Thực trạng stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên đại học năm cuối ngành dược tại Đồng Nai

 Sinh viên ngành Dược được cho là có nguy cơ cao gặp phải các vấn đề về sức khỏe tâm thần

bao gồm stress, lo âu, và trầm cảm, đặc biệt là trong giai đoạn chuẩn bị tốt nghiệp. Mục đích của nghiên

cứu này là khảo sát mô tả cắt ngang có phân tích tỷ lệ stress, lo âu và trầm cảm của sinh viên năm cuối

ngành Dược (năm học 2019 - 2020) tại 2 trường Đại học ở Đồng Nai theo thang đánh giá DASS21. Kết

quả nghiên cứu trên 134 khách thể cho thấy, tỷ lệ sinh viên có biểu hiện stress, lo âu và trầm cảm lần

lượt là 16.4%, 29.8% và 38.8%; trong đó, tỷ lệ lo âu mức độ nặng chiếm 6%, trầm cảm nặng chiếm

0.7%. Có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa các nhóm sinh viên có xếp loại học lực khác nhau. Những

kết quả này giúp nhà trường thiết kế các chiến lược can thiệp phù hợp cải thiện sức khỏe tâm thần của

sinh viên nhằm làm giảm các sai sót thực hành Dược lâm sàng trong tương lai.

Thực trạng stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên đại học năm cuối ngành dược tại Đồng Nai trang 1

Trang 1

Thực trạng stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên đại học năm cuối ngành dược tại Đồng Nai trang 2

Trang 2

Thực trạng stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên đại học năm cuối ngành dược tại Đồng Nai trang 3

Trang 3

Thực trạng stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên đại học năm cuối ngành dược tại Đồng Nai trang 4

Trang 4

Thực trạng stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên đại học năm cuối ngành dược tại Đồng Nai trang 5

Trang 5

Thực trạng stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên đại học năm cuối ngành dược tại Đồng Nai trang 6

Trang 6

pdf 6 trang minhkhanh 32520
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên đại học năm cuối ngành dược tại Đồng Nai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên đại học năm cuối ngành dược tại Đồng Nai

