Thực trạng thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi trung ương

Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Nhi Trung ương với mục tiêu mô tả thực trạng và xác định một số yếu tố liên quan đến tuân thủ quy trình tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại bệnh viện Nhi Trung ương năm 2017.

Thực trạng thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi trung ương trang 1

Trang 1

Thực trạng thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi trung ương trang 2

Trang 2

Thực trạng thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi trung ương trang 3

Trang 3

Thực trạng thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi trung ương trang 4

Trang 4

Thực trạng thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi trung ương trang 5

Trang 5

Thực trạng thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi trung ương trang 6

Trang 6

Thực trạng thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi trung ương trang 7

Trang 7

Thực trạng thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi trung ương trang 8

Trang 8

Thực trạng thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi trung ương trang 9

Trang 9

pdf 9 trang Danh Thịnh 13/01/2024 1960
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi trung ương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi trung ương

Thực trạng thực hành tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại Bệnh viện Nhi trung ương
 TCNCYH 112 (3) - 2018 101 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
THỰC TRẠNG THỰC HÀNH TIÊM TĨNH MẠCH AN TOÀN 
CỦA ĐIỀU DƯỠNG TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG 
Nguyễn Thị Hoài Thu 
Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội 
Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Nhi Trung ương với mục tiêu mô tả thực trạng và xác định một 
số yếu tố liên quan đến tuân thủ quy trình tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng tại bệnh viện Nhi Trung 
ương năm 2017. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng phương pháp định lượng, khảo sát trên tổng 
số 146 điều dưỡng tại 08 khoa lâm sàng và quan sát trực tiếp 292 mũi tiêm do điều dưỡng thực hiện. Kết 
quả nghiên cứu cho thấy, 39,0% điều dưỡng có thực hành đạt về tiêm tĩnh mạch an toàn. Kết quả phân tích 
hồi quy logistic cho thấy giới tính, tham gia tập huấn tại bệnh viện, có mối liên quan có ý nghĩa thống kê tới 
thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng viên (p < 0,05). 
Từ khóa: Tiêm tĩnh mạch an toàn, quy trình tiêm an toàn, điều dưỡng, bệnh viện Nhi Trung ương 
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Hoài Thu, Viện Đào tạo Y học 
dự phòng và Y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội 
Email: nguyenhoaithu@hmu.edu.vn 
Ngày nhận: 21/3/2018 
Ngày được chấp thuận: 5/6/2018 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Tiêm không an toàn gây ra các tác động 
mang tính toàn cầu bao gồm: sức khỏe, kinh 
tế, gánh nặng tâm lý, xã hội và các lĩnh vực 
khác ở nhiều cấp độ khác nhau (cá nhân, gia 
đình, cộng đồng, quốc gia...). Nghiên cứu của 
Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organi-
zation – WHO) cho thấy tiêm không an toàn 
gây nên khoảng 250 ngàn trường hợp nhiễm 
HIV mới mỗi năm, chiếm khoảng 5% các 
trường hợp nhiễm HIV mới [1]. 
Tại các nước phát triển, tiêm không an 
toàn gây nên khoảng 1/3 những trường hợp 
nhiễm mới virus viêm gan B và là nguyên 
nhân chủ yếu của những trường hợp nhiễm 
virus viêm gan C, gây nên khoảng 2 triệu 
trường hợp nhiễm mới mỗi năm chiếm trên 
40% những trường hợp nhiễm virus viêm gan 
C [2]. Đối với nhân viên y tế, mũi tiêm không 
an toàn có thể dẫn đến những hậu quả khó 
lường mà chủ yếu là những bệnh lây qua 
đường máu như: viêm gan B, C^một mắt 
xích quan trọng của quá trình lây bệnh từ 
người bệnh sang nhân viên y tế qua đường 
máu là các tai nạn do vật sắc nhọn. Theo 
WHO, đối tượng bị tai nạn nghề nghiệp do kim 
đâm vào tay chiếm tỷ lệ cao nhất là điều 
dưỡng (44 - 72%) [3; 4]. Dolan và cộng sự 
(2010) đã chỉ ra rằng các nhân viên phải có 
kiến thức, đào tạo và thiết bị dễ thực hiện các 
thủ thuật tiêm truyền một cách an toàn [5]. 
Tiêm là kỹ thuật đòi hỏi sự an toàn và 
được thực hiện nhiều nhất trong công việc 
của người điều dưỡng, vì vậy việc tuân thủ 
quy trình tiêm an toàn là bắt buộc đối với điều 
dưỡng viên nhằm đảm bảo an toàn người 
bệnh. Trong thông tư 07/2011/TT-BYT năm 
2011 của Bộ Y tế cũng bao gồm các nội dung 
liên quan đến tiêm an toàn trong công tác 
chăm sóc người bệnh [6]. Thực hành tiêm an 
toàn đã được hướng dẫn cụ thể thông qua 
quyết định số 3671/QĐ-BYT ngày 27/09/2012 
của Bộ Y tế “Hướng dẫn tiêm an toàn trong 
các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh” nhằm nâng 
cao việc tuân thủ quy trình tiêm an toàn của 
 102 TCNCYH 112 (3) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
điều dưỡng, cũng như đạt được các Chuẩn 
năng lực Điều dưỡng Việt Nam [7; 8]. Vì vậy, 
nghiên cứu này được tiến hành nhằm “mô tả 
thực trạng tuân thủ quy trình tiêm tĩnh mạch an 
toàn và một số yếu tố liên quan đến tuân thủ 
quy trình tiêm an toàn của điều dưỡng tại 
Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2017”. 
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
1. Đối tượng 
Điều dưỡng chăm sóc người bệnh trực 
tiếp hiện đang làm việc tại 08 khoa lâm sàng 
của bệnh viện Nhi Trung ương (Khoa Hồi sức 
cấp cứu; Hồi sức Ngoại; Tự nguyện A; Tự 
nguyện B; Tự nguyện C; Hô hấp A20; Tiêu 
hóa A7; Chấn thương chỉnh hình). 
2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 2 
năm 2017 đến tháng 30 tháng 6 năm 2017 tại 
bệnh viện Nhi Trung ương. 
3. Thiết kế nghiên cứu 
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử 
dụng phương pháp định lượng. 
4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu 
Chọn toàn bộ 146 điều dưỡng tại 08 khoa 
lâm sáng đáp ứng các. 
Tiêu chuẩn lựa chọn: điều dưỡng đang 
công tác tại 8 khoa lâm sàng, có thời gian 
công tác từ 03 năm trở lên, có tiếp xúc trực 
tiếp với người bệnh và đồng ý tham gia 
nghiên cứu; 
Tiêu chuẩn loại trừ: điều dưỡng đi học, 
nghỉ dài hạn, nghỉ thai sản. Đồng thời, tiến 
hành quan sát 02 mũi tiêm tĩnh mạch/ 1 điều 
