Thực trạng ứng dụng bức xạ ion hóa trong điều trị ung thư và một số bệnh lý khác
Bức xạ ion hóa ứng dụng trong y tế chủ yếu trong 3 lĩnh vực Y học hạt nhân (YHHN), Điện quang và Ung thư (xạ trị ung thư). Với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, với sự ra đời của các thiết bị chẩn đoán và điều trị hiện đại, các công nghệ bức xạ tiên tiến đã được áp dụng, đem lại nhiều lợi ích to lớn cả về ý nghĩa khoa học cũng như thực tiễn, đặc biệt là ứng dụng để chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư và một số bệnh lý khác tại Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Thực trạng ứng dụng bức xạ ion hóa trong điều trị ung thư và một số bệnh lý khác", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng ứng dụng bức xạ ion hóa trong điều trị ung thư và một số bệnh lý khác
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 1Số 61 - Tháng 12/2019 I. THỰC TRẠNG VỀ ỨNG DỤNG BỨC XẠ ION HÓA TRONG LĨNH VỰC ĐIỆN QUANG, Y HỌC HẠT NHÂN VÀ UNG THƯ A. Thực trạng về trang thiết bị và nhân lực chuyên ngành Điện quang, Y học hạt nhân và Xạ trị ung thư tại Việt Nam 1. Về thiết bị và sản xuất các dược chất phóng xạ a. Về thiết bị điện quang, cả nước hiện có: - Máy chụp X quang: 1.381 - Máy CT: 1028 - Máy MRI: 456 - Máy chụp DSA: 18 b. Về thiết bị xạ trị, cho đến nay cả nước ta có: - Máy xạ trị Co-60: 5 - Máy xạ trị gia tốc: 56 - Xạ phẫu: 8 (bao gồm: 5 dao gamma, 2 dao gamma quay, 01 Cyber knife) - Máy xạ trị áp sát: 7 (bao gồm 5 máy xạ trị áp sát suất liều cao, 2 máy suất liều thấp) - Xạ trị trong mổ (IORT): 01 - CT mô phỏng xạ trị: 41 c. Y học hạt nhân ● Về y học hạt nhân chẩn đoán, cả nước hiện có: - SPECT: 25 - SPECT/CT: 15 - PET/CT: 12 - PET/MRI: 0 - Cyclotron: 5 (2 máy đang hoạt động). ● Về y học hạt nhân điều trị: - Hiện cả nước đã sử dụng nhiều đồng vị phóng xạ và dược chất phóng xạ để điều trị như: I-131, P-32, I-125 (cấy hạt phóng xạ), Y-90 để điều trị ung thư tuyến giáp thể biệt hóa, cường giáp trang, bướu cổ đơn thuần, ung thư di căn xương, ung thư gan nguyên phát và thứ phát, ung thư tuyến tiền liệt - Hệ thống cấy hạt phóng xạ (Seed implantation) với I-125: 01 Bức xạ ion hóa ứng dụng trong y tế chủ yếu trong 3 lĩnh vực Y học hạt nhân (YHHN), Điện quang và Ung thư (xạ trị ung thư). Với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, với sự ra đời của các thiết bị chẩn đoán và điều trị hiện đại, các công nghệ bức xạ tiên tiến đã được áp dụng, đem lại nhiều lợi ích to lớn cả về ý nghĩa khoa học cũng như thực tiễn, đặc biệt là ứng dụng để chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư và một số bệnh lý khác tại Việt Nam. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG BỨC XẠ ION HÓA TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VÀ MỘT SỐ BỆNH LÝ KHÁC THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 2 Số 61 - Tháng 12/2019 - Hệ thống xạ trị trong chọn lọc (SIRT) với Y-90: 01 ● Về sản xuất và ứng dụng các dược chất phóng xạ trong chẩn đoán và điều trị: - Tất cả các cơ sở y học hạt nhân trong cả nước đều đã ứng dụng hầu hết các đồng vị phóng xạ, các hợp chất đánh dấu thường quy đã có trên thế giới để chẩn đoán và điều trị bệnh. Nguồn dược chất phóng xạ (DCPX) này một phần đáng kể được sản xuất tại Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, phần còn lại phải nhập từ nước ngoài. - Hiện đang có nhu cầu rất lớn để sử dụng các dược chất phóng xạ mới cho chẩn