Thực trạng stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên đại học năm cuối ngành dược tại Đồng Nai
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education, ISSN: 1859 - 4603 
DOI: https://doi.org/10.47393/jshe.v10i4.904 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC 
32 | Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 10, Số 2 (2020), 32-37 
a, b, c Bệnh viện Tâm thần Trung ương 2 
* Tác giả liên hệ 
 Nguyễn Thị Bích Tuyền 
 Email: bichtuyen.psy@gmail.com 
Nhận bài: 
 29 – 04 – 2020 
Chấp nhận đăng: 
 10 – 06 – 2020 
THỰC TRẠNG STRESS, LO ÂU, TRẦM CẢM 
CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC NĂM CUỐI NGÀNH DƯỢC TẠI ĐỒNG NAI 
Nguyễn Thị Bích Tuyềna*, Nguyễn Thanh Trúcb, Lê Kim Phụngc 
Tóm tắt: Sinh viên ngành Dược được cho là có nguy cơ cao gặp phải các vấn đề về sức khỏe tâm thần 
bao gồm stress, lo âu, và trầm cảm, đặc biệt là trong giai đoạn chuẩn bị tốt nghiệp. Mục đích của nghiên 
cứu này là khảo sát mô tả cắt ngang có phân tích tỷ lệ stress, lo âu và trầm cảm của sinh viên năm cuối 
ngành Dược (năm học 2019 - 2020) tại 2 trường Đại học ở Đồng Nai theo thang đánh giá DASS21. Kết 
quả nghiên cứu trên 134 khách thể cho thấy, tỷ lệ sinh viên có biểu hiện stress, lo âu và trầm cảm lần 
lượt là 16.4%, 29.8% và 38.8%; trong đó, tỷ lệ lo âu mức độ nặng chiếm 6%, trầm cảm nặng chiếm 
0.7%. Có sự khác biệt ý nghĩa thống kê giữa các nhóm sinh viên có xếp loại học lực khác nhau. Những 
kết quả này giúp nhà trường thiết kế các chiến lược can thiệp phù hợp cải thiện sức khỏe tâm thần của 
sinh viên nhằm làm giảm các sai sót thực hành Dược lâm sàng trong tương lai. 
Từ khóa: sinh viên năm cuối; ngành Dược; sức khỏe tâm thần; Đồng Nai; đại học. 
1. Đặt vấn đề 
Sinh viên năm cuối khối ngành Y, Dược được 
chuẩn bị đầy đủ về cơ sở lý luận và thực hành nghề để 
tăng cường chăm sóc sức khỏe người bệnh tốt hơn sau 
khi hoàn thành chương trình đào tạo chuyên nghiệp 
(Vaidya PM, Mulgaonkar KP, 2007). Thế nhưng, sinh 
viên giai đoạn này lại phải đối mặt với những yếu tố 
gây căng thẳng, lo âu đáng kể gây nên những tác động 
tiêu cực đến cuộc sống bản thân. Nghiên cứu của 
Gushae J (1997) thực hiện tại Anh cho thấy 1/3 sinh 
viên gặp các vấn đề rối loạn sức khỏe tâm thần không 
thể tốt nghiệp đại học. Nghiên cứu của Lê Minh Thuận 
(2011) khảo sát trên 252 sinh viên khoa Y tại Đại học 
Y Dược TPHCM cho thấy, tỷ lệ sinh viên có biểu hiện 
lo âu mức độ nặng và rất nặng lần lượt là 12% và 11%, 
tỷ lệ sinh viên stress nặng là 2% và trầm cảm nặng là 
2%. Sự gia tăng mức độ stress, lo âu và trầm cảm có 
thể gây cản trở chương trình thực hành nghề ở trường 
(Kessler R.C., Walters E.E. et al, 1998), ảnh hưởng 
đến kinh tế xã hội (Hysenbegasi A., Hass S.L., 
Rowland C.R., Rehnberg C., 2005) và suy giảm chất 
lượng cuộc sống (Marshall L.L., Allison A., Nykamp 
D., Lanke S., 2008) của sinh viên. 
Stress được định nghĩa là phản ứng của cơ thể trước 
những kích thích, áp lực mang tính đe dọa từ cuộc sống, 
bao gồm cả những trải nghiệm căng thẳng trong đời 
sống đại học của sinh viên. Cũng giống như stress, 
nhưng lo âu còn kèm theo một nỗi sợ hãi được khơi dậy 
từ bên trong (có thể là thực tế hoặc tưởng tượng), là một 
phản ứng vô thức đối với các khuynh hướng trầm cảm 
có thể chuyển thành sợ hãi hoặc cơn hoảng sợ nghiêm 
trọng (Hysenbegasi A. et al, 2005). Trầm cảm là một 
