồi tụ và xói lở sông Tiền ở khu vực này có sự 
bù trừ khá rõ. Bồi tụ bờ trái dài 12,80km tương ứng 
với xói lở bờ phải dài 12,51km (bảng 5). Bản đồ 
phân bố diện tích xói lở-bồi tụ (hình 9) cho kết quả 
xấp xỉ bằng nhau của hai sự kiện này (bảng 6); xói 
lở là 689,02 ha và bồi tụ là 691,26ha. Như vậy tốc 
độ bồi bờ trái và xói bờ phải xem như bằng nhau, 
trung bình 16ha/năm. 
Vách xói lở bờ sông dịch chuyển dần về phía 
hạ lưu đã làm cho nước sông Tiền qua rạch Nhà 
Thương đổ vào sông Sa Đéc dẫn đến sự hình thành 
hố xoáy sâu ở lòng sông Sa Đéc là nguyên nhân 
gây xói lở khu phố này vào năm 1994. Công trình 
ngăn rạch Nhà Thương và kè bờ sông Sa Đéc vào 
năm 1998 đã ngăn chặn được xói lở, tạm thời bảo 
vệ được khu đô thị cổ Sa Đéc. 
 42 
Hiện hố xoáy sâu lòng sông Tiền ở khu vực này 
là 30-37m. Bờ kè đá khoảng hơn 1km đang được 
xây dựng để chống xói lở cũng như bảo vệ thị xã 
Sa Đéc. Tuy vậy những nơi chưa có kè, xói lở vẫn 
tiếp tục xẩy ra. Quá trình bồi tụ bờ trái vẫn tiếp 
diễn, và lòng sông Tiền vẫn liên tục chuyển dịch về 
phía hạ lưu. 
Bảng 5. Xói lở - bồi tụ bờ khu vực Sa Đéc 
Đường 
bờ 
Dài 
(km) 
Xói lở 
(km) 
Bồi tụ 
(km) 
Ổn định 
(km) 
Tỷ lệ (xói) (bồi) 
(ổn định) % 
Phải 17,22 12,51 3,63 1,08 (73) (21) (6) 
Trái 17,0 2,23 12,80 1,97 (13) (75) (12) 
4.4. Khu vực cù lao Ông Hổ - Long Xuyên 
Tương tự như khu vực Hồng Ngự - Long 
Khánh; từ năm 1995, chế độ động lực dòng chảy 
có sự chuyển đổi giữa nhánh Đông Bắc và nhánh 
Tây Nam cù lao Ông Hổ. 
Nhánh Đông Bắc: Phía bờ phải, xói lở chỉ xuất 
hiện ở đầu cù lao ông Hổ dài khoảng 2km; bờ bồi 
tụ ưu thế, kéo dài từ Mỹ An đến cuối cù lao (hình 
10). Một số vị trí bờ bồi tụ đã lấn qua bờ trái vào 
năm 1995. Các bãi bồi tụ đã được khai thác để nuôi 
cá bè. Phía bờ trái, bồi tụ rất mạnh hình thành các 
doi cát ven như Chót Chét, An Thạnh Trung và cồn 
Mới. Bờ xói lở chỉ xuất hiện ở phía tây An Hữu và 
An Thuận. 
Hình 10. Bản đồ xói lở - bồi tụ đường bờ 
Nhánh Tây Nam: Trước 1995 đáy sông chủ yếu 
xâm thực, sau năm 1995 hoạt động bồi tụ trong 
nhánh Đông Bắc đã đẩy dòng chảy sang nhánh Tây 
Nam. Kết quả là xâm thực sâu phát triển làm gia 
tăng xói lở bờ phải (Long Xuyên) và bờ trái (cù lao 
Ông Hổ) (hình 10). 
Các bờ nhánh Đông Bắc có ưu thế là bồi tụ (55-
76%), lớn nhất tại cồn Chót Chét là 21m/năm; tại 
mũi nhô phía đông cù lao Ông Hổ là 21,5m/năm. 
Các bờ nhánh Tây Nam với ưu thế xói lở (54-61%) 
(hình 10, bảng 7). 