đoán và điều trị bệnh nhân, đặc biệt là bệnh nhân ung thư. 2. Về nhân lực Tình hình nhân lực của cả 3 chuyên ngành điện quang, xạ trị ung thư, y học hạt nhân như sau: a. Điện quang - Bác sỹ điện quang: 274 - Kỹ sư vật lý: 37 - Kỹ thuật viên: 443 b. Xạ trị ung thư: - Bác sỹ xạ trị ung bướu: 236 - Kỹ sư vật lý: 103 - Kỹ thuật viên xạ trị: 231 c. Y học hạt nhân: - Bác sỹ YHHN: 163 - Kỹ sư vật lý (hạt nhân): 43 - Dược sỹ hóa dược phóng xạ: 29 - Kỹ thuật viên YHHN: 103 - Điều dưỡng YHHN: 160 3. Tình hình sản xuất và cung cấp dược chất phóng xạ và hợp chất đánh dấu ở Việt Nam: + Về sản xuất thuốc phóng xạ: Hiện chỉ có một lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt sản xuất được một số đồng vị phóng xạ: I-131, P-32, Tc-99m và một số hợp chất đánh dấu. Năng lực sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu của các cơ sở YHHN và ung bướu trong cả nước. + Về nhập khẩu thuốc phóng xạ: Nhiều dược chất phóng xạ, hợp chất đánh dấu phải nhập từ nước ngoài mới đáp ứng được nhu cầu chẩn đoán và điều trị của các bệnh viện. - Hiện chỉ có một công ty đủ điều kiện được Bộ Y tế cấp phép để nhập, phân phối, vận chuyển thuốc phóng xạ, do đó các cơ sở YHHN và ung bướu gặp rất nhiều khó khăn và luôn thiếu thuốc phóng xạ cho chẩn đoán và điều trị. - Các đồng vị phóng xạ, hợp chất đánh dấu (thuốc phóng xạ) do Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt sản xuất đã hết hạn visa của Bộ Y tế Việt Nam. 4. Về hoạt động của các máy gia tốc vòng (cyclotron) sản xuất đồng vị phóng xạ: Hiện tại, cả nước có 5 cyclotron, nhưng mới chỉ có 3 cyclotron đang hoạt động có giấy phép của Bộ Y tế, còn 2 cyclotron chưa đi vào hoạt động do chưa đáp ứng được các yêu cầu của Bộ Y tế. Hiện 1 cyclotron đã hỏng tiếp. Như vậy, cả nước hiện chỉ còn 01 cyclotron đang hoạt động ở Hà Nội và 01 cyclotron đang hoạt động ở Đà Nẵng). B. So sánh tình trạng trang thiết bị và nhân lực ngành Y học hạt nhân Việt Nam và một số nước trong khu vực châu Á 1. Tình hình về nhân lực ngành y học hạt nhân Trong những năm gần đây, chuyên ngành y học nhân nhân đã có những bước tiến nhanh, mạnh về nhân lực, bao gầm cả về bác sỹ YHHN, kỹ sư vật lý hạt nhân, kỹ thuật viên so với các nước trong khu vực. THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 3Số 61 - Tháng 12/2019 Bảng 1: Tình hình nhân lực ngành Y học hạt nhân Dân số (triệu người) Bác sĩ Kỹ thuật viên Kỹ sư Dược sĩ hóa học phóng xạ Nhân viên hóa học phóng xạ Điều dưỡng Khác Việt Nam 94 163 101 43 29 N/A 160 N/A Thái Lan 69 92 116 40 17 N/A 56 47 Singapore 5,6 7 13 N/A N/A N/A 12 11 Hàn Quốc 51,5 302 909 20 N/A 20 204 N/A Nepal 28,9 6 N/A N/A N/A N/A N/A N/A Malaysia 31,6 47 62 58 30 N/A N/A N/A Campuchia 14,7 2 N/A 3 1 N/A N/A N/A Indonesia 255,5 61 74 12 22 N/A N/A N/A 2. Tình hình trang thiết bị ngành Y học hạt nhân So với các nước trong khu vực thì trong những năm gần đây Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển các kỹ thuật YHHN chẩn đoán và điều trị nhanh nhất cả về số lượng và chủng loại các thiết bị. Bảng 2: Tình hình trang thiết bị ngành Y học hạt nhân Số lượng cơ sở YHHN Gamma SPECT & SPECT/CT PET & PET/CT PET/MRI Cyclotron Việt Nam 28 06 40 12 0 05 Thái Lan 25 34 45 11 0 04 Hàn Quốc N/A 250 50 176 4 34 Pakistan 49 105 10 07 N/A N/A Nepal N/A 4 N/A 2 N/A N/A Sri Lanka 6 4 5 3 N/A N/A Myanmar 4 4 6 1 N/A 1 Mông Cổ 1 N/A 1 N ... tuyến giáp thể biệt hoá và hơn 2.500 bệnh nhân bệnh