dưỡng. Như vậy, cỡ mẫu của nghiên cứu là 
146 điều dưỡng, với 292 mũi tiêm tĩnh mạch 
được quan sát. 
5. Phương pháp thu thập số liệu 
Sử dụng bảng kiểm quan sát 02 lần thực 
hiện quy trình tiêm tĩnh mạch của mỗi điều 
dưỡng tại 08 khoa lựa chọn vào nghiên cứu. 
Sau đó, sử dụng bộ câu hỏi phát vấn tìm hiểu 
phương tiện, dụng cụ sử dụng trong tiêm an 
toàn của điều dưỡng. Các công cụ nghiên cứu 
được thiết kế, thử nghiệm và điều chỉnh phù 
hợp trước khi tiến hành nghiên cứu. 
Người quan sát là các điều dưỡng trưởng 
của các khoa, được tập huấn về quy trình tiêm 
an toàn, kỹ năng quan sát và sử dụng bảng 
kiểm. 
6. Bộ công cụ và các biến số nghiên 
cứu 
Các biến số về tuân thủ quy trình tiêm an 
toàn được xây dựng theo quy định của Bộ Y 
tế về thực hiện mũi tiêm an toàn, gồm 20 tiêu 
chuẩn bao gồm các nội dung về chuẩn bị 
phương tiện dụng cụ tiêm; kiểm soát nhiễm 
khuẩn; kỹ thuật tiêm; giao tiếp với người bệnh; 
đảm bảo an toàn. Tài liệu hướng dẫn được 
ban hành kèm theo quyết định số 3671/QĐ-
BYT ngày 27 tháng 9 năm 2012. Trong đó, 
thực hành quy trình tiêm an toàn bao gồm 
chuẩn bị người bệnh, chuẩn bị dụng cụ, thuốc 
tiêm, thực hiện kỹ thuật tiêm thuốc và xử lý 
chất thải sau tiêm. Tuy nhiên hiện tại bệnh 
viện đã xây dựng quy trình gồm 22 tiêu chí 
nên nghiên cứu này sử dụng bảng kiểm thực 
hành tiêm an toàn 22 tiêu chí. 
Tiêu chuẩn đánh giá thực hành quy 
trình kỹ thuật tiêm tĩnh mạch an toàn 
- Đánh giá thực hiện tiêm, tru ... 30 tuổi 76 52,1 
 104 TCNCYH 112 (3) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Đặc điểm n Tỷ lệ (%) 
Trình độ chuyên môn 
 Trung cấp 83 56,8 
 Cao đẳng và đại học 63 43,2 
Thời gian công tác 
 < 5 năm 50 34,2 
 5 - 10 năm 50 34,2 
 > 10 năm 46 31,6 
Đã từng tham gia tập huấn tiêm an toàn 
 Đã từng 109 74,7 
 Chưa từng 37 25,3 
Tổng số đối tượng tham gia vào nghiên cứu là 146 điều dưỡng, trong đó điều dưỡng nữ 
chiếm đa số (84,9%) so với điều dưỡng nam (15,1%). Tuổi trung bình của điều dưỡng trong 
nghiên cứu là 32,2 ± 6,2, cao nhất là 55 tuổi và thấp nhất là 23 tuổi. Trình độ chuyên môn từ 
trung cấp trở xuống chiếm 56,8%, nhóm từ cao đẳng và đại học trở lên chiếm 43,2%. Thời gian 
công tác trung bình của các điều dưỡng tham gia nghiên cứu là 8,7 ± 6,1 năm. Tỷ lệ điều dưỡng 
đã từng tham gia các lớp tập huấn về tiêm an toàn trong vòng 12 tháng qua chiếm 74,7%. 
2. Thực trạng tuân thủ tiêm an toàn của điều dưỡng 
2.1 Thực hiện quy trình tiêm tĩnh mạch 
Bảng 2. Thực hành các bước chuẩn bị tiêm của điều dưỡng (n = 146) 
Các bước tiến hành 
Đạt 
n % 
Chuẩn bị người bệnh 
Thực hiện 5 đúng, nhận định, giải thích cho người bệnh biết việc mình sắp 
làm, trợ giúp tư thế an toàn, thuận tiện 
140 95,9 
Sử dụng phương tiện phòng hộ 135 92,5 
Điều dưỡng viên rửa tay thường qui/sát khuẩn tay nhanh 108 74,0 
Chuẩn bị dụng cụ 
Hộp chống sốc, cơ số và còn hạn sử dụng 144 98,6 
Thùng đựng VSN và thùng đựng chất thải 143 97,9 
Bông gạc tẩm cồn đúng quy định 134 91,8 
Chai đựng dung dịch sát khuẩn tay nhanh có sẵn trên xe tiêm 140 95,9 
 TCNCYH 112 (3) - 2018 105 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Các bước tiến hành 
Đạt 
n % 