tình trạng được đặc trưng bởi biểu hiện buồn bã, cảm 
giác trống rỗng, vô vọng và mất hứng thú hầu hết thời 
gian trong ngày (American Psychiatric Association, 
2013). Stress, lo âu và trầm cảm là những chỉ số cơ bản 
để đánh giá sức khỏe tâm thần của một người, chúng 
thường xuất hiện đồng thời; các triệu chứng stress và 
trầm cảm thường vẫn tăng sau khi sự kiện gây căng 
thẳng đã kết thúc (Kiecolt-Glaser JK et al., 2003). Theo 
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ước tính, đến năm 2020, 
các vấn đề về rối loạn sức khỏe tâm thần sẽ là nguyên 
nhân gây nên gánh nặng khuyết tật hàng đầu, gợi lên 
tầm quan trọng của việc cần xác định sớm tỷ lệ sinh 
viên dễ mắc rối loạn tâm thần để kịp thời can thiệp, giúp 
 ISSN: 1859 - 4603, Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 10, Số 2 (2020), 32-37 
 33 
giảm bớt áp lực học tập. Đồng thời, giúp phát triển các 
tiêu chuẩn chung mà ngành Y, Dược đòi hỏi, nhằm đối 
phó với các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống, đặc 
biệt là ở giai đoạn chuẩn bị tốt nghiệp. 
Trên thực tế, sinh viên ngành Dược được cho là đối 
tượng có nguy cơ gặp nhiều căng thẳng hơn so với sinh 
viên các ngành Y nói chung (Henning K., Ey S., Shaw 
D., 1998; Phùng et al., 2018). Mặc dù trên thế giới và ở 
Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về sức khỏe tâm thần 
của sinh viên các khối ngành Y, nhưng chủ đề này vẫn 
chưa được khảo sát sâu trên khách thể sinh viên ngành 
Dược, đặc biệt là tại Đồng Nai. Xuất phát từ những lý 
do này, nghiên cứu được tiến hành với mục đích sau: 
(a1) Xác định tỷ lệ stress, lo âu và trầm cảm của 
sinh viên đại học năm cuối ngành Dược tại Đồng Nai; 
(a2) Khảo sát một số yếu tố liên quan đến tình trạng 
stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên năm cuối ngành 
Dược tại Đồng Nai theo đặc điểm nhân khẩu và xếp loại 
học lực của học kì gần nhất. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
2.1. Mẫu nghiên cứu 
Cách chọn mẫu: Nghiên cứu được thực hiện trên 
134 sinh viên năm cuối (năm học 2019 – 2020) đang 
học ngành Dược hệ Đại học chính quy, tại trường Đại 
học Lạc Hồng và Đại học Công nghệ Miền Đông tại 
Đồng Nai, theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên 
thuận tiện từ tháng 10/2019 đến tháng 12/2019. 
Đặc điểm khách thể nghiên cứu: Trong số 134 
sinh viên tham gia nghiên cứu, có 65.7% sinh viên Đại 
học Lạc Hồng và 34.3% sinh viên Đại học Công nghệ 
Miền Đông. Tỷ lệ sinh viên nam chiếm 34.3% và nữ 
chiếm 65.7%. Khảo sát về nơi sống hiện nay, có 35.1% 
sinh viên đang sống chung với gia đình, 21.6% sinh 
viên sống ở kí túc xá của trường và 43.3% sinh viên ở 
trọ. Tỷ lệ sinh viên có tình hình tài chính bình thường là 
79.9%, hoàn cảnh khó khăn là 17.9% và sống thoải mái 
chiếm khoảng 2.2%. Xét theo xếp loại học lực của học 
kì gần nhất, tỷ lệ sinh viên đạt ... thời gian là 
đúng; (3) - Hoàn toàn đúng với tôi, hoặc hầu hết thời 
gian là đúng. Cách quy đổi điểm thang đo DASS21 
được trình bày ở Bảng 1. 
Bảng 1. Mức độ stress, lo âu, trầm cảm quy đổi 
theo điểm thang đo DASS21 
Mức độ Stress Lo Âu Trầm Cảm 
Bình thường 0 - 14 0 - 7 0 - 9 
Nhẹ 15 - 18 8 - 9 10 - 13 
Vừa 19 - 25 10 - 14 14 - 20 
Nặng 26 - 33 15 - 19 21 - 27 
Rất nặng ≥ 34 ≥ 20 ≥ 28 
Hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha của thang đo 
DASS21 là 0.826; trong đó, hệ số Cronbach’s Alpha 