bướu tuyến giáp lan toả nhiễm độc (Basedow) được điều trị thành công bằng 131I. Đã có hàng nghìn bệnh nhân đã được chữa khỏi bằng các đồng vị phóng xạ nói trên. - Hơn 1.000 bệnh nhân ung thư di căn xương đã được điều trị giảm đau bằng 32P với hiệu quả giảm đau cao, an toàn, kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thư. 5.6. Xạ trị định vị thân (Stereotactic Ablative Radiotherapy (SABR) or Stereotactic Body Radiation Therapy (SBRT) Là phương pháp xạ trị hiện đại phân liều lớn với độ chính xác cao và thiết bị cố định thân chuẩn. Liều bức xạ tại khối u rất cao (BED > 100 Gy) sẽ hủy hoại khối u như một cuộc phẫu thuật. Xạ trị định vị thân trong bệnh ung thư được áp dụng khi khối u có kích thước nhỏ, còn khu trú như ung thư phổi, gan (kích thước u dưới 5 cm), chưa có di căn hạch mà bệnh nhân có chống chỉ định phẫu thuật, tuổi cao, hoặc bệnh nhân từ chối phẫu thuật. Các nghiên cứu cho thấy, SABR là phương pháp không xâm nhập, an toàn, có hiệu quả điều trị cao tương đương với phẫu thuật giai đoạn sớm. Ngoài ra, SABR còn điều trị hiệu quả cho các trường hợp di căn gan, phổi đơn độc. Liều bức xạ thường dùng là 45-60 Gy, chia làm 3-4 fractions. 5.7. Xạ trị trong mổ (IntraOperative RadioTherapy: IORT) Kỹ thuật xạ trị trong phẫu thuật hay trong mổ còn được gọi là xạ trị trong mổ trúng đích (Targeted Intraoperative Radiation Therapy: TARGIT) thực chất là một loại xạ trị áp sát với các tia X năng lượng thấp và khả năng xuyên sâu vào mô kém nên chỉ có tác dụng tại chỗ không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất ít tới mô lành xung quanh. Đó chính là cơ sở khoa học của kỹ thuật IORT. IORT là kỹ thuật không xâm lấn, dễ chịu đựng hơn so với các loại hình xạ trị khác, áp dụng cho từng cá thể và làm tăng độ chính xác trúng đích. Giảm thời gian hoặc không cần phải xạ chiếu ngoài bổ trợ sau mổ, giảm tác dụng ngoại ý lên cơ quan lành, tiết kiệm chi phí cho người bệnh, giảm tỷ lệ tái phát tại chỗ, đảm bảo tính thẩm mỹ. Tăng khả năng xạ trị thích hợp cho từng bệnh nhân. IORT được sử dụng ở Mỹ từ năm 1999, đến nay trên 80 cơ sở trên khắp các châu lục ứng dụng kỹ thuật này. Đã có trên 100 bài báo về lâm sàng với hàng ngàn bệnh nhân được công bố về kết quả điều trị cũng như lợi ích mang lại. Có thể áp dụng IORT cho nhiều loại ung thư như: ung thư vú, trực tràng, tử cung, phổi, bàng quang, di căn xương, cột sống, ung thư phần mềm, u lympho ác tính 5.8. Xạ trị áp sát (Brachytherapy) Xạ trị áp sát là phương pháp đặt nguồn đồng vị phóng xạ áp sát vị trí cần điều trị. Xạ trị áp sát giúp nâng liều bức xạ cao hơn ở một số vị trí trong cơ thể, thời gian xạ trị áp sát thường ngắn hơn so với xạ trị chiếu ngoài. Xạ trị áp sát là phương pháp xạ trị rất khu trú, liều xạ được đưa tới vùng chiếu xạ bằng một hoặc nhiều nguồn kín. Ưu điểm: - Giảm liều chiếu xạ vào vùng xung quanh khối u, tăng liều xạ trị tại khối u và có thể kiểm soát liều xạ tại các cấu trúc xung quanh khối u. - Thời gian điều trị ngắn nên sẽ ngăn ngừa quá trình tái nhân lên của tế bào ung thư. Nhược điểm: Liều xạ trị trong một lần điều trị cao nên nếu có bất kỳ một sai sót nào trong quá trình điều THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 19Số 61 - Tháng 12/2019 trị đều có thể dẫn đến những nguy hiểm cho các mô lành. Do đó việc xác định chính xác liều xạ trị, cơ quan cần xạ trị là một việc vô cùng quan trọng. 