Chuẩn bị thuốc tiêm 
Kiểm tra lại thuốc, sát khuẩn ống thuốc, dùng gạc vô khuẩn bẻ ống thuốc 61 41,8 
Xé bỏ bao bơm tiêm và thay kim lấy thuốc 140 95,9 
Thay kim tiêm, cho vào bao vừa đựng bơm tiêm vô khuẩn 53 36,3 
Kim lấy thuốc và kim tiêm không chạm vào vùng không vô khuẩn 116 79,5 
Tại bước chuẩn bị người bệnh, 95,9% điều dưỡng thực hiện 5 đúng, nhận định, giải thích cho 
người bệnh biết việc mình sắp làm, trợ giúp tư thế an toàn, thuận tiện. Có khoảng 74,0% điều 
dưỡng rửa tay thường quy/sát khuẩn tay nhanh khi chuẩn bị tiêm. 
Thực hiện chuẩn bị dụng cụ tiêm của điều dưỡng khá tốt, 98,6% điều dưỡng chuẩn bị hộp 
chống sốc, cơ sổ thuốc tiêm và còn hạn sử dụng; 97,9% điều dưỡng chuẩn bị thùng đựng vật sắc 
nhọn và thùng đựng chất thải. Qua đó cho thấy, tỷ lệ điều dưỡng có thực hành đạt trong bước 
chuẩn bị dụng cụ tiêm là tương đối tốt, chỉ có một số ít điều dưỡng có thực hành chưa đạt ở 
bước này. 
Về thực hành chuẩn bị thuốc tiêm của điều dưỡng, chỉ có khoảng 41,8% điều dưỡng thực 
hiện kiểm tra lại thuốc, sát khuẩn ống thuốc, dùng gạc vô khuẩn bẻ thuốc. 95,9% điều dưỡng 
thực hiện xé bỏ bao bơm tiêm và thay kim lấy thuốc. 
2.2. Thực hiện kỹ thuật tiêm và xử lý chất thải sau tiêm 
Bảng 3. Thực hành các kỹ thuật tiêm thuốc và xử lý chất thải sau tiêm 
của điều dưỡng (n = 146) 
Các bước tiến hành 
Đạt 
n % 
Kỹ thuật tiêm thuốc 
Xác định vị trí tiêm, đặt gối kê tay và thắt dây garo đúng quy định (dây garo trên 
vị trí tiêm 10 - 15 cm) 
119 81,5 
Sát khuẩn vùng tiêm từ trong ra ngoài theo hình xoáy ốc đường kính trên 10 
cm cho đến khi sạch (tối thiểu 2 lần) 
68 46,6 
Sát khuẩn tay nhanh hoặc mang găng tay đúng qui định 47 32,2 
Căng da theo đúng quy định: kim tiêm chếch 30° so với mặt và đảm bảo mũi 
vát của kim đã nằm trong lòng ven 
136 93,2 
Bơm thuốc chậm: vừa bơm vừa quan sát sắc mặt của người bệnh 135 92,5 
Hết thuốc, căng da rút kim nhanh, cho ngay bơm kim tiêm vào hộp an toàn 55 37,7 
 106 TCNCYH 112 (3) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Các bước tiến hành 
Đạt 
n % 
Kỹ thuật tiêm thuốc 
Sát khuẩn lại vị trí tiêm, dùng bông khô đặt lên vị trí tiêm phòng chảy máu 71 48,6 
Hướng dẫn người bệnh những điều cần thiết, để người bệnh trở lại tư thế thích 137 93,8 
Xử lý chất thải sau tiêm 
Không dùng hai tay để đậy nắp kim tiêm hoặc tháo kim tiêm ra khỏi bơm tiêm 65 44,5 
Phân loại rác thải sau tiêm đúng quy định 120 82,2 
Rửa tay/ sát khuẩn tay nhanh ngay sau khi kết thúc quy trình 106 72,6 
Về thực hiện kỹ thuật tiêm thuốc, có 81,5% điều dưỡng thực hành đạt xác định vị trí tiêm, 
đặt gối kê tay và thắt dây garo đúng quy định (dây garo trên vị trí tiêm 10 - 15 cm). 46,6% điều 
dưỡng thực hành đạt sát khuẩn vùng tiêm từ trong ra ngoài theo hình xoáy ốc đường kính trên 
10 cm cho đến khi sạch (tối thiểu 2 lần). Tỷ lệ điều dưỡng đạt về sát khuẩn tay nhanh hoặc 
mang găng tay đúng qui định là 32,2%. Có 93,2% điều dưỡng thực hành đạt về căng da theo 
đúng quy định (kim tiêm chếch 30° so với mặt và đảm bảo mũi vát của kim đã nằm trong lòng 
ven), 92,5% điều dưỡng thực hành đạt về bơm thuốc khi tiêm cho người bệnh (bơm thuốc 