của các tiểu thang đo stress, lo âu, trầm cảm lần lượt là 
0.882, 0.779 và 0.848, chứng tỏ đây là công cụ có độ tin 
cậy cao (Hoàng & Chu, 2008), phù hợp với mô hình 
nghiên cứu sức khỏe tâm thần của sinh viên thuộc mẫu 
quan sát. 
3. Kết quả nghiên cứu 
3.1. Thực trạng tỷ lệ stress, lo âu và trầm cảm 
ở sinh viên đại học năm cuối ngành Dược tại 
Đồng Nai 
3.1.1. Tính chuẩn phân phối điểm của thang đo 
DASS21 
Kết quả phân tích điểm thu thập từ thang đo DASS21 
trên mẫu khảo sát gồm 134 sinh viên qua mô hình đường 
cong chuẩn Histogram cho thấy trị số trung bình (ĐTB) 
và trung vị (ĐTV) của điểm stress (ĐTB = 9.31; ĐTV = 
Nguyễn Thị Bích Tuyền, Nguyễn Thanh Trúc, Lê Kim Phụng 
34 
9.00), trầm cảm (ĐTB = 6.83; ĐTV = 6.00), lo âu (ĐTB 
= 7.01; ĐTV = 6.50) gần bằng nhau, độ xiên Skewness 
dao động trong khoảng từ -1 đến 1 (độ xiên Skewness 
của phân phối điểm stress, lo âu và trầm cảm lần lượt là 
0.250, 0.623, và 0.634). Theo Chan Y.H. (2003), đây 
được coi là các phân phối chuẩn. 
3.1.2. Tỷ lệ stress, lo âu và trầm của của sinh viên 
Trong số 134 khách thể nghiên cứu, phần lớn sinh 
viên tham gia nghiên cứu không có biểu hiện stress 
(83.6%), lo âu (61.2%) và trầm cảm (70.1 %). Kết quả ở 
Biểu đồ 1 cho thấy: 
Xét về tỷ lệ stress ở sinh viên: Trong số sinh viên có biểu 
hiện stress (16.4%), có 11.9% sinh viên biểu hiện ở mức độ 
nhẹ và 4.5% sinh viên biểu hiện stress ở mức độ vừa. 
Xét về tỷ lệ lo âu ở sinh viên: Tỷ lệ sinh viên có 
biểu hiện lo âu là 38.8%; trong đó, tỷ lệ sinh viên biểu 
hiện lo âu mức độ nhẹ và vừa lần lượt là 8.2% và 
24.6%; mức độ nặng là 6%. 
Xét về tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên: Tỷ lệ sinh viên 
năm cuối ngành Dược ở Đồng Nai có biểu hiện trầm 
cảm là 29.8%; trong đó, mức độ trầm cảm nhẹ chiếm 
18.7%, vừa là 10.4% và nặng chiếm 0.7%. 
Các tỷ lệ này đều thấp hơn kết quả từ nghiên cứu 
của tác giả Lê Minh Thuận (2011) với tỷ lệ sinh viên 
các khối ngành Y, Dược tại TPHCM có stress nặng là 
2%, lo âu nặng là 11% và trầm cảm nặng là 2% được 
sàng lọc theo thang đo Dass-42. 
Biểu đồ 1. Tỷ lệ stress, lo âu, trầm cảm ở sinh viên 
Xét về tỷ lệ kết hợp số trạng thái rối loạn sức khỏe 
tâm thần (bao gồm có biểu hiện stress, lo âu và trầm 
cảm), 57.5% sinh viên không có bất kì biểu hiện của 
trạng thái nào. Trong khi đó, tỷ lệ sinh viên có biểu hiện 
của cả 3 trạng thái rối loạn sức khỏe tâm thần là 14.2% 
(Xem Biểu đồ 2). 
Biểu đồ 2. Tỷ lệ kết hợp số trạng thái stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên
 ISSN: 1859 - 4603, Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 10, Số 2 (2020), 32-37 
 35 
Những kết quả này cho thấy một số khó khăn đáng 
kể về sức khỏe tâm thần của sinh viên năm cuối khoa 
Dược bậc đại học, nhưng nhóm sinh viên này lại ít có 
khả năng nhận được sự hỗ trợ về tư vấn - tham vấn học 
đường trong trường. Kết quả phỏng vấn sâu 30 sinh viên 
năm cuối ngành Dược cho thấy, có 90% sinh viên “chưa 
từng tìm đến sự hỗ trợ chuyên môn về tâm lý” cung cấp 
ở trong và ngoài trường, và cũng không có ý định sẽ tìm 
kiếm các nguồn lực này. Các nguyên nhân được đưa ra 
để lý giải cho tình trạng này là “do thiếu thời gian đến 
các cơ sở khám và tham vấn tâm lý” (6.7%), “sợ bị lộ 
thông tin cá nhân” (40%), “sợ bị kì thị vì sử dụng các 
dịch vụ liên quan đến sức khỏe tâm thần” (73.3%), “sợ 
chi phí cao” (23.3%), “sợ bị lưu lại tiền sử khám bệnh 