Bảng 6. Diện tích xói lở-bồi tụ từ năm 1989 đến 2008 
Xói lở Diện tích (ha) Địa danh Bồi tụ Diện tích (ha) Địa danh 
XB.1 95,02 Tây Bắc Long Hiệp BB.1 51,32 Bắc Sa Đéc 
XB.2 594,0 Sa Đéc BB.2 625,4 Cồn Bình Thạnh 
 BB.3 14,54 Cồn cát 
Tổng 689,02 Tổng 691,26 
Bảng 7. Xói lở-bồi tụ bờ khu vực cù lao Ông Hổ- 
Long Xuyên 
Đường bờ Dài (km) 
Xói lở 
(km) 
Bồi tụ 
(km) 
Tỷ lệ xói-
bồi (%) 
Phải 8,69 2,06 6,63 (24) (76) Nhánh 
Đông 
Bắc Trái 14,36 6,49 7,87 (45) (55) 
Phải 11,36 6,98 4,38 (61) (39) Nhánh 
Tây 
Nam Trái 6,02 3,84 2,18 (54) (36) 
Bồi tụ lòng sông nhánh Bắc với sự hình thành 
các doi cát ven có diện tích rộng như cồn Chót 
Chét (266,8 ha) (hình 11, bảng 8). Xem xét toàn 
khu vực, bồi tụ gấp 2,7 lần xói lở. Trong 36 năm 
(1972-2008), bồi tụ là 1.026 ha, trung bình 28,5 
ha/năm; trong khi đó xói lở là 376,35 ha, trung 
bình 10 ha/năm. Đầu cù lao Phó Ba bị xói gần 
2.000m, trong khi bồi tụ là 450m. 
 43
Bảng 8. Diện tích xói lở-bồi tụ từ năm 1989 đến 2008 
Xói lở Diện tích (ha) Địa danh Bồi tụ Diện tích (ha) Địa danh 
XB.1 20,83 Bắc Châu Thành BB.1 266,8 Cồn Chót Chét 
XB.2 108,8 Tây - Bắc cù lao Ông Hổ BB.2 19,17 
Đông Bắc 
Châu Thành 
XB.3 153,0 Tây An Hữu- An Thuận BB.3 164,6 
Đông Nam cù lao 
Ông Hổ 
XB.4 31,21 Đông Châu Thành BB.4; BB.5 8,24; 32,08 Long Xuyên 
XB.5 46,62 Tây Bắc cù lao Phó Ba BB.6 43,62 Nam An Thuận 
dg.1 12,89 Doi giữa lòng (1972) DV.1; DV.2 16,65; 78,39 Cồn Mới; 
An Thạnh Trung 
 DV.3; DG.1 7,53; 13,21 Long Xuyên; 
Cồn Phó Ba 
Tổng 376,35 Tổng 1.026,64 
Hình 11. Bản đồ tính diện tích xói lở-bồi tụ 
5. Nhận xét 
Xói lở và bồi tụ là hai sự kiện luôn tồn tại và 
tương tác với nhau trong quá trình hoạt động của 
sông. Xói lở ở khu vực này là tiền đề cho bồi tụ ở 
khu vực khác hoặc ngược lại như trường hợp giữa 
khu vực Tân Châu - Thường Phước và Hồng Ngự - 
Long Khánh, giữa nhánh Bắc và nhánh Nam, hoặc 
nhánh Đông Bắc và Tây Nam ở khu vực Hồng Ngự 
- Long Khánh và cù lao Ông Hổ - Long Xuyên; rõ 
nhất là giữa bờ trái và bờ phải sông Tiền ở khu vực 
Sa Đéc. 
Xói lở và bồi tụ lòng sông Tiền, sông Hậu phản 
ánh cơ chế hình thành kiểu kênh sông vùng đồng 
bằng ngập lụt, đó là kiểu sông bện tết và uốn khúc. 
Kiểu sông bện tết hiện đại thấy rõ nhất ở khu vực 
Tân Châu - Thường Phước nơi các doi giữa lòng 
(đảo trôi) phát triển phân chia dòng chảy. Có thể 
xem các đảo trôi này là quá khứ hình thành cù lao 
Long Khánh và cù lao Ông Hổ. Kiểu sông uốn 
khúc hiện đại rõ nét ở khu vực Sa Đéc, nơi doi cát 
ven bờ trái bồi tụ mạnh đẩy dòng chảy về phía nam 
gây xói lở bờ phải. 