chậm, vừa bơm vừa quan sát sắc mặt của người bệnh). 
Về xử lý chất thải sau tiêm, 82,2% điều dưỡng thực hành đạt về phân loại rác thải sau tiêm 
đúng quy định, 72,6% điều dưỡng thực hiện rửa tay/sát khuẩn tay nhanh ngay sau khi kết thúc 
quy trình tiêm. 
Đánh giá chung về thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng trong nghiên cứu này cho thấy, tỷ 
lệ điều dưỡng có thực hành đạt về tiêm an toàn chỉ là 39,0% và không đạt là 61,0%. Thực hành 
tiêm an toàn của điều dưỡng đạt cao nhất tại khoa Hồi sức tích cực (100%), tiếp đến là khoa Hồi 
sức ngoại (51,2%), các khoa còn lại có tỷ lệ thực hành đạt về tiêm an toàn còn khá thấp hoặc 
thậm chí chưa đạt về thực hành tiêm an toàn dựa theo các tiêu chí đánh giá thực hành tiêm 
an toàn. 
3.3. Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ tiêm an toàn của điều dưỡng 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ tuân thủ quy trình tiêm an toàn đạt ở điều dưỡng nam là 
63,6% cao hơn so với điều dưỡng nữ là 34,7%, có thể thấy rằng nguy cơ thực hiện quy trình tiêm 
an toàn không đạt ở nhóm điều dưỡng nữ cao hơn 3,297 lần so với nhóm điều dưỡng nam (OR 
= 3,297; CI 95%: 1,282 - 8,474). Tỷ lệ tuân thủ tiêm an toàn đạt của nhóm điều dưỡng đã từng 
tham gia tập huấn về tiêm an toàn cao hơn 7,808 lần so với nhóm điều dưỡng chưa từng tham 
gia tập huấn về tiêm an toàn (OR = 7,808; CI 95%: 2,590 - 23,540) (bảng 4). 
 TCNCYH 112 (3) - 2018 107 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
Yếu tố 
Thực hiện tiêm 
tĩnh mạch an toàn OR CI 95% p 
Không đạt (%) Đạt (%) 
Nhóm tuổi 
≤ 30 39 (55,7) 31 (44,3) 1,529 
0,783 - 2,983 0,213 
>30 50 (65,8) 26 (34,2) 1 
Giới 
Nữ 81 (65,3) 43 (34,7) 1 
1,282 - 8,474 
Nam 8 (36,4) 14 (63,6) 3,297 
Trình độ chuyên môn 
Trung cấp 46 (55,4) 37 (44,6) 1,729 
0,872 - 3,429 0,115 Đại học và 
cao đẳng 
43 (68,3) 20 (31,7) 1 
Thời gian công tác 
≤ 10 năm 59 (59,0) 41 (41,0) 1,303 
0,630 - 2,693 0,474 
> 10 năm 30 (65,2) 16 (34,8) 1 
Đã tham gia tập huấn tiêm an toàn 
Đã từng 53 (48,6) 56 (51,4) 1 
2,590 - 23,540 < 0,001* 
Chưa từng 4 (10,8) 33 (89,2) 7,808 
Kiến thức về tiêm an toàn 
Đạt 38 (42,7) 51 (57,3) 1 0.336-1,341 0,081 
Không đạt 19 (33,3) 38 (66,7) 0,671 
0,010* 
IV. BÀN LUẬN 
Thực trạng tiêm an toàn của điều 
dưỡng tại bệnh viện 
Đánh giá chung của nghiên cứu về thực 
hành tiêm an toàn đạt tỷ lệ 39%, cao hơn 
nghiên cứu của Trần Thị Minh Phượng 22,2% 
[10]. Lý giải việc này có thể là do điều dưỡng 
Bảng 4. Mối liên quan giữa thực hành tiêm an toàn của điều dưỡng với các yếu tố 
nhân khẩu/nghề nghiệp (n = 146) 
trong nghiên cứu của chúng tôi tập trung chủ 
yếu ở nhóm tuổi từ 30 tuổi trở nên, có thời 
gian công tác chủ yếu từ trên 5 năm, làm việc 
theo thói quen. Do vậy, những nội dung trước 
về tiêm an toàn đa số điều dưỡng thực hiện 
được, chỉ có một số hoạt động mới cập nhật 
trong Hướng dẫn tiêm an toàn thì điều dưỡng 
 108 TCNCYH 112 (3) - 2018 
 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
tại bệnh viện hiện nay vẫn làm chưa tốt. Chính 
vì vậy, tại các khoa cần có công tác đào tạo 
trực tiếp cho điều dưỡng dưới hình thức cầm 
