Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019

Mục tiêu: Mô tả kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019.

Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019 trang 1

Trang 1

Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019 trang 2

Trang 2

Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019 trang 3

Trang 3

Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019 trang 4

Trang 4

Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019 trang 5

Trang 5

Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019 trang 6

Trang 6

Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019 trang 7

Trang 7

pdf 7 trang Danh Thịnh 13/01/2024 2020
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019

Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại Bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019
76
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC VỀ CHẾ ĐỘ ĂN BỔ SUNG CỦA CÁC BÀ MẸ CÓ CON 
TỪ 6 ĐẾN 24 THÁNG TUỔI ĐIỀU TRỊ TẠI BỆNH VIỆN NHI TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2019
Nguyễn Thị Thanh Huyền1, Trần Thị Thanh Mai1, 
Vũ Thị Minh Phượng1, Nguyễn Thị Khánh1,Phạm Thị Hoàng Yến1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định; 
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Thị Thanh Huyền
Email: huyennguyenthanh86@yahoo.com.vn
Ngày phản biện: 24/02/2020
Ngày duyệt bài: 02/3/2020
Ngày xuất bản: 16/3/2020
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả kiến thức về chế độ ăn 
bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 
tháng tuổi điều trị tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam 
Định năm 2019. Đối tượng và phương 
pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt 
ngang thực hiện từ tháng 11/2018 - 11/2019 
trên tất cả các bà mẹ (54 bà mẹ) có con từ 
6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại bệnh viện Nhi 
tỉnh Nam Định. Các đối tượng được phỏng 
vấn trực tiếp bằng phiếu khảo sát thiết kế 
sẵn về các nội dung liên quan đến kiến thức 
về chế độ ăn bổ sung cho trẻ. Kết quả: Tỷ 
lệ bà mẹ có kiến thức đúng về thời điểm 
cho trẻ ăn bổ sung hợp lý theo khuyến cáo 
của WHO là 33.3%. Tỷ lệ bà mẹ biết hậu 
quả ăn bổ sung sớm là trẻ giảm bú mẹ là 
11.1%.Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về 
thời điểm cho trẻ ăn cơm là 20.4%. Tỷ lệ 
bà mẹ có kiến thức đúng về cách lựa chọn 
thực phẩm cho trẻ ăn bổ sung là 35.2%. 
Kết luận: Thực trạng kiến thức về chế độ 
ăn bổ sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 
24 tháng tuổi là chưa tốt.
Từ khóa: kiến thức, ăn bổ sung, bệnh 
viện Nhi Tỉnh Nam Định.
CURRENT SITUATION OF KNOWLEDGE OF COMPLEMENTARY DIETS OF 
MOTHERS WITH CHILDREN FROM 6 TO 24 MONTHS OF AGE TREATED
 AT NAM DINH PEDIATRIC HOSPITAL IN 2019
ABSTRACT
Objective: To describe knowledge 
about complementary diets of mothers 
with children from 6 to 24 months of age 
treated at Nam Dinh Pediatric Hospital in 
2019. Method: cross-sectional descriptive 
