Thực trạng quản lý và sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng quản lí và sử dụng đất nghĩa trang,
nghĩa địa (đất NTD) của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Nghiên cứu
đã thực hiện tham vấn ý kiến của chính quyền địa phương về thực trạng quản lý và sử dụng đất NTD ở
huyện Minh Hóa; phỏng vấn 160 hộ dân người dân tộc Kinh, Chứt và Bru-Vân Kiều theo phương pháp lựa
chọn ngẫu nhiên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình trạng chôn cất trái quy định vẫn còn xảy ra; việc cắm
mốc đất NTD chưa được thực hiện trên địa bàn nhiều xã; việc quản lý và di dời giải tỏa mồ mả xen lẫn trong
các loại đất khác còn nhiều bất cập. Việc lựa chọn kiến trúc xây dựng, diện tích lăng mộ, lựa chọn địa điểm
chôn cất và phong tục táng gần giống nhau giữa người Kinh với người Chứt, nhưng lại rất khác với cộng
đồng người Bru-Vân Kiều. Từ thực trạng quản lý đất NTD của các xã, nghiên cứu này đã đề xuất được một
số giải pháp quản lý và sử dung đất NTD phù hợp với tình hình thực tiễn của huyện Minh Hóa.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng quản lý và sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình
Tạp chí Khoa học Đại học Huế: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn pISSN: 2588-1191; eISSN: 2615-9708 Tập 130, Số 3A, 2021, Tr. 99–112; DOI: 10.26459/hueunijard.v130i3A.5929 * Liên hệ: tranthiphuong@huaf.edu.vn Nhận bài: 17–7–2020; Hoàn thành phản biện: 10–9–2020; Ngày nhận đăng: 11–9–2020 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG ĐẤT NGHĨA TRANG, NGHĨA ĐỊA CỦA CÁC CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN MINH HÓA, TỈNH QUẢNG BÌNH Trần Thị Phượng*, Đặng Thị Minh Chinh, Châu Võ Trung Thông, Nguyễn Bích Ngọc, Hồ Việt Hoàng Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế, 102 Phùng Hưng, Huế, Việt Nam Tóm tắt: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng quản lí và sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa (đất NTD) của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình. Nghiên cứu đã thực hiện tham vấn ý kiến của chính quyền địa phương về thực trạng quản lý và sử dụng đất NTD ở huyện Minh Hóa; phỏng vấn 160 hộ dân người dân tộc Kinh, Chứt và Bru-Vân Kiều theo phương pháp lựa chọn ngẫu nhiên. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tình trạng chôn cất trái quy định vẫn còn xảy ra; việc cắm mốc đất NTD chưa được thực hiện trên địa bàn nhiều xã; việc quản lý và di dời giải tỏa mồ mả xen lẫn trong các loại đất khác còn nhiều bất cập. Việc lựa chọn kiến trúc xây dựng, diện tích lăng mộ, lựa chọn địa điểm chôn cất và phong tục táng gần giống nhau giữa người Kinh với người Chứt, nhưng lại rất khác với cộng đồng người Bru-Vân Kiều. Từ thực trạng quản lý đất NTD của các xã, nghiên cứu này đã đề xuất được một số giải pháp quản lý và sử dung đất NTD phù hợp với tình hình thực tiễn của huyện Minh Hóa. Từ khóa: đất nghĩa trang, đất nghĩa địa, cộng đồng dân tộc, sử dụng đất, Quảng Bình The current management and use of cemetery and graveyard land of ethnic communities in Minh Hoa district, Quang Binh province Tran Thi Phuong*, Dang Thi Minh Chinh, Chau Vo Trung Thong, Nguyen Bich Ngoc, Ho Viet Hoang University of Agriculture and Forestry, Hue University, 102 Phung Hung St., Hue, Viet Nam Abstract: This research was conducted to assess the current management and use of cemetery and graveyard land of ethnic communities in Minh Hoa district, Quang Binh province. The study carried out consultation with local authorities on cemetery and graveyard land management and