Thực trạng kiến thức, thái độ, về ung thư cổ tử cung và dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y dược Thái Nguyên năm 2018

Đánh giá kiến thức, thái độ về ung thư cổ tử cung, dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên năm 2018. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 132 sinh viên nữ năm thứ nhất Khoa Điều dưỡng Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên.

Thực trạng kiến thức, thái độ, về ung thư cổ tử cung và dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y dược Thái Nguyên năm 2018 trang 1

Trang 1

Thực trạng kiến thức, thái độ, về ung thư cổ tử cung và dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y dược Thái Nguyên năm 2018 trang 2

Trang 2

Thực trạng kiến thức, thái độ, về ung thư cổ tử cung và dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y dược Thái Nguyên năm 2018 trang 3

Trang 3

Thực trạng kiến thức, thái độ, về ung thư cổ tử cung và dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y dược Thái Nguyên năm 2018 trang 4

Trang 4

Thực trạng kiến thức, thái độ, về ung thư cổ tử cung và dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y dược Thái Nguyên năm 2018 trang 5

Trang 5

Thực trạng kiến thức, thái độ, về ung thư cổ tử cung và dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y dược Thái Nguyên năm 2018 trang 6

Trang 6

Thực trạng kiến thức, thái độ, về ung thư cổ tử cung và dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y dược Thái Nguyên năm 2018 trang 7

Trang 7

Thực trạng kiến thức, thái độ, về ung thư cổ tử cung và dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y dược Thái Nguyên năm 2018 trang 8

Trang 8

pdf 8 trang Danh Thịnh 12/01/2024 2620
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng kiến thức, thái độ, về ung thư cổ tử cung và dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y dược Thái Nguyên năm 2018", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng kiến thức, thái độ, về ung thư cổ tử cung và dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y dược Thái Nguyên năm 2018