studies Currently, from November 2018 to 
November 2019, all mothers (54 mothers) 
with children from 6 to 24 months of age 
treated at Nam Dinh Paediatric Hospital. 
Participants were interviewed directly by 
means of pre-designed questionnaires with 
related knowledge about complementary 
diets for children. Results: 33.3% of mothers 
have the right knowledge about the time for 
children to have supplementfollowing WHO 
recommendations. 11.1%of mothers knew 
the consequence of early complementary 
feeding which lead to decrease in children’s 
breast-feeding. The proportion of mothers 
who had correct knowledge about the time of 
feeding children was 20.4%. The proportion 
of mothers who had a good knowledge of 
choosing foods for complementary feeding 
was 35.2%. Conclusion: The curent 
situation of the mothers’ knowledge about 
complementary diets for children from 6 to 
24 months of age is not good.
Keywords: knowledge, complementary 
feeding, Nam Dinh Paediatric Hospital
77
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trẻ “ăn ngoan ngủ tốt” là những yếu tố 
căn bản giúp trẻ hoàn thiện sự phát triển 
cả về mặt thể chất lẫn trí não, trong đó “ăn 
bổ sung” là giai đoạn rất quan trọng cho sự 
phát triển của trẻ, nếu không chú ý những 
khuyến cáo khoa học khi cho trẻ ăn bổ sung 
cha mẹ có thể vô tình làm cho sức khỏe và 
sự phát triển của trẻ bị ảnh hưởng, dẫn đến 
nhiều hệ lụy khôn lường như trẻ thường 
xuyên mắc bệnh vì sức đề kháng quá yếu 
kém, suy dinh dưỡng dẫn đến còi cọc vì cơ 
thể thiếu hụt những chất dinh dưỡng thiết 
yếu. Và sự kém phát triển thể chất lẫn trí 
não sẽ khiến trẻ rất khó bắt kịp tốc độ tăng 
trưởng với các bạn đồng trang [1].
Tạp chí The Lancet, 2013 cho thấy: tình 
trạng dinh dưỡng của trẻ nhỏ là một trong 
những nguyên nhân dẫn đến 3,1 triệu/6,9 
triệu trẻ dưới 5 tuổi tử vong và 165 triệu trẻ 
em < 5 tuổi suy dinh dưỡng thể thấp còi. 
Trên 2/3 trong số trẻ bị tử vong dưới 5 tuổi 
là số trẻ < 1 tuổi và thường liên quan đến 
thực hành dinh dưỡng trẻ không hợp lý [4].
Hiện nay, nhiều trẻ nhỏ được nuôi 
dưỡng không đúng cách. Nhiều bà mẹ dù 
bắt đầu cho trẻ bú tốt nhưng cho trẻ ăn bổ 
sung sớm, hoặc chỉ cho bú vài tuần sau 
đẻ, hoặc cho trẻ bú mẹ không đúng cách. 
Một số trường hợp, trẻ phát triển tốt trong 6 
tháng đầu được nuôi bằng sữa mẹ nhưng 
lại cho trẻ ăn bổ sung quá muộn, hoặc cho 
trẻ ăn bổ sung không hợp lý. Hậu quả là 
trẻ bị suy dinh dưỡng, đặc biệt là suy dinh 
dưỡng thấp còi làm ảnh hưởng đến sự phát 
triển thể lực và trí tuệ của trẻ, một vấn đề 
đang gia tăng ở nhiều nước. Nguyên nhân 
chủ yếu gây suy dinh dưỡng trẻ em không 
phải do thiếu thức ăn mà do thiếu kiến thức 
cho trẻ bú mẹ và ăn bổ sung [7]. Nghiên 
cứu này được tiến hành nhằm đánh giá 
thực trạng kiến thức của bà mẹ về chế độ 
ăn bổ sung nhằm đưa ra các chương trình 
can thiệp dinh dưỡng góp phần giảm tỷ lệ 
suy dinh dưỡng trẻ em.Vì vậy, chúng tôi 
tiến hành nghiên cứu đề tài “Khảo sát kiến 
thức về chế độ ăn bổ sung cho các bà mẹ 