Hoạt động khai thác cát dọc theo các lạch sâu, 
sử dụng doi giữa lòng sản xuất nông nghiệp ở khu 
vực Tân Châu - Thường Phước hoặc khoanh rào 
lòng sông ở nhánh Đông Bắc cù lao Ông Hổ để 
nuôi cá sẽ gia tăng tốc độ xói - bồi lòng dẫn. Với 
cơ chế hình thành kiểu sông bện tết và uốn khúc 
nêu trên, việc kết hợp nạo vét các doi cát giữa lòng 
và doi cát ven để lấy vật liệu cho xây dựng và san 
lấp sẽ là giải pháp tối ưu. Nghiên cứu đề xuất một 
chính sách quản lý sông tổng hợp đối với các cấp 
chính quyền, các ngành sẽ là nhiệm vụ mang tính 
chiến lược. 
TÀI LIỆU DẪN 
[1] Nguyễn Huy Dũng và nnk, 2003: Bước đầu 
đánh giá hiện trạng, nguyên nhân sạt lở bờ sông 
Cửu Long và một số biện pháp phòng tránh. Địa 
chất, Tài nguyên, Môi trường Nam Việt Nam. 
[2] Hà Quang Hải và nnk, 1995: Các biểu hiện 
nứt đất ở Nam Bộ và cao nguyên Đắk Lắk. Tc Địa 
chất, Hà Nội, A/230, 26-34. 
 44 
[3] Hà Quang Hải, 1996: Đặc điểm địa mạo 
hình thái sông Tiền, sông Hậu. Địa lý, địa chất, 
môi trường. Nhà xuất bản trẻ thành phố Hồ Chí 
Minh, 15-20. 
[4] Hà Quang Hải, 2007: Tai biến xói lở - bồi 
tụ lòng sông Tiền đoạn Tân Châu - Hồng Ngự từ 
góc nhìn của địa mạo học. Tạp chí địa chất Loạt A 
số 302/9-10. 21-32. 
[5] Lê Mạnh Hùng, Đinh Công Sản, 2002: Xói 
lở bờ sông Cửu Long và giải pháp phòng tránh cho 
các khu vực trọng điểm. Nxb Nông nghiệp, 196 tr. 
[6] Lê Mạnh Hùng, 2004: Sạt lở bờ sông ảnh 
hưởng đến môi trường bờ sông và xã hội Vùng 
đồng bằng sông Cửu Long. Nông nghiệp và phát 
triển nông thôn, số 4/2004, 571-572. 
[7] Phạm Huy Long và nnk, 1995: Báo cáo 
Điều tra nguyên nhân và đề xuất phương án khắc 
phục, phòng ngừa sự cố sạt lở đất trên sông Tiền 
tại các điểm Tân Châu, Hồng Ngự, Chợ Mới, Sa 
Đéc, Mỹ Thuận, Măng Thít. Lưu trữ Cục Địa chất. 
Hà Nội. 
[8] Pham Bach Viet et al, 2002: Detecting 
changes in riverbank of Mekong River, Vietnam, 
GIS Development, 6/10: 33-35. The Asian GIS 
Monthly. 
[9] Naoki Miyazawa, Kengo Sunnada & Pech 
Sokhen, 2008: Bank Erosion in the Mekong River 
Basin: Is bank erosion in my Town caused by the 
Activities of my neighbors?. Water & Development 
Publications-Helshinki University of Technology. 
SUMMARY 
Correlation of erosion - aggradation in areas along Tien and Hau Rivers 
Riverside erosion, one of the most severe natural disasters, has been occuring along the banks of Tien river and 
Hau for many years. Many segments in Tan Chau, Hong Ngu, Sa Dec, are seriously affected by the disaster. There 
are numbers of studies that have indentified levels, causes of the erosion process and proposed solutions for the 
decrease of erosional negative influences. Based on analysing satellite images, map, monitoring a series of channel 
cross - sections by echosounder and the study of geomorphology, the study concluded that erosion and deposition, 
specific natural processes of braided and meandering river in flood plains, balance one another. Bulding stone jetties 
and uncomprehensive management have accelerated both two processes: erosion and deposition. Combining the 
dredge river bed and exploitation of materials for construction is the most effective solution to reduce river shore erosion. 

File đính kèm:

  • pdftuong_quan_xoi_lo_boi_tu_mot_so_khu_vuc_long_song_tien_song.pdf