Tổng quan về mô hình quy hoạch đô thị vệ tinh
Mô hình quy hoạch đô thị vệ tinh (ĐTVT) đã có bề dày lịch sử hơn một thế kỷ và được áp dụng tại rất nhiều các vùng đô thị lớn trên thế giới. Tại mỗi quốc gia, việc áp dụng mô hình quy hoạch này lại có những sáng tạo riêng phù hợp với bối cảnh phát triển đô thị mỗi nước nhưng tựu chung lại đều cho thấy sức sống mạnh mẽ của mô hình này. Đặc biệt, trong bối cảnh đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển thì mô hình này nếu được áp dụng đúng vẫn là câu trả lời hiệu quả trong vấn đề quy hoạch và quản lý phát triển các vùng đô thị lớn với xu thế đang ngày càng gia tăng về số lượng và quy mô.
Tại nước ta, xu thế hình thành các vùng đô thị lớn cũng đang định hình rõ ràng, minh chứng qua sự lớn mạnh không ngừng của các vùng đô thị lớn truyền thống như thành phố Hà Nội, TP.HCM rồi mở rộng trên phạm vi liên tỉnh như Vùng thủ đô hay xu hướng hình thành các vùng đô thị cấp tỉnh mới như: Bắc Ninh, Thừa Thiên-Huế Xu thế này một lần nữa lại đặt ra bài toán áp dụng mô hình quy hoạch đô thị vệ tinh tại Việt Nam mà thành phố Hà Nội là địa phương đi đầu. Tuy nhiên, sau 8 năm triển khai QHCXD thủ đô, việc hình thành các ĐTVT theo định hướng vẫn tỏ ra lúng túng và chưa có nhiều kết quả cụ thể; việc áp dụng mô hình này cũng đặt ra nhiều vấn đề phát sinh mà chưa có bài toán giải quyết cụ thể, đặc biệt là về đầu tư phát triển hạ tầng kết nối, quản lý xây dựng tại khu vực vành đai xanh, xác định mô hình quản lý phát triển đặc biệt là mô hình quản lý hành chính đối với các đô thị vệ tinh
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan về mô hình quy hoạch đô thị vệ tinh
7SË 95+96 . 2018 Mô hình quy hoạch đô thị vệ tinh (ĐTVT) đã có bề dày lịch sử hơn một thế kỷ và được áp dụng tại rất nhiều các vùng đô thị lớn trên thế giới. Tại mỗi quốc gia, việc áp dụng mô hình quy hoạch này lại có những sáng tạo riêng phù hợp với bối cảnh phát triển đô thị mỗi nước nhưng tựu chung lại đều cho thấy sức sống mạnh mẽ của mô hình này. Đặc biệt, trong bối cảnh đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở các nước đang phát triển thì mô hình này nếu được áp dụng đúng vẫn là câu trả lời hiệu quả trong vấn đề quy hoạch và quản lý phát triển các vùng đô thị lớn với xu thế đang ngày càng gia tăng về số lượng và quy mô. Tại nước ta, xu thế hình thành các vùng đô thị lớn cũng đang định hình rõ ràng, minh chứng qua sự lớn mạnh không ngừng của các vùng đô thị lớn truyền thống như thành phố Hà Nội, TP.HCM rồi mở rộng trên phạm vi liên tỉnh như Vùng thủ đô hay xu hướng hình thành các vùng đô thị cấp tỉnh mới như: Bắc Ninh, Thừa Thiên-Huế Xu thế này một lần nữa lại đặt ra bài toán áp dụng mô hình quy hoạch đô thị vệ tinh tại Việt Nam mà thành phố Hà Nội là địa phương đi đầu. Tuy nhiên, sau 8 năm triển khai QHCXD thủ đô, việc hình thành các ĐTVT theo định hướng vẫn tỏ ra lúng túng và chưa có nhiều kết quả cụ thể; việc áp dụng mô hình này cũng đặt ra nhiều vấn đề phát sinh mà chưa có bài toán giải quyết cụ thể, đặc biệt là về đầu tư phát triển hạ tầng kết nối, quản lý xây dựng tại khu vực vành đai xanh, xác định mô hình quản lý