có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều trị tại 
bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định năm 2019” với 
mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức về chế 
độ ăn bổ sung cho các bà mẹ có con từ 6 
đến 24 tháng tuổi điều trị tại bệnh viện Nhi 
tỉnh Nam Định năm 2019.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm 
nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu (ĐTNC)
- Tiêu chuẩn lựa chọn: Tất cả các bà mẹ 
bà mẹ có con từ 6 đến 24 tháng tuổi điều 
trị tại bệnh viện Nhi tỉnh Nam Định; đồng ý 
tham gia nghiên cứu.
- Tiêu chuẩn loại trừ: Các bà mẹ không 
thể tiếp nhận và trả lời được các câu hỏi.
2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên 
cứu
Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 
11/2018 - tháng 11/2019 tại bệnh viện Nhi 
Tỉnh Nam Định.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt 
ngang 
2.2.2. Mẫu và phương pháp chọn mẫu
Phương pháp chọn mẫu: chọn mẫu 
thuận tiện
Cỡ mẫu:Thu thập từ tháng 4/2019 đến 
 ...  5.6%, công nhân 24.1%, 
viên chức 5.6% và bà mẹ làm các công việc 
khác: Nội trợ, tự do, buôn bán là 64.8%.
3.2. Thực trạng kiến thức về chế độ 
ăn bổ sung của bà mẹ
Bảng 3.1: Kiến thức về thời điểm cho 
trẻ ăn bổ sung hợp lý nhất 
Nội dung SL TL %
Trẻ tròn 4 tháng 14 25,9
Trẻ tròn 5 tháng 20 37,0
Trẻ tròn 6 tháng 18 33,3
Trẻ tròn 7 tháng 2 3,8
Tổng số 54 100
Nhận xét: Qua bảng 3.1 cho thấy: bà mẹ 
có kiến thức đúng về thời điểm cho trẻ ăn 
bổ sung hợp lý nhất theo khuyến cáo của 
WHO là khi trẻ tròn 6 tháng chỉ có 33.3% 
và bà mẹ có kiến thức chưa đúng là 66.7%.
Bảng 3.2: Kiến thức đúng về dấu hiệu 
nhận biết trẻ đã sẵn sàng ăn bổ sung 
Nội dung SL TL %
Trẻ thích nhìn người khác 
ăn và với tay lấy thức ăn 18 33,3
Trẻ thích đưa thứ gì đó 
vào miệng 29 53,7
Trẻ có thể điều chỉnh 
được lưỡi tốt hơn để đưa 
thức ăn di chuyển trong 
miệng
10 18,5
Trẻ băt đầu nhai và dịch 
chuyển hàm lên xuống 12 22,2
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy, 
hai dấu hiệu nhận biết trẻ đã sẵn sàng ăn 
bổ sung mà bà mẹ biết nhiều nhất là “ trẻ 
thích đưa cái gì đó vào miệng” và “trẻ thích 
nhìn người khác ăn và với tay lấy thức ăn” 
chiếm tỷ lệ lần lượt là 53.7% và 33.3%.
Bảng 3.3: Kiến thức đúng về hậu quả 
cho trẻ ăn bổ sung sớm 
Nội dung SL TL %
Trẻ giảm bú mẹ 6 11,1
Trẻ tăng nguy cơ mắc 
bệnh: tiêu chảy, suy dinh 
dưỡng
19 35,2
Tăng nguy cơ mang thai 
cho bà mẹ 8 14,8
Nhận xét: Với kết quả ở bảng 3.3, kiến 
thức đúng về hậu quả cho trẻ ăn bổ sung 
sớm vẫn còn thấp: tỷ lệ bà mẹ biết hậu quả 
là trẻ giảm bú mẹ 11.1%, trẻ tăng nguy cơ 
mắc bệnh là 35.2% và tăng nguy cơ mang 
thai cho bà mẹ 14.8%.
79
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Bảng 3.4: Kiến thức đúng về nguyên 
tắc cho trẻ ăn bổ sung 
Nội dung SL TL %
Ăn đúng độ tuổi 11 20,4
Ăn từ loãng đến đặc, ít 
đến nhiều, tập quen dần 
với thức ăn mới
26 48,1
Số lượng bữa ăn và thức 
ăn tăng dần theo tuổi 20 37,0
Sử dụng các thức ăn có 
sẵn tại địa phương và 
thay đổi thức ăn hàng 