tâm thần trong hồ sơ học tập” (3.3%), và “sợ những can 
thiệp không mong muốn” (6.7%). Tỷ lệ sinh viên năm 
cuối ngành Dược trên địa bàn tỉnh Đồng Nai tiếp cận 
các dịch vụ trợ giúp tâm lý chuyên nghiệp (10%) thấp 
hơn so với kết quả từ một khảo sát gần đây thực hiện 
trên khách thể sinh viên ở Hà Nội (Pham et al., 2020) 
cho thấy, có 12.5% (95% CI: 10.9 – 14.1). Điều này đặt 
ra nhu cầu bức thiết cần phải có chính sách chăm sóc 
sức khỏe tâm thần, thể chất toàn diện cho sinh viên nói 
chung, sinh viên thuộc các khối ngành Y, Dược nói 
riêng, đặc biệt là tại Đồng Nai. 
3.2. So sánh trung bình điểm stress, lo âu và 
trầm cảm ở sinh viên theo một số đặc điểm 
nhân khẩu và xếp loại học lực 
Các kết quả kiểm định so sánh trung bình cho thấy 
stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên năm cuối ngành 
Dược tại Đồng Nai không có sự khác biệt ý nghĩa theo 
giới tính, trường học, nơi sống, tình hình kinh tế. Có sự 
khác biệt ý nghĩa thống kê về cả mức độ stress, lo âu, 
trầm cảm (các hệ số p < 0.05) theo xếp loại học lực của 
sinh viên (Xem Bảng 2). 
Bảng 2. Sự khác biệt về mức độ căng thẳng, lo âu và trẩm cảm của sinh viên theo học lực 
Các trạng thái Học lực ĐTB ĐLC ANOVA (df = 3) 
Stress Giỏi 11.43 5.350 
F = 3.553 
p = 0.046 
Khá 7.54 4.320 
Trung bình 10.31 5.169 
Dưới trung bình 9.80 6.686 
Lo âu Giỏi 9.00 5.164 
F = 5.328 
p = 0.013 
Khá 5.34 3.745 
Trung bình 8.18 4.718 
Dưới trung bình 4.00 3.742 
Trầm cảm Giỏi 10.14 5.984 
F = 4.730 
p = 0.020 
Khá 4.88 4.064 
Trung bình 7.76 4.898 
Dưới Trung bình 8.20 6.058 
Chú thích: ĐTB - Điểm trung bình; ĐLC - Độ lệch chuẩn; df - số bậc tự do; 
 F - Hệ số ANOVA; p - mức ý nghĩa 
Để phân tích sâu hơn sự khác biệt về mức độ stress, 
lo âu, trầm cảm của sinh viên theo học lực, kiểm định 
Post-hoc đã được thực hiện. Sự khác biệt thể hiện rõ 
ràng nhất khi so sánh stress (p = 0.010), trầm cảm (p = 
0.002), lo âu (p = 0.003) giữa nhóm sinh viên có học lực 
“Khá” và “Trung bình”. Kết hợp với điểm trung bình 
stress, lo âu và trầm cảm ở Bảng 2, có thể nói, sinh viên 
học lực trung bình (ĐTBstress = 10.31, ĐTBlo âu = 8.18, 
ĐTBtrầm cảm = 7.76) có tình trạng sức khỏe tâm thần kém 
hơn so với sinh viên học lực khá (ĐTBstress = 7.54, 
ĐTBlo âu = 5.34, ĐTBtrầm cảm = 4.88). Những phát hiện 
này phù hợp với kết quả bài báo đã được công bố trước 
Nguyễn Thị Bích Tuyền, Nguyễn Thanh Trúc, Lê Kim Phụng 
36 
đó, rằng áp lực học tập là yếu tố tác động mạnh mẽ nhất 
đến mức độ stress, lo âu, trầm cảm của của sinh viên 
năm cuối ngành Dược trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, kế 
đến là áp lực từ gia đình. Ngoài ra, dự định về nghề 
nghiệp sau khi tốt nghiệp cũng được xác định là một 
trong những yếu tố nguy cơ có thể dẫn đến rối loạn sức 
khỏe tâm thần ở sinh viên (Nguyễn & Nguyễn, 2020). 
3.3. Mối tương quan giữa stress, lo âu và trầm 
cảm của sinh viên năm cuối ngành Dược tại 
Đồng Nai 
Bảng 3. Mối tương quan giữa mức độ tress, lo âu, 
và trầm cảm của sinh viên 
Lo âu Trầm cảm 
Stress 
r (Hệ số tương quan) 0.838** 0.774** 
p (sig) 0.000 0.000 
** Cặp biến có tương quan tuyến tính ở mức tin cậy 
99% (tương ứng mức ý nghĩa 1% = 0.01) 
Kết quả kiểm định tương quan Pearson ở Bảng 3 
cho thấy mối quan hệ tuyến tính rất chặt chẽ giữa các 
cặp biến stress - lo âu (r = 0.838, p < 0.01), lo âu - trầm 
cảm (r = 0.804; p < 0.01) và stress - trầm cảm (r = 0.774; 