phát triển đặc biệt là mô hình quản lý hành chính đối với các đô thị vệ tinh. Phát triển ĐTVT trên thế giới Mô hình ĐTVT đầu tiên tại London-Vương quốc Anh Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, nhu cầu nhà ở tại Anh trở nên hết sức nóng bỏng. Sức ép lớn giải quyết nhu cầu đó khiến Chính phủ liên hiệp tại Anh lúc bấy giờ cho ra đời Đạo luật về nhà ở năm 1919. Đạo luật này được xem là tạo ra cơ hội để biến mô hình lý thuyết về thành phố vườn thành thực tế. Tuy nhiên, nó đã không tạo ra một thành phố nào, thay vào đó Chính phủ chỉ mong muốn tạo ra một cách nhanh nhất số lượng nhà ở có thể. Những khu nhà ở được xây dựng VeÀ mÔ hÌnh QUY hOaÏCh ĐÔ ThỊ Vệ Tinh KHÁI NIeÄM TS.KTS. NguyễN TruNg DũNg Giám đốc TT Thông tin, Đào tạo & HTQT TÊng quan SË 95+96 . 20188 phân tán và không có kế hoạch tại các địa phương. Sau thành công của dự án thành phố Letchworth, thành phố vườn đầu tiên tại Anh, Hiệp hội Quy hoạch thành phố vườn tại Anh đã có nhiều nỗ lực để đưa mô hình thành phố vườn vào trong Luật nhà ở, tuy nhiên những cố gắng này đã không đem lại kết quả. Cùng với sự quyết tâm của Mr. Ebenezer Howard, một công ty có tên gọi “Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành phố vườn thứ 2” đã được thành lập mà không cần đến sự hỗ trợ của Chính phủ. Công ty này đã mua lại 1458ha đất trang trại tại Hertfordshire và 230 mẫu Anh của chủ đất Desborough và 689ha từ chủ đất Salisbury để tiến hành xây dựng thành phố vườn thứ 2 với tên gọi Welwyn theo mô hình một thành phố vệ tinh cách London 21 dặm (tương đương khoảng 32km). Thành phố này được tạo ra trên sự kết hợp giữa chức năng nhà ở và công nghiệp, với dân số 40.000-50.000 người. Sở hữu về bất động sản của toàn thành phố thuộc về Công ty trách nhiệm hữu hạn Thành phố vườn thứ 2. Mục đích là tạo dựng ra một thành phố khép kín, tiện nghi và tương đối độc lập với London, việc gìn giữ vẻ đẹp thiên nhiên và tạo ra sự hài hòa giữa kiến trúc nhà ở và môi trường là yếu tố được chú trọng nhất. Mật độ xây dựng được giới hạn cho 20 ngôi nhà trên một mẫu Anh. Sau 5 năm xây dựng, dân số của thành phố Welwyn đã là 2584 người (năm 1924). ❑ Mô hình quy hoạch thành phố vệ tinh đầu tiên tại Anh nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển mới của đô thị trong thời đại bùng nổ công nghiệp. Mô hình ĐTVT có nguồn gốc bắt nguồn từ “Đô thị vườn” nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân được hưởng thụ một môi trường đô thị, không gian sống mới có chất lượng cao hơn so với những gì các đô thị lịch sử không còn đáp ứng được. ❑ Các nghiên cứu mô hình lý thuyết về mô hình quy hoạch ĐTVT đóng vai trò tiền đề cho sự ra đời của các ĐTVT sau này. ❑ Vai trò quyết định của các tổ chức và công ty tư nhân trong đầu tư xây dựng ĐTVT đầu tiên. Quy hoạch và quản lý các ĐTVT tại Cộng hòa Pháp Chính sách phát triển các thành phố mới “ville nouvelle” ra đời tại Cộng hòa Pháp từ những năm 1960 và vẫn đang được triển khai cho tới nay. Mục tiêu của chính sách này là cho ra đời 9 thành phố mới trên toàn nước Pháp, nhằm giảm tải cho các vùng đô thị lớn mà chủ yếu là cho vùng Ile-de- France (5/9 thành phố). Mô hình thành phố mới tại Pháp có thể coi là một phiên bản của thành phố vệ tinh. Mô hình thành phố mới áp dụng chủ yếu tại vùng Ille de France là giải pháp nhằm chống lại việc mở rộng không giới hạn và hỗn loạn của các khu vực ngoại ô xung quanh thành phố Paris và là giải pháp khắc phục cho những nhược điểm về quy hoạch của các khu nhà ở xã hội được xây dựng ồ ạt theo quy mô lớn (grand ensemble) được phát triển tràn lan tại vùng ngoại ô. Để có thể ... 