ngày
30 55,6
Nhận xét: Với kết quả nghiên cứu thu 
được cho thấy, kiến thức đúng của bà mẹ 
về nguyên tắc cho trẻ ăn bổ sug như sau: 
Ăn đúng độ tuổi là 20.4%, Ăn từ loãng đến 
đặc, ít đến nhiềulà 48.1%, số lượng bữa 
ăn và thức ăn tăng dần theo tuổi là 37.0% 
và sử dụng thức ăn có sẵn tại địa phương 
là 55.6%.
Bảng 3.5: Kiến thức đúng về các nhóm 
thức ăn cơ bản cho trẻ ăn bổ sung 
Nội dung SL TL %
Nhóm thức ăn cung cấp 
chất bột 42 77,8
Nhóm thức ăn cung cấp 
chất đạm 38 70,4
Nhóm thức ăn cung cấp 
chất béo 40 74,1
Nhóm thức ăn cung cấp 
Vitanmin và chất khoáng 28 51,9
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy, 
kiến thức của bà mẹ về các nhóm thức ăn cơ 
bản cho trẻ ăn bổ sung tương đối tốt cụ thể: 
kiến thức đúng về nhóm thức ăn cung cấp 
chất bột là 77.8%, nhóm thức ăn cung cấp 
chất đạm là 70.4 %, nhóm thức ăn cung cấp 
chất béo là 74.1% và nhóm thức ăn cung cấp 
Vitamin và chất khoáng là 51.9%.
Bảng 3.6: Kiến thức về thời điểm bắt 
đầu cho trẻ ăn cháo và ăn cơm 
Nội dung SL TL %
Thời điểm cho trẻ ăn cháo
< 6 tháng 1 1,9
6 – 9 tháng 12 22,2
> 9 tháng - < 18 tháng 35 64,8
18 – 24 tháng 4 7,4
Không biết 2 3,7
Thời điểm cho trẻ ăn cơm
> 9 tháng - < 18 tháng 43 79,6
18 – 24 tháng 11 20,4
Tổng số 54 100
Nhận xét: Kiến thức đúng của bà mẹ về 
thời điểm bắt đầu ăn cháo và ăn cơm lần 
lượt là 64.8% và 20.4%. Bên cạnh đó, vẫn 
còn không ít bà mẹ cho trẻ ăn cơm sớm 
chiếm tỷ lệ là 79.6%.
Bảng 3.7: Kiến thức đúng về nguyên 
tắc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm 
khi cho trẻ ăn bổ sung 
Nội dung SL TL %
Giữ vệ sinh bàn tay và 
dụng cụ nhà bếp 31 57,4
Bảo đảm an toàn thức 
ăn và thực phẩm 30 55,6
Nấu chin thức ăn 39 72,2
Dùng nước sạch và 
thực phẩm tươi 41 75,9
Nhận xét:Theo kết quả nghiên cứu thu 
được ở bảng 3.7, kiến thức đúng của bà 
mẹ về nguyên tắc đảm bảo an toàn vệ sinh 
thực phẩm khi cho trẻ ăn bổ sung tương đối 
tốt: nguyên tắc giữ vệ sinh bàn tay và dụng 
cụ nhà bếp 57.4%, bảo đảm an toàn thức 
ăn và thực phẩm là 55.6%, Nấu chin thức 
ăn là 72.2% và dùng nước sạch và thực 
phẩm sạch là 75.9%.
80
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Bảng 3.8: Kiến thức về cách lựa chọn 
thực phẩm và cách cho trẻ ăn bổ sung 
Nội dung SL TL %
Cách lựa chọn thực phẩm
Theo mẹ nghĩ là tốt 28 51,9
Theo sở thích của trẻ 19 35,2
Vì mọi người nói tốt 7 13,0
Cách cho trẻ ăn bổ sung
Ép buộc trẻ ăn 20 37,0
Để trẻ tự ăn 15 27,8
Cho trẻ ăn dựa trên đáp 
ứng của trẻ 19 35,2
Tổng số 54 100
Nhận xét: Kết quả nghiên cứu cho thấy, 
kiến thức đúng về cách lựa chọ thực phẩm 
và cách cho trẻ ăn bổ sung theo khuyến 
cáo của WHO của bà mẹ lần lượt là 35.2% 
và 35.2%.
Bảng 3.9: Xếp loại kiến thức về trẻ ăn 
bổ sung của bà mẹ
Xếp loại kiến thức SL TL %
Tốt ( ≥75%) 0 0
Chưa tốt (< 75%) 54 100
4. BÀN LUẬN
Trong năm đầu cơ thể trẻ phát triển 
nhanh, đòi hỏi nhu cầu dinh dưỡng cao. 
Sữa mẹ là thức ăn tốt nhất dành cho trẻ 
dưới 6 tháng tuổi, nhưng không thể thoả 
mãn được nhu cầu về dinh dưỡng cho trẻ 
lớn hơn. Để đáp ứng được nhu cầu về dinh 