5.9. Điều trị phóng xạ thụ thể peptid (Peptide Receptor Radionuclide Therapy - PRRT) Điều trị phóng xạ thụ thể peptid là kỹ thuật sử dụng đồng vị phóng xạ gắn với peptid, phức hợp này thông qua thụ thể peptid trên bề mặt tế bào u đi vào trong tế bào khối u và tiêu diệt tế bào. Phương pháp này chỉ định cho các khối u nội tiết không còn khả năng phẫu thuật, có hình ảnh chụp thể hiện tăng biểu hiện thụ thể somatostatin (SSTR). Thuốc phóng xạ là 111In-octreotide, 90Y-DOTA, 90Y-DOTATOC, 177Lu-DOTATE,... đã được nghiên cứu và ứng dụng trong điều trị phóng xạ thụ thể peptid trên thế giới, mang lại hiệu quả cao. 5.10. Các dược chất phóng xạ phát tia alpha trong điều trị (targeted alpha therapy - TAT) Bên cạnh các đồng vị phóng xạ phát tia beta được sử dụng rộng rãi trong điều trị y học hạt nhân như 131I (điều trị basedow, ung thư tuyến giáp thể biệt hoá, các khối u nội tiết...), 32P (điều trị bệnh đa hồng cầu nguyên phát, điều trị giảm đau do ung thư di căn xương...), 90Y-octreotide (điều trị u thần kinh nội tiết), 90Y-ibritumomab (điều trị u lympho ác tính không Hodgkin), các đồng vị phóng xạ phát tia alpha chứng minh được hiệu quả cao và đầy triển vọng trong điều trị bệnh như: 223Ra (điều trị ung thư di căn xương), 177Lu- octreotide (điều trị u nguyên bào thần kinh), 213Bi- cDTPA (điều trị u hắc tố)... Tia alpha với ưu điểm có mức năng lượng cao, quãng chạy ngắn trong mô (50-100 µm), làm tổn thương DNA tế bào, tiêu diệt tế bào u và không ảnh hưởng đến các tế bào lành xung quanh. Hướng phát triển đầy hứa hẹn trong tương lai là sự kết hợp giữa các đồng vị phóng xạ phát tia alpha với các nanobodies giúp tăng hiệu quả điều trị các khối u đặc hiệu hơn. 5.11. Xạ trị proton (Proton beam radiotherapy - PBRT) Bệnh nhân đầu tiên được xạ trị proton từ năm 1955. Năm 1988 Cục Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt xạ trị proton cho bệnh nhân ung thư. Cho đến nay, hơn 90.000 người trên toàn thế giới đã được xạ trị proton tại các trung tâm ở châu Âu, châu Á và Hoa Kỳ. Máy xạ trị Proton Xạ trị proton hay xạ trị bằng hạt nặng là kỹ thuật xạ trị sử dụng các hạt nặng như proton H+, C12, He4 2 tiêu diệt tế bào khối u. Một proton là một hạt tích điện dương và là một phần của một nguyên tử, các đơn vị cơ bản của tất cả các nguyên tố hóa học, chẳng hạn như hydro hay oxy. Khi ở mức năng lượng cao, proton có thể tiêu diệt tế bào ung thư. Xạ trị proton là một phương pháp rất hiệu quả để xạ trị các khối u. Nó phá các hủy tế bào ung thư bằng cách ngăn THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 20 Số 61 - Tháng 12/2019 chặn không cho chúng phân đôi và tăng trưởng, cũng giống như xạ trị truyền thống sử dụng năng lượng tia X... Sự khác biệt giữa hai phương pháp điều trị là xạ trị proton có khả năng hướng chùm tia bức xạ rất chính xác vào khối u và chiếu trực tiếp vào trong khối u đó, rồi dừng lại ngay tại khối u. Trong khi đó, xạ trị truyền thống (xạ trị gia tốc.) thì chùm tia bức xạ sau khi đi qua khối u thì vẫn tiếp tục đi xuyên qua các mô lành ở đằng sau khối u, phá hủy những tế bào lành này. Điều này là do tia X là sóng điện từ, không có khối lượng, cũng không có điện tích, nên có thể thâm nhập và đi xuyên qua mô. Trong khi đó, proton có một khối lượng (mặc dù cực nhỏ) và có điện tích, nên có thể tập trung bức xạ ở độ sâu chính xác tại ngay khối u. Vì vậy xạ trị proton cho phép bệnh nhân nhận liều bức xạ rất cao tại khối u, nên hiệu quả điều trị cao hơn, nhưng đồng