Thực trạng kiến thức, thái độ, về ung thư cổ tử cung và dự định phòng ngừa của sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y dược Thái Nguyên năm 2018
ISSN: 1859-2171 TNU Journal of Science and Technology 194(01): 27 - 34 
 Email: jst@tnu.edu.vn 27 
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, VỀ UNG THƯ CỔ TỬ CUNG VÀ 
DỰ ĐỊNH PHÒNG NGỪA CỦA SINH VIÊN ĐIỀU DƯỠNG NĂM THỨ NHẤT 
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÁI NGUYÊN NĂM 2018 
Lê Thị Bích Ngọc*, Nguyễn Thị Tú Ngọc 
Trường Đại học Y Dược – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Mục tiêu: Đánh giá kiến thức, thái độ về ung thư cổ tử cung, dự định phòng ngừa của sinh viên 
điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên năm 2018. Đối tượng 
và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 132 sinh viên nữ năm thứ nhất Khoa 
Điều dưỡng Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên. Đối tượng nghiên cứu được khảo sát 
dựa trên bộ câu hỏi tự điền. Kết quả: Điểm thái độ của đối tượng nghiên cứu là 30,8 ± 4,3 (Min = 
16, Max = 40), điểm kiến thức là 10,9 ± 2,9, trong đó có phân loại Không đạt có 58 đối tượng, Đạt 
74 đối tượng. Về Dự định tiêm phòng có 80 đối tượng dự định sẽ tiêm phòng và 52 đối tượng chưa 
có dự định tiêm phòng. Có mối tương quan thuận giữa kiến thức và thái độ (p<0,05). Các biến “Đã 
nghe về ung thư cổ tử cung”, “Ung thư cổ tử cung có thể phòng ngừa được bằng vắc xin”, “nhiễm 
HPV là nguy cơ gây ung thư cổ tử cung”, “Phụ nữ bị các bệnh lây truyền qua đường tình dục có 
nguy cơ ung thư cổ tử cung cao hơn” là các biến dự đoán khả năng đối tượng nghiên cứu sẽ có khả 
năng tiêm phòng. 
Từ khóa: Kiến thức, thái độ về ung thư cổ tử cung, các biện pháp sàng lọc, phòng ngừa và các 
yếu tố nguy cơ, dự định tiêm phòng vắc xin HPV 
Ngày nhận bài: 07/11/2018; Ngày hoàn thiện: 10/12/2018; Ngày duyệt đăng: 31/01/2019 
KNOWLEDGE, ATTITUDE AND PREVENTIVE INTENTION 
ABOUT CERVICAL CANCER OF THE FIRST YEAR NURSING STUDENTS 
IN THAI NGUYEN UNIVERSITY OF MEDICINE PHARMACY IN 2018 
Le Thi Bich Ngoc
*
, Nguyen Thi Tu Ngoc 
University of Medicine and Pharmacy - TNU 
ABSTRACT 
Objectives: To examine knowledge and attitudes towards cervical cancer, intention prevention 
measures and the related factors of first year nursing students at Thai Nguyen University of 
Medicine. Subjects and methods: Cross-sectional descriptive study was conducted on 132 nursing 
students. Study subjects were surveyed using self-administered questionnaires. Results: The 
attitudes of the subjects were 30.8 ± 4.3 (Min = 16, Max = 40), the knowledge scores were 10.9 ± 
2.9. 58 subjects have less knowledgeable, 74 subjects more knowledgeable. Intended vaccination 
80 subjects intending to vaccinate and 52 subjects have not planned vaccination. There is a 
positive correlation between knowledge and attitudes (p <0.05). Variables "Have heard about 
cervical cancer", "Cervical cancer can be prevented with vaccines", "HPV infection is a cause for 
causing cervical cancer", "Women with STIs are at risk of cervical cancer higher" are predictors of 
the probability that subjects will be able to vaccinate. 
Key words: Cervical cancer knowledge, screening methods, prevention and risk factors, Attitude 
toward cervical cancer and preventive measures, Intended vaccination for HPV 
Received: 07/11/2018; Revised: 10/12/2018; Approved: 31/01/2019 
* Corresponding author: Email: ngocleytn@gmail.com 
Lê Thị Bích Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 27 - 34 
 Email: jst@tnu.edu.vn 28 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Ung thư cổ tử cung (UTCTC) rất hay gặp, 
chiếm hàng đầu trong các ung thư sinh dục 