0 người; Vĩnh Yên 300.000. Dự án Phát triển chuỗi đô thị khu vực Hòa Lạc và Xuân Mai (Giai đoạn I) do Bộ Kế hoạch và đầu tư thực hiện năm 1999. Khu vực Hòa Lạc và Xuân Mai nằm dọc theo Quốc lộ 21A đi qua các khu vực Sơn Tây - Hòa Lạc - Xuân Mai - Miếu Môn. Dự án đề xuất việc quy hoạch một “Chuỗi đô thị nghiên cứu mới và đào tạo” với quy mô dân số khoảng 500.000 người, nhằm xây dựng một trung tâm mang tầm quốc gia về phát triển nguồn nhân lực và thúc đẩy khoa học. Trong dự án này Khu CNC Hòa Lạc đóng vai trò là hạt nhân chính cùng với việc di dời Đại học quốc gia. Một trung tâm nghiên cứu và đào tạo công nghệ cao cấp quốc gia được đề xuất thành lập tại Khu CNC Hòa Lạc. Dự án này cùng với Quy hoạch chung xây dựng khu CNC Hòa Lạc được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 1998 là những cơ sở đầu tiên hình thành nên khu CNC Hòa Lạc cũng như là ý tưởng ban đầu cho ĐTVT Hòa Lạc ngày nay. Điều chỉnh Quy hoạch chung thủ đô Hà Nội đến năm 2020 Được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 108/1998/ QĐ-TTg ngày 20/6/1998. Trong đó xác định: ❑ Cơ cấu quy hoạch không gian bao gồm thành phố trung tâm Hà Nội và các đô thị thuộc tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Hưng Yên trong bán kính từ 30-50km. ❑ Hướng phát triển lâu dài của TP.Hà Nội chủ yếu về phía Tây, hình thành chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai - Hòa Lạc - Sơn Tây (tỉnh Hà Tây), phía Bắc là cụm đô thị Sóc Sơn (Hà Nội) - Xuân Hòa - Đại Lải - Phúc Yên (tỉnh Vĩnh Phúc) nhằm khai thác các lợi thế về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng... ❑ Đến 2020: Dân số thành phố trung tâm Hà Nội là 2,5 triệu người; Dân số các đô thị xung quanh khoảng 2-2,5 triệu người. Chương trình phát triển tổng thể đô thị thủ đô Hà Nội đến năm 2020 do tổ chức JICA - Nhật Bản tài trợ (HAIDEP) năm 2007: Trong khuôn khổ nghiên cứu của dự án này, lần đầu tiên ý tưởng về việc quy hoạch các đô thị cấp trung tâm vùng xung quanh Hà Nội, bao gồm: Đô thị Mê Linh, Bắc Ninh, Phủ Lý và chuỗi đô thị phía Tây bao gồm: Sơn Tây, Hòa Lạc, Xuân Mai, mang tính chất như các ĐTVT của Hà Nội đã được đề xuất. Nghiên cứu nêu rõ nếu cứ tập trung phát triển vào Hà Nội sẽ dẫn đến tình trạng quá tải về hạ tầng, ùn tắc giao thông đồng thời không phát triển được các khu vực phụ cận, dẫn đến tình trạng quá chênh lệch về kinh tế-xã hội. Do đó việc phát triển các ĐTVT là giải pháp cần thiết. Định hướng hình thành các ĐTVT của thành phố Hà Nội có các liên kết và hội nhập với đô thị trung tâm Hà Nội về các vấn đề: ❑ Hội nhập về chức năng: Các ĐTVT có các chức năng chiến lược rõ ràng bổ sung cho Hà Nội cần được phát triển một cách hiệu quả Hình 7: Quy hoạch chung phát triển đô thị Hòa Lạc - Xuân Mai Nguồn: Báo cáo cuối kỳ Dự án Phát triển đô thị Hòa Lạc - Xuân Mai (Bộ KH&ĐT, 1999) Hình 8: Chuỗi đô thị Sơn Tây - Hòa Lạc - Xuân Mai - Miếu Môn trong đồ án Điều chỉnh QHCXD Hà Nội đến năm 2020 Nguồn: QHCXD thủ đô Hà Nội đến năm 2020 13SË 95+96 . 