use of ethnic communities; there are 160 households from Kinh, Chut and Bru-Van Kieu ethnic communities were interviewed based on a random selection method. The research results show that illegal burial is still happening; land landmark for graveyard areas has not been implemented in almost communes; management and relocation of tombs and Trần Thị Phượng và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 100 graves mixed in other land use types are still happens. The choice of construction model, tomb area, burial site selection and burial customs are almost similar between the Kinh and the Chut community, but very different from the Bru-Van Kieu community. From the current situation of land management in the district, this study has proposed a number of solutions for managing and using cemetery and graveyard land in accordance with the practical situation of ethnic community in Minh Hoa district. Key words: cemetery land, graveyard, land use, ethnic community, Quang Binh 1 Đặt vấn đề Đất nghĩa trang, nghĩa địa (đất NTD) đang trở thành vấn đề lớn và cần quan tâm của đô thị Việt Nam [3]. Khi nền kinh tế phát triển, nhu cầu của người dân tăng cao thì vấn đề lễ nghĩa càng được xem trọng. Chính vì thế, một bộ phận không nhỏ người dân có thu nhập cao đòi hỏi đất sử dụng cho mục đích chôn cất người thân của mình cũng phải xứng tầm, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng xây dựng tự phát những ngôi mộ xa hoa, giá trị hàng tỷ đồng ở nhiều địa phương hay trong các công viên nghĩa trang mới hình thành [3]. Trong khi đó, những người có thu nhập thấp, những người nghèo lại chôn thân nhân của mình tại những nghĩa trang, nghĩa địa không phù hợp quy hoạch vì chi phí phù hợp với khả năng chi trả của họ [4]. Từ đó, công tác quản lý nhà nước về quy hoạch sử dụng đất NTD gặp nhiều khó khăn. Theo nghiên cứu của tác giả Trần Thiện Phong, năm 2010 cả nước có 101.064 ha đất NTD chiếm 0,3% diện tích đất toàn quốc, tăng 4.013 ha so với kỳ kiểm kê năm 2005. Riêng thành phố Hồ Chí Minh có 951 ha đất NTD, thành phố Hà Nội có 2.893 ha đất NTD vào năm 2010 [8]. Năm 2010, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hải Dương đã thực hiện nghiên cứu làm rõ hiện trạng và xây dựng quy hoạch sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa của tỉnh Hải Dương đến năm 2010. Qua đó, đưa ra các giải pháp nhằm quản lý chặt chẽ, có hiệu quả, đồng thời sử dụng tiết kiệm đất và đảm bảo vệ sinh môi trường [2]. Tác giả Vũ Thị Ngọc Hiền đã thực hiện nghiên cứu thực trạng và đánh giá hiệu quả quản lý, sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa trên địa bàn thành phố Hà Nội. Qua đó, đề xuất các giải pháp quản lý, sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa hiệu quả, tiết kiệm, bảo tồn và phát huy nét đẹp văn hóa truyền thống và phù hợp với văn minh thời đại [3]. Các nghiên cứu này chủ yếu được thực hiện ở địa bàn chủ yếu là người Kinh sinh sống, hiện vẫn còn rất thiếu những nghiên cứu ở những địa bàn có cộng đồng người dân tộc thiểu số sinh sống. Huyện Minh Hóa là huyện miền núi vùng cao nằm về phía Tây Bắc tỉnh Quảng Bình. Ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số thì đây là nơi có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống (hiện có 2.741 hộ, chiếm 20,3% số hộ toàn huyện) [5]. Ở đây, người dân tộc thiểu số chủ yếu là các dân tộc Bru – Vân Kiều và dân tộc Chứt. Chính vì vậy, phong tục tập quán trong sử dụng đất NTD của họ cũng có nhiều khác biệt. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số thì rừng đóng vai trò rất quan trọng, họ có những khu rừng thiêng phục vụ về mục đích tâm linh, tín ngưỡng, cũng như Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 101 người Kinh có đền thờ, nhà thờ dòng họ. Chính vì điều này, tình hình quản lý và sử dụng đất nghĩa trang, ng ... h tại Quyết định số 25/2014/QĐ- UBND ngày 14/10/2014 của UBND tỉnh Quảng Bình về việc Quy định hạn mức giao đất NTD trên địa bàn tỉnh [5]. Theo đó, diện tích sử dụng đất cho mỗi mộ chôn cất 1 lần hoặc mộ hung táng là 5 m2. Diện tích sử dụng đất cho mỗi mộ cát táng là 3 m2. Tuy nhiên, trên thực tế đa số người dân vẫn chưa quan tâm và thực hiện theo đúng quy định này. Tùy vào quỹ đất và điều kiện kinh tế gia đình mà người dân xây dựng lăng mộ có diện tích lớn hoặc nhỏ. Kết quả phỏng vấn hộ cho thấy: có 88,75 % hộ dân (tương ứng 142 hộ vượt diện tích; 18 hộ chưa chạm ngưỡng diện tích thực hiện việc chôn cất) tại các địa điểm tự phát, các nghĩa địa dòng họ hay nghĩa địa chung mà không có quy hoạch cụ thể, diện tích lăng mộ, xây cất một cách tự do; chỉ có 11,25% hộ dân là tuân thủ quy định về định mức diện tích lăng, mộ, lý do các hộ này thành phần chủ yếu là cán bộ, người am hiểu về các quy định của pháp luật trong việc sử dụng quỹ đất NTD ở địa phương. Hình 1. Ý kiến người dân về kiến trúc xây dựng lăng, mộ 0% 26% 74% 0%0 10 20 30 40 50 60 70 80 Theo quy định chung Theo tập quán địa phương Theo điều kiện, ý muốn hộ gia đình Ý kiến khác Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 107 Hình 2. Ý kiến người dân về tuân thủ định mức diện tích xây dựng lăng, mộ Về địa điểm chôn cất Số liệu ở hình 3 cho thấy, đa số người dân đều lựa chọn địa điểm chôn cất theo kiểu tự phát (66%), không có hộ dân nào lựa chọn chôn cất tại nghĩa trang, nghĩa địa chung của UBND. Số còn lại lựa chọn chôn cất tại nghĩa địa của dòng họ với 29% và có 5% hộ dân lựa chọn chôn cất ở tại đất nằm trong khuôn viên của gia đình. Nguyên nhân của thực trạng này là do chính quyền địa phương ở một số xã vẫn chưa tiến hành cắm mốc quy định cấm chôn cất, các nghĩa trang chung của UBND nằm ở vị trí khá xa, điều kiện đi lại khó khăn, thủ tục xin phép còn rườm rà, không đủ kinh phí để nộp cho khoản tiền xin đất NTD; người dân muốn lựa chọn vị trí gần nhà hoặc nương rẫy của họ để thuận tiện cho việc đi lại hương khói, thăm viếng. Đây chính là những nguyên nhân dẫn đến thực trạng sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa manh mún và phức tạp như bây giờ. Hình 3. Ý kiến của người dân về lựa chọn địa điểm chôn cất Về thực trạng đất nghĩa trang, nghĩa địa xen lẫn các loại hình sử dụng đất khá Đất nghĩa trang, nghĩa địa xen lẫn với loại hình sử dụng đất khác, phổ biến là đất lâm nghiệp, với 49% ý kiến. Có 32,5% ý kiến thể hiện đất NTD có xen lẫn đất nông nghiệp và có 7,5% ý kiến người dân cho rằng cạnh gia đình họ sinh sống, đất NTD có xen lẫn đất ở. Còn lại 11% ý 11.25% 88.75% Theo quy định Không theo quy định 0% 29% 66% 5% 0 10 20 30 40 50 60 70 NTD chung của UBND Nghĩa địa dòng họ Đất chọn tự phát Địa điểm khác Trần Thị Phượng và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 108 kiến người dân cho rằng, lân cận gia đình họ không có xen lẫn đất NTD hoặc các khu nghĩa địa nằm tập trung theo từng cụm, không xen lẫn các loại đất khác. Hình 4. Ý kiến của người dân về đất nghĩa trang, nghĩa địa xen lẫn các loại hình sử dụng đất 3.3 Phong tục tập quán an táng và xu thế an táng mới trên địa bàn huyện Minh Hóa Phong tục tập quán an táng và xu thế sử dụng những hình thức táng mới của dân tộc Kinh Về phong tục tổ chức tang lễ: Đối với người chết từ tuổi trưởng thành