p < 0.01); trong đó, mối tương quan giữa tình trạng 
stress và lo âu của khách thể nghiên cứu là mạnh 
nhất. Nghiên cứu của Lê Minh Thuận (2011) cũng 
cho thấy mối tương quan thuận chặt chẽ giữa 3 tình 
trạng này, nhưng tương quan giữa lo âu - trầm cảm là 
mạnh nhất (r = 0.73). Mối tương quan giữa các trạng 
thái sức khỏe tâm thần này là yếu tố dự báo một số 
vấn đề đáng lo ngại hơn về sức khỏe tổng thể của các 
sinh viên nếu không được can thiệp kịp thời (Kiecolt-
Glaser JK et al., 2003). 
4. Kết luận 
Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 134 sinh 
viên đại học năm cuối ngành Dược tại 2 trường Đại 
học ở Đồng Nai cho thấy, tại thời điểm khảo sát, số 
sinh viên có biểu hiện lo âu chiếm tỷ lệ cao nhất 
(38.8%), kế đến là trầm cảm (29.8%), và cuối cùng là 
stress (16.4%). Có sự khác biệt ý nghĩa thống kê về 
mức độ stress, lo âu và trầm cảm của sinh viên xét theo 
xếp loại học lực; cụ thể, sinh viên có học lực trung 
bình trải qua mức độ stress, lo âu và trầm cảm cao hơn 
so với sinh viên có học lực khá; điều này đã được giải 
thích là bởi sự tác động từ các yếu tố áp lực trong học 
tập. Đáng chú ý, có mối tương quan thuận khá chặt 
giữa mức độ stress, lo âu và trầm cảm của sinh viên. 
Những kết quả này cung cấp một số bằng chứng về 
thực trạng sức khỏe tâm thần của sinh viên đại học 
năm cuối ngành Dược trên địa bàn tỉnh Đồng Nai; trên 
cơ sở đó, nhóm tác giả đưa ra một số khuyến nghị để 
cải thiện thực trạng này, bao gồm: 
(1) Đối với sinh viên: Cần nhận biết sớm các biểu 
hiện stress, lo âu, trầm cảm của bản thân để lập kế 
hoạch chủ động ứng phó kịp thời, đồng thời, rèn luyện 
kỹ năng học tập hợp lý, hiệu quả hơn. 
(2) Đối với các cơ sở giáo dục đại học: Cần tăng 
cường các chiến lược can thiệp và phòng ngừa rối loạn 
sức khỏe tâm thần trong bối cảnh giáo dục để cải thiện 
khả năng học tập, giảm các sai sót thực hành lâm sàng 
của sinh viên ngành Dược trong tương lai. 
Tài liệu tham khảo 
American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic 
and statistical manual of mental disorders (5th 
ed.). Arlington, VA: American Psychiatric 
Publishing. 
Gushae J. (1997). Financial worries part of education 
for Memorial’s medical students. Can Med Assoc 
J, 157(5), 559-562. 
Henning, K.E.S., Shaw, D. (1998). Perfectionism, the 
imposter phenomenon and psychological 
adjustment in medical, dental, nursing and 
pharmacy students. Med Educ, 32(5), 456-64. 
DOI: 10.1046/j.1365-2923.1998.00234.x. PMID: 
10211285. 
Hoàng, T., Chu, N.M.N. (2008). Phân tích dữ liệu 
nghiên cứu với SPSS. NXB Hồng Đức. 
Hysenbegasi, A., Hass, S.L., Rowland, C.R. (2005). The 
impact of depression on the academic productivity 
of university students. J Ment Health Policy Econ, 
8(3), 145-151. PMID: 16278502 
Kessler, R.C., Walters, E.E., et al. (1998). Comorbidity 
of substance use disorders with mood and anxiety 
disorders: results of the International Consortium 
in Psychiatric Epidemiology. Addictive Behaviors, 
23(6), 893-907. https://doi.org/10.1016/S0306-
4603(98)00076-8 
Kiecolt-Glaser, J. K., Preacher, K. J., MacCallum, R. C., 
Atkinson, C., Malarkey, W. B., & Glaser, R. 
 ISSN: 1859 - 4603, Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 10, Số 2 (2020), 32-37 
 37 
(2003). Chronic stress and age-related increases in 
the proinflammatory cytokine IL - 6. Proceedings 
of the National Academy of Sciences of the United 