nữ, không những ở Việt Nam mà còn ở khắp 
nơi trên thế giới. Hàng năm trên thế giới có 
khoảng 500.000 phụ nữ mới mắc bệnh. Đa số 
các trường hợp gặp ở các nước kém phát triển 
và đang phát triển, nơi chưa có hệ thống sàng 
lọc phát hiện sớm ung thư CTC, kèm theo có 
rất nhiều yếu tố nguy cơ như: Nhiễm virus 
gây u nhú ở người (HPV), hút thuốc lá, suy 
giảm chức năng miễn dịch,[7] Tại Việt 
Nam, ung thư CTC là một trong 5 ung thư 
thường gặp ở nữ. Ước tính năm 2010 có 
5.664 ca mới mắc và hơn 3000 ca tử vong do 
ung thư CTC [1]. Tại Hà Nội, giai đoạn 2004-
2008, ung thư CTC mắc với tần suất chuẩn 
theo tuổi là 10,5/100.000, trong khi đó, tại 
thành phố Hồ Chí Minh, tần suất này là 
15,3/100.000. Tuổi thường gặp là 40-60, 
trung bình là 48-52 tuổi [1]. Ngày nay, người 
ta đã xác định nhiễm virus sinh u nhú ở người 
(HPV) đặc biệt các HPV típ 16, 18 là nguyên 
nhân chính gây ung thư CTC. 
Phụ nữ bị ung thư cổ tử cung phải gánh chịu 
những ảnh hưởng lớn về thể chất và tinh thần. 
Một kết quả xét nghiệm bất thường hoặc một 
chẩn đoán tiền ung thư cũng có thể làm chất 
lượng cuộc sống của người phụ nữ bị ảnh 
hưởng nghiêm trọng. Các chuyên gia y tế 
khẳng định UTCTC là bệnh nguy hiểm nhưng 
hoàn toàn có thể phòng và điều trị khỏi nếu 
được phát hiện sớm. Trong đó việc tiêm vắc 
xin và khám tầm soát UTCTC sàng lọc và 
điều trị tổn thương tiền ung thư là các phương 
pháp dự phòng hiệu quả khuyến khích được 
áp dụng. Gần đây tỷ lệ phát bệnh đang có xu 
hướng trẻ hóa rõ rệt, do đó phụ nữ cần nâng 
cao ý thức phòng bệnh hơn nữa. 
Hiện nay các chương trình sàng lọc đã được 
triển khai tại nhiều nước phát triển, làm giảm 
đáng kể tỷ lệ tử vong do UTCTC. Tại Việt 
Nam chương trình phòng chống ung đã bắt 
đầu từ 2008. Một trong những mục tiêu của 
các chương trình này là xây dựng mô hình 
sàng lọc phát hiện sớm ung thư tại cộng đồng. 
UTCTC là bệnh có thể phòng ngừa nên kiến 
thức, thái độ của người phụ nữ đóng vai trò 
tiên quyết để đạt được hiệu quả của chương 
trình. Sinh viên năm thứ nhất là một trong các 
đối tượng trong độ tuổi tiêm phòng ung thư 
cổ tử cung. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu “Khảo sát kiến thức, thái độ, về ung thư 
cổ tử cung và dự định phòng ngừa của sinh 
viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường Đại 
học Y Dược Thái Nguyên năm 2018”, với 
mục tiêu: Đánh giá kiến thức, thái độ về ung 
thư cổ tử cung và dự định phòng ngừa của 
sinh viên điều dưỡng năm thứ nhất tại Trường 
Đại học Y Dược Thái Nguyên năm 2018. 
ĐỐI TƯỢNG V ...  lệ (%) 
Hút thuốc lá 
Đúng 95 72 
Sai 37 28 
Nhiều bạn tình 
Đúng 98 25,8 
Sai 34 74,2 
Nhiễm vi rút HPV 
Đúng 63 52,3 
Sai 69 47,7 
Các bệnh lây truyền qua đường tình dục 
Đúng 12 9,1 
Sai 120 90,9 
Hội chứng suy giảm miễn dịch ở người 
Đúng 64 28,5 
Sai 68 51,5 
Quan hệ tình dục sớm 
Đúng 31 23,5 
Sai 101 76,5 
Gia đình có tiền sử UTCTC 
Đúng 81 61,4 
Sai 51 38,6 
Sử dụng thuốc tránh thai trong một thời gian dài 
Đúng 98 74,2 
Sai 34 25,8 
Sống chung với bệnh nhân UTCTC 
Đúng 42 31,8 
Sai 90 68,2 
Tổng điểm và phân loại kiến thức của đối tượng nghiên cứu về ung thư cổ tử cung 
Điểm trung bình kiến thức của đối tượng nghiên cứu về ung thư cổ tử cung là 10,9 (Độ lệch 
chuẩn = 2,9) trong đó điểm thấp nhất là 5 và cao nhất là 17. Bên cạnh đó khi phân loại mức độ 
kiến thức thì có 58 đối tượng nghiên cứu ở mức độ không đạt chiếm 43,9%, tỷ lệ đối tượng ở 
mức độ đạt chiếm 56,1%. 
Lê Thị Bích Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 27 - 34 
 Email: jst@tnu.edu.vn 31 
Bảng 4. Thái độ của đối tượng nghiên cứu về UTCTC và sàng lọc 
Phát biểu 
Rất không 
đồng ý (%) 
Không 
đồng ý (%) 
Trung tính 