thời lại giảm tổn thương tối đa cho các mô lành xung quanh khối u. So sánh tính ưu việt của xạ trị proton so với xạ trị truyền thống So sánh lợi ích của xạ trị proton với xạ trị truyền thống (LINAC): - Chiếu bức xạ vào khối u và các tế bào ung thư với độ chính xác cao - Giảm nguy cơ phá hủy tới các tổ chức lành - Ít có những tác dụng phụ, cả trước mắt và lâu dài - Cải thiện chất lượng cuộc sống trong và sau khi điều trị - Giảm khả năng tái phát sau xạ trị - Có thể chỉ định xạ trị proton với các khối u tái phát sau xạ trị - Thích hợp và có hiệu quả đối với bệnh nhân ung thư là người lớn và trẻ em Hình trên cho thấy xạ trị proton giúp tập trung chùm tia bức xạ cao nhất và chính xác vào khối u, nhưng giảm thấp tối đa liều bức xạ trước khi đến khối u và giảm ngay và dừng lại sau khi đi qua khối u Hình trên cho thấy các vùng của não khi tiếp xúc với bức xạ khi xạ trị. Hình bên trái cho thấy điều trị proton thì liều bức xạ chỉ tập trung chính vào khối u (tumor), trong khi xạ trị truyền thống (xạ trị gia tốc) thì trường chiếu lan tỏa ra cả nhu mô não, mắt, mũi và thân não (hình bên phải THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 21Số 61 - Tháng 12/2019 Xạ trị proton cho ung thư mắt ở trẻ em Xạ trị proton cho bệnh nhân ung thư thưc quản có hiệu quả điều trị cao và an toàn, ít biến chứng hơn so với xạ trị truyền thống Tóm lại: Ưu điểm của xạ trị bằng hạt nặng là (1) tập trung liều bức xạ tại khối u rất cao, (2) độ chính xác cao, (3) liều bức xạ đối với các cơ quan lành rất thấp (hình 1), (4) có thể thực hiện được để điều trị các khối u sâu, các khối u được bao bọc bởi các cơ quan lành rất nhạy cảm với bức xạ xung quanh như u não, ung thư xoang sàng, u trung thất, ung thư phổi, ung thư gan, ung thư tuyến tiền liệt Điều trị ung thư bằng ion nặng đang mở ra bước tiến mới trong xạ trị ung thư. Khả năng tiêu diệt tế bào ung thư mạnh hơn 2, 3 lần so với phương pháp xạ trị thông thường nên ưu thế đặc biệt với các khối u kháng bức xạ. Nhược điểm: là hệ thống xạ trị hiện đại đắt tiền, đặc biệt là giá thành bảo trì, bảo dưỡng hàng năm rất cao... 5.12. Xạ trị bằng hạt neutron (Neutron beam therapy - NBT) Xạ trị bằng hạt neutron là kỹ thuật xạ trị có ưu thế hơn xạ trị thông thường là (1) giảm yếu tố tăng cường oxy, (2) giảm hoặc mất khả năng sửa chữa của tế bào sau khi bị tổn thương, (3) ít biến đổi độ nhạy trong chu kỳ phân bào của tế bào. Hạt neutron được sinh ra từ máy gia tốc hạt (particle accelerator). Neutron được sử dụng chủ yếu để điều trị ung thư tuyến nước bọt, sarcoma mô mềm, ung thư phổi, tuỵ, đại tràng, thận và ung thư tuyến tiền liệt. 5.13. Xạ trị kích hoạt bằng neutron (Boron neutron capture therapy - BNCT) Là phương pháp xạ trị được sử dụng chủ yếu điều trị các khối u não. Bệnh nhân trước khi điều trị được tiêm (uống) thuốc chứa boron (10B). 10B sẽ được các tế bào khối u bắt giữ. Bệnh nhân sẽ được chiếu xạ bằng hạt neutron. Các hạt neutron nhiệt gây phân rã hạt nhân 10B thành hai hạt năng lượng cao là helium và lithium) tiêu diệt tế bào u mà không gây ảnh hưởng đến nhu mô lành xung quanh. 