dưỡng trẻ phải có một chế độ ăn mới, chế 
độ ăn bổ sung, hay còn được gọi là ăn sam, 
ăn dặm, ăn thêm.
Ăn bổ sung là chế độ ăn dành cho trẻ từ 
6 đến 24 tháng tuổi, ăn bổ sung các thức ăn 
giàu năng lượng và chất dinh dưỡng khác 
ngoài sữa mẹ dưới dạng mềm hoặc đặc. 
Theo khuyến cáo của WHO, thời điểm bắt 
đầu cho ăn bổ sung hợp lý nhất là khi trẻ 6 
tháng tuổi (180 ngày) để giúp trẻ phát triển 
tốt. Vì vậy khi trẻ được 5 tháng tuổi nên tư 
vấn cho bà mẹ biết cách chọn thức ăn và 
cách cho trẻ ăn bữa ăn bổ sung đầu tiên, 
giúp bà mẹ có đủ kiến thức và kỹ năng cho 
trẻ ăn bổ sung khi trẻ tròn 6 tháng tuổi. Kết 
quả nghiên cứu ở bảng 3.1 cho thấy, tỷ lệ 
bà mẹ có kiến thức đúng về thời điểm cho 
trẻ ăn bổ sung hợp lý theo khuyến cáo của 
WHO không cao, chiếm tỷ lệ là 33.3%. Kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng 
với nghiên cứu Đinh Đạo (2014), tỷ lệ bà 
mẹ có kiến thức đúng về thời điểm cho trẻ 
ăn bổ sung là 33.2% [5], nghiên cứu của 
Trần Thị Quỳnh Anh (2017), chiếm tỷ lệ 
30.5% [3] và nghiên cứu của Rajesh Kumar 
Sethi et al (2017), là 30.9% [9]. 
Với kết quả nghiên cứu thu được ở bảng 
3.2, kiến thức đúng của bà mẹ về những 
dấu hiệu nhận biết trẻ sẵn sàng ăn bổ sung 
chưa cao như chỉ có 22.2% bà mẹ biết đến 
dấu hiệu “trẻ bắt đầu nhai và dịch chuyển 
hàm lên xuống” và 18.5% bà mẹ biết dấu 
hiệu “trẻ có thể điều chỉnh lưỡi tốt hơn để 
đưa thức ăn di chuyển trong miệng”. Điều 
này có thể lý giải có lẽ do khi bắt đầu cho 
trẻ ăn bổ sung bà mẹ chỉ chú ý nhiều về độ 
tuổi của trẻ hoặc theo kinh nghiệm của bản 
thân. 
Theo khuyến cáo của WHO, khi bà mẹ 
cho trẻ ăn bổ sung sớm sẽ gây ra nhiều 
hậu quả ảnh hưởng đến sự phát triển của 
trẻ như trẻ giảm bú mẹ, trẻ có nguy cơ bị 
mắc các bệnh nhiễm khuẩn hay gặp như 
tiêu chảy, viêm đường hô hấp. Ngoài ra, 
trẻ ăn bổ sung sớm sẽ làm tăng nguy cơ 
mang thai cho bà mẹ. Kết quả nghiên cứu 
cho thấy, kiến thức của bà mẹ về vấn đề 
81
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
này chưa tốt, cụ thể chỉ có 11.1% bà mẹ 
biết hậu quả của ăn bổ sung sớm là giảm 
bú mẹ, 35.2% bà mẹ biết hậu quả là trẻ 
tăng nguy cơ mắc bệnh, và 14.8% bà mẹ 
biết hậu quả tăng nguy cơ mang thai cho 
mẹ.
Ngoài vấn đề kiến thức đúng về thời 
điểm và các dấu hiệu nhận biết trẻ đã sẵn 
sàng ăn bổ sung thì một vấn đề quan trọng 
là bà mẹ cần biết được nguyên tắc cho trẻ 
ăn bổ sung thế nào cho đúng, cho hiệu quả 
để trẻ có một chế độ dinh dưỡng đầy đủ 
đáp ứng được nhu cầu phát triển của trẻ. 
Kết quả ở bảng 3.4 cho thấy, kiến thức của 
bà mẹ về các nguyên tắc này chưa đầy đủ, 
hai nguyên tắc bà mẹ biết nhiều là ăn từ 
loãng đến đặc, ít đến nhiềuvà nguyên tắc 
sử dụng các thức ăn có sẵn tại địa phương 
và thay đổi thức ăn hàng ngày chiếm tỷ lệ 
là 48.1% và 55.6%, hai nguyên tắc bà mẹ 
biết ít hơn là ăn đúng độ tuổi và nguyên tắc 
số lượng bữa ăn và thức ăn tăng dần theo 
tuổi lần lượt là 20.4% và 37.0%. Điều này, 
có thể được lý giải là do bà mẹ có tâm lý lo 
lắng sữa mẹ không đủ dinh dưỡng cho trẻ 