2018 trong phạm vi bán kính 30-50km từ Hà Nội. ❑ Hội nhập về không gian: Các ĐTVT cần được kết nối với Hà Nội bởi mạng lưới giao thông và hệ thống tín hiệu hiệu quả. ❑ Hội nhập kinh tế-xã hội: Hà Nội và các ĐTVT cần đảm bảo duy trì phát triển nông nghiệp, tính bền vững về môi trường, tăng cường phối hợp với nhau về các vấn đề kinh tế-xã hội như cấp nước, quản lý chất thải, giao thông vận tải, giáo dục, lao động, việc làm. Do tại thời điểm nghiên cứu, thành phố Hà Nội chưa được mở rộng nên các đô thị phía Tây bao gồm: Sơn Tây, Hòa Lạc, Xuân Mai chỉ đóng vai trò là các ĐTVT cấp Vùng. Tuy không được phê duyệt, nhưng bản Quy hoạch tổng thể phát triển đô thị Hà Nội là những nghiên cứu khoa học đầu tiên tạo cơ sở cho việc quy hoạch các ĐTVT của thành phố Hà Nội tại Quy hoạch chung thành phố sau đó. Quy hoạch chung xây dựng thủ đô Hà Nội đến 2030 và tầm nhìn 2050 QHCXD thủ đô đến 2030, tầm nhìn 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 29/7/2011 (Quyết định 1259 QĐ/TTg). Trong đó đề ra định hướng cấu trúc đô thị toàn thành phố theo mô hình chùm đô thị với 01 thành phố trung tâm (ĐTTT) và 05 ĐTVT (ĐTVT) cùng các thị trấn sinh thái. Các ĐTVT bao gồm: Sóc Sơn, Sơn Tây, Hòa Lạc, Xuân Mai, Phú Xuyên. Mục tiêu của việc quy hoạch các ĐTVT này là nhằm kiểm soát quá trình phát triển lan tỏa của không gian đô thị hóa và tạo ra các cực phát triển đô thị đồng đều trên phạm vi toàn lãnh thổ thành phố. Mô hình ĐTVT không phải là một mô hình quy hoạch mới mẻ trên thế giới. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên mô hình này được áp dụng trên thực tế tại Việt Nam nên có nhiều thách thức phải giải quyết trong quá trình triển khai đầu tư xây dựng và quản lý phát triển các đô thị. Các thách thức phải kể đến bao gồm: 1. Xây dựng kế hoạch phát triển các ĐTVT phù hợp với quy mô, tính chất đô thị Các ĐTVT của Hà Nội được quy hoạch trên cơ sở các trung tâm đô thị hiện hữu hoặc đang hình thành có tính chất và quy mô rất khác nhau: ĐTVT Sơn Tây - được quy hoạch trên cơ sở thị xã Sơn Tây (trước đây đã từng là thành phố Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây cũ); ĐTVT Sóc Sơn - trên cơ sở thị trấn Sóc Sơn - huyện Sóc Sơn, ĐTVT Xuân Mai hình thành trên cơ sở thị trấn Xuân Mai - huyện Chương Mỹ; ĐTVT Phú Xuyên trên cơ sở thị trấn Phú Xuyên - huyện Phú Xuyên. ĐTVT Hòa Lạc còn đang trong quá trình đầu tư xây dựng trên cơ sở Khu Công nghệ cao Hòa Lạc và Khu Đại học quốc gia. Sự khác biệt này đòi hỏi phải có các mô hình và lộ trình thực hiện phù hợp với đặc thù và mức độ phát triển của từng đô thị cho quản lý phát triển các ĐTVT trong tương lai. 2. Quản lý địa giới hành chính Địa giới các ĐTVT theo quy hoạch có sự chồng lấn với địa giới các đơn vị hành chính hiện hữu. Các ĐTVT Sóc Sơn, Xuân Mai nằm lọt trong địa giới của các huyện ngoại thành: Sóc Sơn, Chương Mỹ. Trường hợp ĐTVT Phú Xuyên nằm trên địa giới 02 huyện: Hình 9: Hệ thống các đô thị trong vùng Hà Nội theo cấu trúc ĐTVT trong đề xuất của Chương trình phát triển tổng thể đô thị Hà Nội (HAIDEP) (Nguồn: Báo cáo Chương trình HAIDEP, 2007) Hình 10: Quy hoạch cấu trúc hệ thống đô thị Thành phố Hà Nội theo mô hình ĐTVT. (Nguồn: QHC xây dựng thủ đô Hà Nội đến 2030, tầm nhìn 2050) K h ∏ i n i ÷ m SË 95+96 . 