(%) 
Đồng ý 
(%) 
Rất đồng ý 
(%) 
Ung thư cổ tử cung là bệnh vô phương cứu chữa 9(6,9) 47(35,6) 27(20,5) 42(31,8) 7(5,3) 
Tôi có nguy cơ bị UTCTC 11(8,4) 15(11,4) 66(50,0) 33(25,0) 7(5,3) 
Khám sàng lọc UTCTC là quan trọng 6(4,5) 1(0,8) 8(6,1) 60(45,5) 57(43,2) 
Chỉ những phụ nữ có hoạt động tình dục cần 
sàng lọc UTCTC 
14(10,6) 43(32,6) 44(33,3) 26(19,7) 5(3,8) 
Phụ nữ bị các bệnh lây truyền qua đường 
tình dục có nguy cơ bị UTCTC cao hơn 
6(4,5) 15(11,4) 52(39,4) 46(34,8) 13(9,8) 
Khi bị chẩn đoán là UTCTC thì không có 
biện pháp để điều trị 
29(22) 74(56,1) 9(6,8) 12(9,1) 8(6,1) 
Cơ hội để chữa bệnh UTCTC tốt hơn khi 
bệnh được phát hiện sớm 
14(10,6) 8(6,1) 11(8,3) 49(37,1) 50(37,9) 
UTCTC là một án tử cho người bệnh 28(21,2) 58(43,9) 25(18,9) 19(14,4) 2(1,5) 
Rất khó để giảm nguy cơ mắc UTCTC cho 
phụ nữ 
31(23,5) 59(44,7) 20(15,2) 21(15,9) 1(0,8) 
Khi bị UTCTC người phụ nữ sẽ có một số 
biểu hiện của bệnh 
8(6,1) 7(5,3) 8(6,1) 82(62,1) 27(20,5) 
Tổng điểm = 30,8 ± 4,3 (Min = 16, Max = 40) 
Bảng 5. Mối liên quan giữa kiến thức và dự định tiêm phòng vắc xin HPV của đối tượng nghiên cứu (n = 132) 
 Dự định 
OR 95% CI 
Không Có 
Phân loại 
kiến thức 
Không đạt 36 22 
5,9 2,8 – 12,8 
Đạt 16 58 
Bảng 6. Mô hình hồi quy logistic dự đoán khả năng tiêm phòng Vắc xin HPV của đối tượng nghiên cứu với 
các biến tiên lượng có liên quan 
Biến dự đoán B OR 95% CI p 
Đã nghe về ung thư cổ tử cung 4,084 59,4 6,5 – 546,5 0,000 
Ung thư cổ tử cung có thể phòng ngừa được 
bằng vắc xin 
2,583 13,2 3,4 – 50,3 0,000 
Nhiễm HPV là nguy cơ gây UTCTC 1,362 3,9 1,1 – 13,9 0,036 
Phụ nữ bị các bệnh lây truyền qua đường tình 
dục có nguy cơ UTCTC cao hơn 
0,947 2,6 1,3 – 5,1 0,006 
Nagelkerke R square for the model: 0,761 
Bảng 4 cho thấy thái độ của đối tượng nghiên 
cứu về ung thư cổ tử cung và sàng lọc ung thư 
cổ tử cung. Trong số các phát biểu thì phát 
biểu “Khi bị chẩn đoán là ung thư cổ tử cung 
thì không có biện pháp điều trị ”, “UTCTC là 
một án tử cho người bệnh” và “Rất khó để 
giảm nguy cơ mắc UTCTC” có tỷ lệ đối 
tượng nghiên cứu trả lời là rất không đồng ý 
và không đồng ý chiếm tỷ lệ cao. Tỷ lệ đối 
tượng trả lời là đồng ý và rất đồng ý với các 
phát biểu “Khám sàng lọc UTCTC là quan 
trọng” và “Cơ hội để chữa bệnh UTCTC tốt 
hơn khi người bệnh được phát hiện sớm ” 
chiếm tỷ lệ cao. 
Mối tương quan giữa kiến thức và thái độ của 
đối tượng nghiên cứu về ung thư cổ tử cung 
và sàng lọc: Kiến thức và thái độ của đối 
tượng nghiên cứu có mối tương quan thuận 
tương đối cao với r = 0,502 (p < 0,001). 
Dự định của đối tượng nghiên cứu về tiêm 
phòng vắc xin HPV: Trong tổng số 132 đối 
tượng nghiên cứu có 80 đối tượng dự định sẽ 
tiêm phòng chiếm tỷ lệ 60,6% chỉ có 39,4% 
đối tượng chưa có dự định tiêm phòng. 
Bảng 5 cho thấy có mối liên quan giữa kiến 
thức và dự định tiêm phòng của đối tượng 
nghiên cứu với nhóm đối tượng nghiên cứu 
có kiến thức đạt thì khả năng tiêm phòng vắc 
Lê Thị Bích Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 27 - 34 
 Email: jst@tnu.edu.vn 32 
xin HPV để phòng chống ung thư cổ tử cung 
sẽ cao hơn (OR = 5,9, 95% CI = 2,8 – 12,8). 
Bảng 6 cho thấy các biến trong mô hình hồi 
quy có thể dự đoán được 76,1% dự định tiêm 
phòng của đối tượng nghiên cứu. Trong đó 
nếu đối tượng nghiên cứu “Đã nghe về ung 
thư cổ tử cung”, Đối tượng nghiên cứu biết 
rằng “Ung thư cổ tử cung có thể phòng ngừa 
được bằng vắc xin”, “nhiễm HPV là nguy cơ 
gây UTCTC”, “Phụ nữ bị các bệnh lây truyền 
qua đường tình dục (LTQĐTD) có nguy cơ 
UTCTC cao hơn” thì khả năng đối tượng 
nghiên cứu sẽ có khả năng tiêm phòng cao hơn. 
BÀN LUẬN 
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức của 