tay chỉ việc, cập nhật cho điều dưỡng cũ, đào 
tạo cho điều dưỡng mới. Tại bệnh viện cũng 
cần mở thêm những lớp tiêm an toàn bao 
gồm cả lý thuyết lẫn thực hành cho toàn bộ 
điều dưỡng trong bệnh viện. 
Một số yếu tố liên quan đến thực hành 
tiêm an toàn của điều dưỡng 
Kết quả nghiên cứu chỉ ra, giới tính có mối 
liên quan có ý nghĩa thống kế với thực hiện 
tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng (p < 
0,05). Kết quả này không tương đồng với kết 
quả nghiên cứu của Trần Thị Minh Phượng 
(2012) và tương đồng với kết quả của Huỳnh 
Thị Mỹ Thanh (2010) [10; 11]. Tại bệnh viện 
các khoa này cũng đòi hỏi người điều dưỡng 
phải có trình độ chuyên môn cao nên kiến 
thức về chăm sóc bệnh nhân cũng như tiêm 
an toàn luôn được cập nhật. Nam giới có ưu 
thế hơn nữ về thời gian, ít bị phân tâm về việc 
chăm sóc con cái, chính vì thế có thể giải 
thích được kết quả nghiên cứu như trên tại 
bệnh viện Nhi Trung ương. 
Ngoài ra, các yếu tố khác như tuổi, trình độ 
chuyên môn, thâm niên công tác, kênh cung 
cấp thông tin tiêm an toàn và kiến thức về 
tiêm an toàn của điều dưỡng, nghiên cứu 
chưa chỉ ra được mối liên quan có ý nghĩa 
thống kê giữa tuân thủ quy trình tiêm tĩnh 
mạch an toàn của điều dưỡng với (p > 0,05). 
Kết quả này có thể được lý giải do tại Bệnh 
viện Nhi Trung ương trước khi được làm việc 
chính thức tại bệnh viện tất cả các điều 
dưỡng đều phải học qua lớp chuyên khoa 
Nhi 06 tháng với nội dung chính là cập nhật 
kiến thức và thực hành về các chăm sóc điều 
dưỡng Nhi khoa với những quy trình được 
xây dựng riêng cho bệnh viện và tất cả các 
điều dưỡng đều chăm sóc bệnh nhân theo 
quy trình chung này. 
Kết quả khảo sát cho thấy, 74,7% điều 
dưỡng đã từng tham gia lớp tập huấn về tiêm 
an toàn. Việc tham gia tập huấn tại bệnh viện 
của đối tượng nghiên cứu cũng có mối liên 
quan có ý nghĩa thống kê với tuân thủ quy 
trình tiêm tĩnh mạch an toàn của điều dưỡng 
(p < 0,05). Kết quả này tương đồng với nghiên 
cứu của Đào Thành [12]. Như vậy có thể nói 
việc được tham gia các lớp tập huấn về tiêm 
an toàn tại bệnh viện sẽ giúp cho điều dưỡng 
thực hiện tốt hơn khi thực hành quy trình tiêm 
an toàn. Tại Bệnh viện Nhi Trung ương hiện 
nay, việc đào tạo thực hành tiêm an toàn chủ 
yếu được làm tại các khoa lâm sàng, kết quả 
này cũng phản ánh một thực tế là tỷ lệ điều 
dưỡng được hướng dẫn thực hành cụ thể 
theo quy trình chuẩn tại các khoa vẫn chưa 
được làm thường xuyên dẫn đến những thiếu 
sót về chuyên môn và làm tăng nguy cơ rủi ro 
cho điều dưỡng khi thực hành tiêm tĩnh mạch 
an toàn là không thể tránh khỏi, trong cả thực 
hành lẫn trong khâu kiểm tra, giám sát. 
V. KẾT LUẬN 
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ điều dưỡng 
thực hành tiêm an toàn đạt là 39,0%. Kết quả 
phân tích hồi quy logistic cho thấy giới tính, có 
tham gia tập huấn về tiêm an toàn tại bệnh 
viện có mối liên quan có ý nghĩa thống kê tới 
việc tuân thủ quy trình tiêm an toàn của điều 
dưỡng viên tại bệnh viện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hauri AM, Armstrong GL and Hutin YJ 
(2004). The global burden of diease attribut-