201814 Phú Xuyên và Thường Tín; ĐTVT Hòa Lạc nằm trên địa giới của 03 huyện: Thạch Thất, Quốc Oai, Ba Vì. Sự chồng lấn về địa giới hành chính này sẽ gây ra không ít khó khăn cho công tác phối hợp giữa các đơn vị trong công tác triển khai thực hiện các quy hoạch và tổ chức quản lý hành chính, phát triển đô thị tại các ĐTVT trong thực tiễn. 3. Mô hình tổ chức quản lý Về mặt lý thuyết, mặc dù có sự phụ thuộc về chức năng với đô thị trung tâm nhưng các ĐTVT vẫn là những đô thị đầy đủ về mặt cấu trúc đô thị. Trên thực tế, các ĐTVT trên thế giới có địa giới hành chính, tổ chức chính quyền và hoạt động như những thành phố độc lập có phân cấp hành chính ngang hàng với các thành phố trung tâm. Tại Việt Nam, do cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền địa phương có sự phân biệt giữa đô thị và nông thôn nên việc các ĐTVT được quy hoạch trên địa bàn các huyện ngoại thành sẽ tạo ra thách thức lớn cho việc tìm ra một mô hình quản lý vừa phù hợp với khuôn khổ pháp lý hiện hành vừa đáp ứng các yêu cầu đặc thù của công tác quản lý phát triển đô thị phân biệt với quản lý nông thôn. Mô hình “thành phố trong thành phố” đối với các thành phố trực thuộc TW đã được Luật hóa nhưng chưa có hướng dẫn cụ thể và tiền lệ áp dụng. 4. Quản lý phát triển không gian đô thị tại khu vực Vành đai xanh Mô hình ĐTVT chỉ phát huy được hiệu quả khi kiểm soát được khoảng cách và quy mô phát triển của các ĐTVT và đô thị trung tâm. Những yêu cầu phát triển trên thực tế tại các đô thị về phát triển kinh tế, xã hội dẫn đến việc rất khó tuân thủ các nguyên tắc giới hạn về phát triển không gian của ĐTVT, đô thị trung tâm, vành đai xanh cũng như các khu vực cách ly khác. Trên thực tế đô thị trung tâm vẫn sẽ không ngừng mở rộng, các ĐTVT phát triển chậm chạp do thiếu lợi thế cạnh tranh, các khu vực cách lý dần bị xóa mờ do việc mở rộng đô thị hóa tại các đô thị và vùng nông thôn và dẫn đến một đại đô thị sẽ ra đời. Các ĐTVT luôn được hiểu là những đô thị có quy mô (dân số) nhỏ hoặc vừa, điều đó có nghĩa là các ĐTVT không thể phát triển một cách tự do. Nếu các ĐTVT phát triển quá lớn thì đồng nghĩa với việc nó phải đảm bảo có các chức năng đầy đủ như một đô thị độc lập mà như vậy sự phụ thuộc cần thiết về mặt chức năng của ĐTVT với ĐTTT sẽ không còn và đồng nghĩa với việc mô hình ĐTVT mất đi ý nghĩa. Do vậy việc xác định được quy mô cũng như ngưỡng phát triển cho ĐTVT là một yêu cầu quan trọng để đảm bảo sự phát triển ổn định của cả hệ thống đô thị thành phố. 5. Quản lý phát triển đồng bộ trên toàn hệ thống đô thị thành phố Để xây dựng thành công mô hình ĐTVT thì cần có một khung pháp lý toàn diện trên quy mô toàn thành phố (cấp tỉnh) nhằm điều tiết việc phát