nên cho trẻ ăn bổ sung sớm, không đúng 
độ tuổi và tâm lý muốn con ăn được càng 
nhiều càng tốt. 
WHO nghiên cứu về dinh dưỡng đã 
thống nhất các loại thức ăn bổ sung cho 
trẻ được biểu thị theo ô vuông thức ăn, mà 
trung tâm của ô vuông thức ăn là sữa mẹ 
hay các thức ăn thay thế sữa mẹ như sữa 
công thức, sữa bòTrong ô vuông thức 
ăn gồm 4 nhóm thức ăn là nhóm thức ăn 
cung cấp chất bột, nhóm thức ăn cung cấp 
chất đạm, nhóm thức ăn cung cấp chất 
béo và nhóm thức ăn cung cấp Vitamin và 
chất khoáng. Nhìn chung, kiến thức của bà 
mẹ về 4 nhóm thức ăn cho trẻ ăn bổ sung 
tương đối tốt đều chiếm tỷ lệ trên 70%, duy 
nhất có nhóm thức ăn cung cấp Vitamin và 
muối khoáng là bà mẹ biết ít nhất, chiếm tỷ 
lệ là 51.9%. 
Khi trẻ đến thời điểm ăn bổ sung, bà mẹ 
cần biết lựa chọn loại thức ăn phù hợp với 
đặc điểm phát triển của trẻ ở mỗi giai đoạn, 
điều này có ý nghĩa quan trọng giúp trẻ có 
thể hấp thu được một cách tốt nhất các 
chất dinh dưỡng. Các trẻ trên 9 tháng tuổi 
đã có sự phát triển về vận động và ngôn 
ngữ nhiều hơn nên nhu cầu dinh dưỡng 
đòi hỏi cao hơn. Hơn nữa, trẻ đã có mọc 
răng và có thể ăn được một vài thức ăn 
lơn cợn khác ngoài bột để tập nhai, giúp 
không biếng ăn về sau. Đây là thời điểm 
có thể tập cho trẻ ăn cháo. Thời điểm ăn 
cháo của trẻ cũng đóng một vai trò không 
nhỏ đối với tình trạng dinh dưỡng. Nếu ăn 
cháo quá sớm cũng có thể chậm lên cân 
do đậm độ năng lượng thấp hơn trong bột. 
Đối với trẻ ở lứa tuổi từ 18 tháng tuổi trở 
lên là thời điểm thích hợp cho trẻ ăn cơm 
là khi trẻ đã có răng hàm và có khả năng 
nhai cơm. Nếu ăn cơm quá sớm sẽ gây cho 
trẻ bị rối loạn tiêu hóa, kém hấp thu, biếng 
ăn dẫn đến suy dinh dưỡng vì hệ tiêu hóa 
của trẻ chưa hoàn thiện. Còn nếu ăn cơm 
trễ trẻ sẽ bị thiếu chất và suy dinh dưỡng. 
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy kiến thức 
của bà mẹ chưa tốt: 64.8% bà mẹ biết đúng 
thời điểm cho trẻ ăn cháo là > 9 tháng - < 
18 tháng và 20.4% bà mẹ biết đúng về thời 
điểm cho trẻ ăn cơm là từ 18 – 24 tháng 
và 79.6% bà mẹ cho trẻ ăn cơm sớm. Kết 
quả này tương đồng với nghiên cứu của 
Nguyễn Thị Thu Hậu và cộng sự (2010), tỷ 
lệ bà mẹ biết đúng về thời điểm cho trẻ ăn 
cơm theo khuyến nghị là 19.4% [6]. 
Cho trẻ ăn bổ sung đảm bảo an toàn vệ 
sinh thực phẩm sẽ làm giảm nguy cơ nhiễm 
khuẩn và giảm nguyên nhân mắc các bệnh 
nhiễm khuẩn cho trẻ. Kết quả thu được ở 
bảng 3.7 cho thấy, kiến thức đúng của bà 
mẹ về nguyên tắc giữ vệ sinh bà tay, dụng 
cụ nhà bếp, nguyên tắc đảm bảo an toàn 
thức ăn, nguyên tắc nấu chín thức ăn và 
nguyên tắc dùng nước sạch chiếm tỷ lệ lần 
82
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
lượt là 57.4%, 55.6%, 72.2% và 75.9%. Kết 
quả nghiên cứu này cao hơn nghiên cứu 
của Fazal Dad, Ijaz Habib (2017), nguyên 
tắc vệ sinh bàn tay chiếm 45%. [8]. 
Theo khuyến cáo của WHO, khi lựa 
chọn thực phẩm cho trẻ ăn bổ sung, các bà 
mẹ nên lựa chọn theo sở thích của trẻ để 
kích thích sự ngon miệng giúp trẻ ăn được 