trở lên, khi chết ở nhà thường được tổ chức tang lễ tại gia đình, sau thời gian 24–36 giờ thì gia đình đưa tiễn người chết về nơi an nghỉ cuối cùng tại khu vực chôn cất theo phong tục tập quán của địa phương. Đối với người chết tại bệnh viện hoặc do tai nạn, thường được tổ chức tang lễ tại nhà chờ, ngoài sân nhà hoặc khu đất trống của khu vực chôn cất. Vì theo quan niệm của người dân, những người chết ở nơi khác đưa về nhà thì người thân sẽ gặp những điều không may mắn. Tuy nhiên, thời gian gần đây, nhiều nơi đã đưa về gia đình để tổ chức tang lễ và tưởng niệm cho người chết. Đối với những người chết trẻ hoặc chết do mắc các bệnh truyền nhiễm, việc tổ chức tang lễ cũng thường được tổ chức tại gia đình nhưng thời gian tổ chức thường trong vòng 24 giờ sau khi chết, thậm chí có những nơi nếu trẻ em chết ở bệnh viện thì đưa thẳng về nghĩa trang, nghĩa địa chôn cất luôn, không đưa về gia đình kể cả ban đêm. Về phong tục táng người chết: Sau khi tổ chức tang lễ tại gia đình, người chết được đưa đi chôn cất tại khu vực nghĩa trang, nghĩa địa theo quy định của địa phương. Đối với một số người có quê quán ở vùng khác hoặc theo mong muốn của người chết hoặc thân nhân người chết mà việc chôn cất người thường được đưa về nghĩa trang, nghĩa địa quê nhà, nhiều người được đưa về quê để chôn cất với ý niệm được về với ông bà tổ tiên. Người Kinh ở Minh Hóa có tập quán táng người chết chủ yếu theo hai hình thức: chôn 1 lần vĩnh viễn, không cải táng và chôn 32,5% 7,5% 0% 49% 0% 11% 0 10 20 30 40 50 60 Đất nông nghiệp Đất ở Đất đô thị Đất lâm nghiệp Loại hình khác Không xen lẫn Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 109 bằng quan tài gỗ, sau một thời gian thì cải táng đến vị trí mới. Theo lời kể của các cụ cao tuổi, trước kia việc lựa chọn địa điểm chôn cất người chết rất quan trọng, phải nhờ các “Thầy địa lý” xem và chọn giúp, tùy từng người mà lựa chọn vị trí và hướng đặt mộ cho “hợp”, có người hợp với việc táng gò cao, có người hợp với táng ở chỗ trũng, có người hợp với hướng Bắc, có người lại hợp với hướng Nam Khi “Thầy” đã chọn thì không cần biết đất đó hiện đang sử dụng vào mục đích gì, con cháu phải có trách nhiệm thỏa thuận hoặc làm cách nào đó để có được đất, trừ trường hợp bất khả kháng thì “Thầy” xem và chọn chỗ khác. Đa số được chọn ở các vùng đất sản xuất nông nghiệp như: Đất trồng lúa, trồng màu và đất lâm nghiệp. Điều này dẫn đến tình trạng các ngôi mộ được chôn rải rác rất nhiều nhưng không cất bốc được, thậm chí có một số trường hợp những gia đình do đi làm ăn xa không chăm sóc phần mộ dẫn đến mất dấu vết, không tìm thấy mộ để cải táng. Thời gian gần đây, khi kinh tế - xã hội ngày càng phát triển, người dân tộc Kinh lựa chọn vị trí táng người chết theo xu hướng tập trung, cách xa khu dân cư, thuận tiện đi lại và chăm sóc mộ. Vì thế, việc lựa chọn nơi chôn cất cũng đã tập trung hơn so với trước. Xu hướng xây dựng lăng mộ to, rộng và lộng lẫy ngày càng tăng trên địa bàn huyện, người dân coi đây là một phương thức báo hiếu với ông bà, tổ tiên. Xu thế sử dụng những hình thức an táng mới: Mặc dù hiện nay người dân tộc Kinh trên địa bàn huyện vẫn sử dụng hình thức địa táng. Tuy nhiên, qua kết quả phỏng vấn cho thấy họ có thể chuyển sang hình thức hỏa táng trong tương lai, khi mà quỹ đất NTD hạn hẹp. Xu thế này không những giúp tiết kiệm quỹ đất NTD mà còn góp phần bảo vệ môi trường trên địa bàn huyện. Đánh giá về phong tục tập quán an táng của cộng đồng dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Minh Hóa Về phong tục tổ chức tang lễ Đối với dân tộc Chứt, việc