able to contaminated injections given in health 
care settings. Int J STD AIDS, 15(1), 7 - 16. 
 TCNCYH 112 (3) - 2018 109 
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 
2. WHO (2010). Strategy for the safe and 
appropriate use of injection worldwide. Ge-
neva. 
3. WHO và Bộ Y tế (2005). Không gây hại: 
Tiêm an toàn trong mối quan hệ với phòng, 
chống nhiễm khuẩn, Hà Nội. 
4. CDC (2007). Injection Safety: Guidelines 
from the Centre for Disease Control and Pre-
vention”, Guideline for isolation precautions: 
preventing transmission of infectious agents in 
health care settings 2007, Department of 
Health and Human Services, Atlanta. 
5. Susan A. Dolan (2010). APIC position 
paper: Safe injection, infusion, and medication 
vial practices in health care. American Journal 
of Infection Control, 38, 167 – 172. 
6. Bộ Y tế (2011). Thông tư số 07/2011/TT
- BYT ngày 26/1/2011 về việc hướng dẫn 
công tác điều dưỡng về chăm sóc người bệnh 
trong bệnh viện. 
7. Bộ Y tế (2012). Chuẩn Năng lực của 
điều dưỡng Việt Nam ban hành kèm Quyết 
định số 1352/QĐ- BYT ngày 21/4/2012 về việc 
chuẩn năng lực cơ bản của Điều dưỡng Việt 
Nam. 
8. Bộ Y tế (2012). Hướng dẫn Tiêm an 
toàn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh 
ban hành kèm Quyết định số 3671/QĐ- BYT 
ngày 27/9/ 2012 về việc hướng dẫn tiêm an 
toàn trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. 
9. Phòng Điều dưỡng – Bộ Y tế (2008). 
Kết quả nghiên cứu tiêm an toàn tại bệnh viện 
điểm – Tài liệu tiêm an toàn, Hà Nội. 
10. Trần Thị Minh Phượng, Phan Văn 
Tường và Bùi Thị Mỹ Anh (2012). Đánh giá 
thực hiện tiêm an toàn tại bệnh viện Đa khoa 
Hà Đông, Hà Nội, năm 2012. Tạp chí Y học 
thực hành, 30(3), 25 - 32. 
11. Huỳnh Thị Mỹ Thanh (2010). Hiện 
trạng về tiêm an toàn, Bệnh viện Đa khoa An 
Giang. Tạp chí Y học thực hành, 857(1), 61 -
63. 
12. Đào Thành (2005). Đánh giá thực hiện 
Tiêm an toàn tại 8 tỉnh đại diện năm 2005. Kỷ 
yếu đề tài nghiên cứu khoa học điều dưỡng 
toàn quốc lần thứ II năm 2005. Hội Điều 
dưỡng Việt Nam, Hà Nội, 217 - 223. 
Summary 
SAFETY INJECTION AND ASSOCIATED FACTORS AMONG NURSES 
IN NATIONAL HOSPITAL OF PEDIACTRICS 
A cross sectional study was conducted in 2017, for the purpose to describe the proportion of 
safety injection and its associated factors among nurses at the National Hospital of Pediatrics, 
Vietnam. The study design employing with the quatitative method that surveyed on a total of 146 
nurses and 292 observed-injections. The study tools including the self-administered questionnaire 
and checklists were tested and revised before officially being used for data collection. The find-
ings show the proportions of properly knowledge and practice of safety injection among nurses 
were 61.0% and 39.0%, respectively. The study has explored the statistically association between 
safety injection with those factors as gender, participating in safety injection training (p < 0.05). 
Keywords: Safety injection, nurse, health care, National Hospital of Pediatrics, Vietnam 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_thuc_hanh_tiem_tinh_mach_an_toan_cua_dieu_duong_t.pdf