tốt hơn. Tại thời điểm nghiên cứu, chỉ có 
35.2% bà mẹ lựa chọn thực phẩm theo sở 
thích của trẻ. Tương tự về cách cho trẻ ăn 
bổ sung, chỉ có 35.2% bà mẹ có kiến thức 
đúng về cách cho trẻ ăn bổ sung là cho trẻ 
ăn dựa trên đáp ứng của trẻ. 
5. KẾT LUẬN
Thực trạng kiến thức về chế độ ăn bổ 
sung của các bà mẹ có con từ 6 đến 24 
tháng tuổi là chưa tốt:
- Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về thời 
điểm cho trẻ ăn bổ sung hợp lý theo khuyến 
cáo của WHO là 33.3%.
- Tỷ lệ bà mẹ biết hậu quả ăn bổ sung 
sớm là trẻ giảm bú mẹ là 11.1%.
- Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về thời 
điểm cho trẻ ăn cơm là 20.4%
- Tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về cách 
lựa chọn thực phẩm cho trẻ ăn bổ sung là 
35.2%
Với kết quả nghiên cứu trên,chúng tôi 
khuyến nghị cần tăng cường truyền thông 
giáo dục sức khỏe cho các bà mẹ ăn về 
chế độ ăn bổ sung theo khuyến cáo của Tổ 
chức Y tế thế giới (WHO) tập trung vào một 
số nội dung như thời điểm cho trẻ ăn, cách 
lựa chọn thực phẩm, dấu hiệu nhận biết trẻ 
sẵn sàng ăn bổ sung
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alive & Thrive (2012), Báo cáo điều 
tra ban đầu: báo cáo toàn văn điều tra 11 
tỉnh về nuôi dưỡng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ
2. Trần Thị Quỳnh Anh, Cao thị Thu 
Hương và Bùi Thị Nhung (2017), Tình trạng 
dinh dưỡng của trẻ dưới 12 tháng tuổi và 
thực hành nuôi dưỡng trẻ của bà mẹ tại 
Vĩnh Phúc, Hải Dương, Nam Định, Tạp chí 
Y học dự phòng, tập 27 số 3.
3. Trần Thị Quỳnh Anh, Cao thị Thu 
Hương và Bùi Thị Nhung (2017), Thực 
trạng thiếu máu ở trẻ 6-23 tháng tuổi và 
thực hành cho trẻ ăn bổ sung của bà mẹ tại 
xã Thục Luyện và Định Quả, Thanh Sơn, 
Phú Thọ, Tạp chí Y học dự phòng, tập 27 
số 3
4. Bộ Y tế (2015), Tài liệu nuôi dưỡng 
trẻ nhỏ.
5. Đinh Đạo (2014), Nghiên cứu thực 
trạng và kết quả can thiệp phòng chống 
suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi người 
dân tộc thiểu số tại huyện Bắc Trà My tỉnh 
Quảng Nam, Luận án tiến sỹ y học, Trường 
Đại học Y Dược Huế.
6. Nguyễn Thị Thu Hậu và cộng sự 
(2010), Khảo sát chất lượng bữa ăn dặm 
cho trẻ từ 6 -24 tháng tuổi đến khám dinh 
dưỡng tại bệnh viện Nhi Đồng 2, Y học TP 
Hồ Chí Minh, tập 14, số 4.
7. Viện Dinh dưỡng -UNICEF (2011), 
Tình hình dinh dưỡng Việt Nam năm 2009-
2010, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, tr. 6-7, 
15-25.
8. Fazal Dad, Ijaz Habib (2017), Mother’s 
Knowledge, Attitude and Practices (KAP) 
Regarding Complementary Feeding for 
Children Age 06-24 Months in Kurrum 
Agency of FATA Pakistan, Public Health 
and Preventive Medicine, Vol. 3, No. 6, 
2017, pp. 33-42.
9. Rajesh Kumar Sethi et al (2017), 
Knowledge, attitude and practices 
regarding complementary feeding among 
mothers of children 6 to 24 months of age 
in Konaseema region, International journal 
of contemporary pediatrics, vol 4, issue 2, 
394-398.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_kien_thuc_ve_che_do_an_bo_sung_cua_cac_ba_me_co_c.pdf