tổ chức tang lễ thường rất đơn giản. Theo tục lệ chung, đám tang thường tổ chức trong 3 ngày sau đó đưa đi chôn cất, người chết được quấn bằng lá tro (lá cọ) hoặc bằng phên nứa. Mộ được đặt không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gọi hồn người chết về ngụ trên bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không ai lai vãng chăm sóc phần mộ của người đã khuất. Đối với người dân tộc Bru - Vân Kiều, người chết được đặt nằm ngang sàn nhà, chân hướng về cửa sổ, ở các nhóm tộc người Khùa và Ma Coong thì người chết được đặt dọc sàn, chân hướng về cửa chính. Sau 2 đến 3 ngày mới đưa ma, chôn người chết vào bãi mồ chung của làng. Quan tài gỗ đẽo độc mộc, gồm hòm và nắp, trước đây có nơi người chết được bó trong vỏ cây hoặc tấm đan bằng giang. Chọn đất đào huyệt theo cách dùng trứng gà thả rơi, vỡ trứng là được. Đối với tộc người Khùa thuộc dân tộc Bru - Vân Kiều thì người chết từ tuổi trưởng thành trở lên, khi chết Trần Thị Phượng và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 110 ở nhà thường được tổ chức tang lễ tại gia đình, sau thời gian 24 - 36 giờ thì đưa tiễn người chết về nơi an nghỉ cuối cùng. Còn đối với người chết do tai nạn, thường được tổ chức tang lễ ngay tại nơi đã mất trong khoảng thời gian nhanh nhất có thể. Vì theo quan niệm của người dân, những người chết ở nơi khác đưa về nhà thì người thân sẽ gặp những điều không may mắn. Về phong tục táng người chết Đối với tộc người Khùa thuộc dân tộc Bru - Vân Kiều, theo kết quả phỏng vấn sâu đối với các già làng, người Khùa không có tục thăm mộ người thân, vì vậy những khu rừng chôn người chết được gọi là “Rừng ma”, chỉ khi nào trong làng có người chết thì những người đưa tang mới tới đây, còn bình thường thì không ai dám đặt chân tới. Sau khi tổ chức tang lễ tại gia đình, việc lựa chọn địa điểm chôn cất người chết rất quan trọng, phải nhờ các “Thầy địa lý” xem và chọn giúp. Khác với phong tục táng người chết của cộng đồng dân tộc khác, tộc người Khùa họ chọn vị trí và hướng đặt mộ bằng nghi thức “Ném trứng” để xin mộ chôn người chết. Với họ đây là hình thức quan trọng nhất, bởi người Khùa quan niệm rằng vị trí để người chết nằm yên nghỉ phải dựa theo ý nguyện của họ. Bất kì người chết nào, dù già hay trẻ, dù trai hay gái đều phải thực hiện nghi thức này. Trong mỗi đám tang, sau khi đưa thi thể người chết đến khu “ Rừng ma”, “Thầy” cúng làm lễ ném trứng xin mồ. “’Thầy” khấn, nếu linh hồn người chết đồng ý chôn chỗ nào thì quả trứng vỡ chỗ đó. Nếu quả trứng không vỡ, tức là người chết không thích chôn ở chỗ đó, phải nhặt trứng lên và ném vào chỗ khác cho tới khi trứng vỡ mới thôi. Vì đây là nghi thức rất quan trọng của người Khùa nên không cần biết đất ở khu rừng đó hiện đang sử dụng vào mục đích gì, con cháu đều lựa chọn vị trí đó để đặt mộ chôn cất. Theo như phong tục tập quán của họ thì người chết chỉ tiến hành chôn cất một lần, họ không thực hiện các nghi thức thờ cúng, di dời, cất bốc mồ mã đến nơi khác. Đối với họ, khi đã tổ chức xong các thủ tục nghi lễ chôn cất người chết là đã xong và từ đó họ không còn bận tâm đến các vấn đề liên quan đến mồ mã về sau nữa. Chính tập tục này dẫn đến tình trạng các ngôi mộ được chôn rải rác rất nhiều nơi. Trải qua hàng trăm năm định cư tại các xã Trọng Hóa và Dân Hóa người Khùa vẫn lưu giữ trọn vẹn nghi thức ném trứng xin mồ chôn người. Vì thế, việc quản lý đất nghĩa địa ở địa bàn của cộng đồng dân tộc đây gặp nhiều khó khăn, khó xác định. Đối với dân tộc Chứt, do họ sống xen kẽ với dân tộc Kinh nên về cơ bản thì phong tục táng người chết của họ giống