triển các ĐTVT không mâu thuẫn lẫn nhau cũng như mâu thuẫn với đô thị trung tâm về chức năng, quy mô, lợi ích Đô thị trung tâm thường luôn có lợi thế phát triển do có lịch sử hình thành, vị trí, cơ sở hạ tầng, nguồn lực tốt trong khi các đô thị hạt nhân bị hạn chế về chức năng và quy mô, chỉ mang tính bổ trợ và phụ thuộc vào đô thị trung tâm sẽ rất khó phát triển, chưa kể đến sự cạnh tranh lẫn nhau giữa các ĐTVT. Việc kiểm soát phát triển các ĐTVT và ĐTTT Hà Nội hiện nay chỉ dựa trên các quy hoạch xây dựng là chưa đủ, cần thiết phải có các công cụ pháp lý mạnh mẽ cùng với các cơ chế chính sách thúc đẩy. Kết luận Các ĐTVT Hà Nội từ ý tưởng đến quy hoạch qua các thời kỳ đều nhằm giải quyết các vấn đề phát triển đô thị cụ thể cho thành phố qua các giai đoạn phát triển, đặc biệt là qua các giai đoạn mở rộng địa giới hành chính: 15SË 95+96 . 2018 1) Đáp ứng các yêu cầu về an ninh quốc phòng (Quy hoạch chung trước 1975) 2) Giảm tải mật độ phát triển cho đô thị trung tâm thành phố Hà Nội: Giảm mật độ dân cư, mật độ xây dựng; Khắc phục tình trạng quá tải hạ tầng đô thị, hạ tầng xã hội, xuống cấp về chất lượng môi trường sống (Quy hoạch chung 1998) 3) Tạo ra không gian mới cho quá trình mở rộng đô thị: Giải quyết vấn đề thiếu nhà ở, hạ tầng kỹ thuật đầu mối: Các khu xử lý chất thải, nước thải; Trạm đầu mối cấp nước, điện; Nghĩa trang cấp thành phố...; Tạo thêm không gian xanh, không gian mở cho thành phố (Quy hoạch chung 2011). 4) Kiểm soát quá trình đô thị hóa tại các khu vực ngoại vi thành phố: tình trạng xây dựng nhà ở, nhà xưởng sản xuất bừa bãi, không phép, không theo quy định, quy hoạch dẫn đến mất mỹ quan chung, lấn chiếm đất nông nghiệp; nguy cơ hình thành các khu nhà ở ổ chuột; 5) Tạo ra các cực tăng trưởng mới cho thủ đô: Hình thành các khu công nghiệp, công nghệ cao; Thu hút dự án đầu tư dự án BĐS, đầu tư nước ngoài... 6) Khắc phục tình trạng phát triển chênh lệch giữa khu vực nội đô và ngoại thành. Sau 8 năm kể từ khi QHCXD thủ đô được phê duyệt để đi vào triển khai, việc hình thành các ĐTVT của TP. Hà Nội mới chỉ dừng lại ở mức độ định hướng quy hoạch và chưa có các bước triển khai cụ thể trên thực tế. Vấn đề vướng mắc cơ bản về mô hình quản lý đơn vị hành chính đã được giải quyết với việc Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã cho phép hình thành các đơn vị hành chính cấp thành phố trực thuộc Thành phố trực thuộc TW (mô hình thành phố trong thành phố), tuy nhiên những khó khăn trong đầu tư hạ tầng kết nối và sự tăng trưởng sụt giảm của thị trường BĐS, các dự án chiến lược bị chậm tiến độ (Khu CNC Hòa Lạc, Đại học Quốc gia Hà Nội) là nguyên nhân khiến cho việc ra đời các ĐTVT đầu tiên tại Hà Nội và tại nước ta nói chung còn chưa có bước đột phá. Tài liệu Tham khảo: 1. Nguyễn Trung Dũng, Nghiên cứu mô hình quản lý phát triển ĐTVT TP.Hà Nội”, Đề tài cấp thành phố, 2016. 2. C.B Purdom, The Building of Satellite towns, London, 1949. 3. Quy hoạch vùng Ile-de-France-cộng hòa Pháp. 4. Hệ thống hành chính của Pháp trong quy hoạch đô thị, Tài liệu Dự án IMV K h ∏ i n i ÷ m
File đính kèm:
- tong_quan_ve_mo_hinh_quy_hoach_do_thi_ve_tinh.pdf