States of America, 100(15), 9090-9095. 
https://doi.org/10.1073/pnas.1531903100 
Lê, T.M. (2011). Sức khỏe tâm lý của sinh viên: Nghiên 
cứu cắt ngang. Tạp chí Y học Thực hành (774), Số 
7, 72-75. 
Marshall, L.L., Allison, A., Nykamp, D., & Lanke, S. 
(2008). Perceived stress and quality of life among 
doctor of pharmacy students. American Journal of 
Pharmaceutical Education, 72(6), 137. 
DOI: 10.5688/aj7206137. PMID: 19325957 
Nguyễn, T.T, Nguyễn, T.B.T. (2020). Các yếu tố ảnh 
hưởng đến stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên 
năm cuối ngành Dược tại Đồng Nai. Tạp chí Khoa 
học và Công nghệ - Đại học Đà Nẵng, Tập 18, Số 
10, 10-13. 
Nguyễn, T.T. (2017). Thực trạng Stress, lo âu, trầm cảm 
và các yếu tố liên quan trong sinh viên cử nhân 
trường Đại học Y tế Công cộng năm 2017 - Khảo 
sát bằng bộ công cụ DASS21. Luận văn Thạc sĩ Y 
tế Công cộng. Trường Đại học Y tế Công cộng. 
Pham, T. N., Pham, T.T., Nguyen, H.D., Duong, H.A., 
Bui, D.T, A., Kim, B.G., et al. (2020). Utilization 
of mental health services among university 
students in Vietnam. International Journal of 
Mental Health, 1-
23. doi:10.1080/00207411.2020.1816114 
Phùng, H.N., Nguyễn, V.H., Lê, H.T.H. (2018). Stress 
của sinh viên Trường Cao đẳng Y tế Tiền Giang 
năm 2018 và một số yếu tố liên quan. Tạp chí 
Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển, tập 
02, số 04, 16-25. 
Trần, T.D., Trần T., Fisher, J. 2013. Validation of the 
depression anxiety stress scales (DASS) 21 as a 
screening instrument for depression and anxiety in 
a rural community-based cohort of northern 
Vietnamese women. BMC Psychiatry, 13 (1), 24. 
DOI: 10.1186/1471-244X-13-24 
Vaidya, P.M, Mulgaonkar, K.P. (2007). Prevalence of 
depression, anxiety and stress in undergraduate 
medical students and its correlation with their 
academic performance. Indian J of Occup Ther, 
39, 7-10. 
REALITY OF STRESS, ANXIETY AND DEPRESSION AMONG FINAL-YEAR 
PHARMACY STUDENTS IN DONGNAI 
Nguyen Thi Bich Tuyen, Nguyen Thanh Truc, Le Kim Phung 
National Psychiatric Hospital No. 2, Vietnam 
Abstract: Final-year Pharmacy students are assumed to be at high risk for mental health problems including stress, anxiety and 
depression, especially during the stage prior to graduation. This study is aimed at investigating the reality of stress, anxiety, and 
depression suffered by final-year Pharmacy students’ (in the academic year 2019-2020) at two universities in Dongnai via a cross-
sectional description based on a Depression, Anxiety and Stress Scale (DASS21) survey questionnaire. The research results from 
134 respondents showed that the proportions of students experiencing stress, anxiety, and depression were 16.4%, 29.8% and 
38.8% respectively, of which severe anxiety accounted for 6%, and severe depression accounted for 0.7% analysis. There were also 
statistically significant differences among groups of students with different academic results. These findings contribute to the 
universities’construction of appropriate intervention strategies to improve students’ mental health with a view to eliminating their 
mistakes in clinical pharmaceutical practice in the future. 
Key words: Final-year student; Pharmacy; Mental health; Dongnai; University. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_stress_lo_au_tram_cam_cua_sinh_vien_dai_hoc_nam_c.pdf