hoàn toàn với phong tục tập quán an táng của dân tộc Kinh trên địa bàn huyện Minh Hóa. Xu thế sử dụng những hình thức an táng mới Qua điều kết quả phỏng vấn hộ dân cho thấy, gần như 100% người dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện không đồng ý với các hình thức an táng mới và cũng không có xu thế mong muốn chuyển sang hình thức hỏa táng. Do phong tục tập quán chôn cất đã ăn sâu vào tiềm thức của họ Jos.hueuni.edu.vn Tập 130, Số 3A, 2021 111 đã làm ảnh hưởng rất lớn đến lối suy nghĩ về việc an táng người chết của người dân ở đây nên rất khó để làm thay đổi được thực trạng sử dụng đất NTD đối với cộng đồng người dân tộc thiểu số, đặc biệt là cộng đồng người dân tộc thiểu số Bru – Vân Kiều. 4 Kết luận Đất nghĩa trang, nghĩa địa ở huyện Minh Hóa phân bố hầu hết ở các xã, thị trấn trên toàn huyện, trừ 1 xã không có diện tích đất này đó là xã Trọng Hóa. Huyện Minh Hóa chỉ thực hiện giao đất nghĩa trang, nghĩa địa cho đúng một tổ chức và không có thực hiện giao đất cho hộ gia đình, cá nhân. Vì vậy, vấn đề sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa mang tính tự phát, dựa trên điều kiện kinh tế, ý muốn cũng như phong tục tập quán của người dân. Với đặc thù là huyện miền núi, nhiều xã biên giới, ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số thì đây là nơi có đồng bào dân tộc thiểu số Chứt, Bru – Vân Kiều sinh sống nên việc sử dụng đất NTD có sự khác biệt về phong tục táng rõ rệt giữa các cộng đồng dân tộc trên địa bàn huyện Minh Hóa. Vấn đề nổi cộm, đáng quan tâm về đất nghĩa trang, nghĩa địa trên địa bàn huyện là thực trạng chôn cất trái quy định; khoanh vùng cắm mốc; việc di dời giải tỏa mồ mả xen lẫn trong đất canh tác, khu dân cư; Di dời giải tỏa nghĩa trang, nghĩa địa. Tài liệu tham khảo 1. Chính phủ, (2016), Nghị định 23/2016/NĐ-CP ngày gày 05 tháng 04 năm 2016 của chính phủ về về xây dựng, quản lý, sử dụng nghĩa trang và cơ sở hỏa táng. 2. Nguyễn Tá Dước, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hải Dương, Những giải pháp quy hoạch đất nghĩa trang, nghĩa địa trên địa bàn tỉnh Hải Dương nhằm sử dụng tiết kiệm đất đảm bảo vệ sinh môi trường. Wesite: 6:lvmt&id=737:quy-hoch-t-ngha-trang-ngha-a-tren-a-ban-tnh-hi-dgn. Truy cập ngày 01/4/2020. 3. Vũ Thị Ngọc Hiền, (2010), Đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp quản lý, sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ khoa học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội. 4. Phan Phạm Chi Mai, (2012), Nghiên cứu hiện trạng sử dụng đất nghĩa trang huyện Từ Liêm, Hà Nội với sự trợ giúp của GIS và Viễn thám, Luận văn Thạc sỹ khoa học, Đại học Quốc gia, Hà Nội. 5. UBND tỉnh Quảng Bình, (2014), Quyết định số 25/2014/QĐ-UBND ngày 14/10/2014 của UBND tỉnh Ban hành Quy định về hạn mức giao đất, hạn mức công nhận quyền sử dụng đất ở; Trần Thị Phượng và CS. Tập 130, Số 3A, 2021 112 diện tích tối thiểu được tách thửa đối với đất ở; hạn mức đất nghĩ trang, nghĩa địa trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. 6. UBND huyện Minh Hóa, (2009), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Bố Trạch đến năm 2020. 7. Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Minh Hóa, (2019), Báo cáo kết quả kiểm kê đất đai huyện Minh Hóa năm 2019. 8. Trần Thiện Phong, (2012), Thực trạng và giải pháp quy hoạch quản lý sử dụng đất nghĩa trang nghĩa địa ở thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí lý luận, khoa học và nghiệp vụ, Bộ Tài Nguyên và Môi trường, 22, 64–66.
File đính kèm:
- thuc_trang_quan_ly_va_su_dung_dat_nghia_trang_nghia_dia_cua.pdf