10B + n th → [11B]* → α + 7Li + 2,31 MeV Bên cạnh đó, ghi hình PET (18F-BPA-PET) có thể giúp đánh giá sự tập trung boron trong khối u trước khi điều trị. 5.14. Y học phóng xạ nano (Radionanomedicine) Đây là một hướng đi rất mới trên thế giới hiện nay, sử dụng các thuốc có kích thước nano (1-100 nm) được đánh dấu phóng xạ ứng dụng trong chẩn đoán, theo dõi, điều trị, phòng bệnh. So với các thuốc trọng lượng phân tử thấp truyền thống, các thuốc nano đánh dấu phóng xạ này mang nhiều ưu điểm về dược động học, vượt được các hàng rào sinh học và có thể tập trung tại mô đích cho chất lượng ghi hình chẩn đoán cũng như hiệu quả điều trị cao. Đây là một hướng đi rất hứa hẹn trong chẩn đoán và điều trị nhiều bệnh lý đặc biệt là các ung thư. Hiện nay, nhiều nghiên cứu vẫn đang được tiến hành với để phát triển kỹ thuật cũng như chứng minh hiệu quả và tính an THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 22 Số 61 - Tháng 12/2019 toàn của liệu pháp này. KẾT LUẬN Ngày nay, việc chẩn đoán và điều trị bệnh đặc biệt với ung thư yêu cầu sự kết hợp của nhiều chuyên khoa như: chẩn đoán hình ảnh, y học hạt nhân, giải phẫu bệnh, sinh hóa, miễn dịch, phẫu thuật, xạ trị, nội khoa, để đạt được kết quả tốt nhất cho người bệnh. Trong tương lai, các kỹ thuật ứng dụng công nghệ bức xạ tiên tiến như PET/MRI, điều trị miễn dịch phóng xạ, xạ trị sử dụng proton và ion nặng, xạ trị kích hoạt neutron, sử dụng các dược chất phóng xạ mới trong chẩn đoán và đặc biệt trong điều trị sẽ sớm được nghiên cứu áp dụng tại Việt Nam. Mai Trọng Khoa Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai _________________________________ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Felipe A (2017), Intraoperative irradiation: precision medicine for quality cancer control promotion, Radiation oncology 2017, doi.org/10.1186/s13014-017-0764-5 2. Francesco G, Lisa B et al (2011), EANM procedure guidelines for the treatment of liver cancer and liver metastases with intra-arterial radioactive compounds, Eur J Nucl Med Mol Imaging, DOI 10.1007/s00259-011-1812-2. 3. Mai Trong Khoa và CS (2019). Đánh giá kết qủa điều trị 5600 bệnh nhân u não và một số bệnh lý sọ não bằng dao gamma quay tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, bệnh viện Bạch Mai. Y học thực hành, số 1 (1088), 2019, tr: 62- 69. 4. IAEA 2016: Boron Neutron Capture Therapy Back in Limelight After Successful Trials, iaea.org 5. Hidekazu K (2014), Radioimmunotherapy: A Specific Treatment Protocol for Cancer by Cytotoxic Radioisotopes Conjugated to Antibodies, The Scientific World Journal, Volume 2014 (2014), Article ID 492061doi10.1155/2014/492061. 6. Nancy S, Boris GN, Eric SE et al (2017): Peptide repceptor radionuclide therapy (PRRT) Outcomes in a North American Cohort with metastatic well differentiated neuroendocrine tumors, Pancreas 2017 Feb;46(2): 151-156. 7. Yana D, Marleen K, Ahmet K et al (2016): Targeted alpha therapy using short-lived alpha-particles and the promise of nanobodies as targeting vehicle, Expert Opin Biol Ther, 2016 Aug 2; 16(8): 1035–1047. 8. Sally Tinkle et al (2014), Nanomedicines: addressing the scientific and regulatory gap, Ann. N.Y. Acad. Sci. 2014,1313:35-56. 9. Dong Soo Lee, Hyung-Jun Im, Yun- Sang Lee (2015), Radionanomedicine: Widened perspectives of molecular theragnosis, 2015, 11: 795-810. 10. Edwin C. Pratt, Travis M. Shaffer, and Jan Grimm (2016), Nanoparticles and Radiotracers: Advances toward RadioNanomedicine, Wiley Interdiscip Rev Nanomed Nanobiotechnol, 2016; 8(6): 872–890. 11. Vincent t DeVita, Theodore S. Lawrence, Steven A. Rosenberg (2014), Cancer Principles and Practice of Onco.
File đính kèm:
- thuc_trang_ung_dung_buc_xa_ion_hoa_trong_dieu_tri_ung_thu_va.pdf