đối tượng nghiên cứu về phòng bệnh, sàng lọc 
và triệu chứng của ung thư cổ tử cung là 
tương đối tốt điều đó được thể hiện qua tỷ lệ 
đối tượng trả lời đúng các câu hỏi tương đối 
cao tuy nhiên tỷ lệ câu trả lời đúng đối với 
các câu hỏi độ tuổi khuyến khích nên tiêm 
chủng, độ tuổi sàng lọc ung thư cổ tử cung 
chiếm tỷ lệ thấp hơn lần lượt là 4,5% và 
2,3%. Kết quả này cũng tương tự như kết quả 
nghiên cứu của Ndejjo và cộng sự (2016) [5] 
được thực hiện tại Uganda trên đối tượng là 
phụ nữ trong độ tuổi từ 25 đến 49. Trong 
nghiên cứu này tác giả cũng cho thấy phần 
lớn đối tượng nghiên cứu biết ít nhất một biện 
pháp để phòng ngừa UTCTC (62,4%) và 
82,6% biết ít nhất một triệu chứng của 
UTCTC [5]. Tuy nhiên tỷ lệ đối tượng biết độ 
tuổi khuyến khích tiêm phòng và độ tuổi nên 
bắt đầu làm sàng lọc UTCTC cũng chiếm tỷ 
lệ không cao [5]. Đồng thời, kết quả của 
nghiên cứu cũng cho thấy kiến thức của đối 
tượng nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ của 
ung thư cổ tử cung là tương đối tốt, tỷ lệ đối 
tượng trả lời đúng khá cao. Tuy nhiên với câu 
hỏi về các bệnh lây truyền qua đường tình 
dục, quan hệ tình dục sớm và sống chung với 
người bệnh ung thư cổ tử cung tỷ lệ trả lời 
đúng không cao lần lượt là 9,1%, 23,5% và 
31,8%. Kết quả này tương tự với kết quả 
nghiên cứu của Ifrah Mohamed Artan (2015) 
[2] thực hiện trên đối tượng là sinh viên tại 
UAE năm 2015. Trong nghiên cứu này Artan 
và cộng sự cũng cho thấy rằng có 55% đối 
tượng nghiên cứu không biết về HPV [2].. 
Nhiễm vi rút gây u nhú ở người (HPV) cũng 
là một trong các nguyên nhân gây UTCTC, 
hiện tại đã có vắc xin phòng HPV chủng 16, 
18 tại Việt Nam. Hai chủng này gây ra 
khoảng 70% các trường hợp UTCTC hiện 
nay, tuy nhiên, hiểu biết về HPV còn rất hạn 
chế. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có thể 
được giải thích như sau: Nhìn chung kiến 
thức về UTCTC, sàng lọc và các biện pháp 
phòng ngừa UTCTC của đối tượng là tương 
đối tốt vì đối tượng nghiên cứu có độ tuổi 
trung bình là 18, đây là độ tuổi rất thích hợp 
cho việc học và tiếp thu các kiến thức mới 
hơn nữa trong nghiên cứu này có 75% đối 
tượng nghiên cứu đã từng nghe được các 
thông tin về UTCTC và có 55,3% đối tượng 
nghiên cứu từng có người thân, quen mắc 
UTCTC. 
Kết quả của nghiên cứu cho thấy thái độ của 
đối tượng nghiên cứu về ung thư cổ tử cung 
và sàng lọc ung thư cổ tử cung. Trong số các 
phát biểu thì phát biểu “Khi bị chẩn đoán là 
ung thư cổ tử cung thì không có biện pháp 
điều trị”, “UTCTC là một án tử cho người 
bệnh” và “Rất khó để giảm nguy cơ mắc 
UTCTC” có tỷ lệ đối tượng nghiên cứu trả lời 
là rất không đồng ý và không đồng ý chiếm tỷ 
lệ cao. Tỷ lệ đối tượng trả lời là đồng ý và rất 
đồng ý với các phát biểu “Khám sàng lọc 
UTCTC là quan trọng” và “Cơ hội để chữa 
bệnh UTCTC tôt hơn khi người bệnh được 
phát hiện sớm” chiếm tỷ lệ cao. Điều này 
phản ánh hầu hết đối tượng nghiên cứu có 
thái độ tích cực trong việc phòng chống và 
hướng tới sàng lọc UTCTC. Kết quả nghiên 
cứu này cũng tương đồng với kết quả nghiên 
cứu của Ndejjo và cộng sự (2016) [5] được 
thực hiện tại Uganda. Trong nghiên cứu của 
nhóm tác giả này thì 94,7% đối tượng cho 
rằng UTCTC là một bệnh nghiêm trọng, 
94,4% đối tượng tin rằng sàng lọc UTCTC là 
quan trọng, 78,4% đối tượng nghiên cứu đồng 
Lê Thị Bích Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 27 - 34 
 Email: jst@tnu.edu.vn 33 
ý rằng cơ hội chữa trị UTCTC là cao hơn đối 
với những trường hợp bệnh được phát hiện 
sớm [5]. Trong nghiên cứu của chúng tôi khi 
tìm hiểu mối tương quan giữa kiến thức và 
thái độ của đối tượng nghiên cứu về UTCTC 
và sàng lọc chúng tôi thấy rằng có mối tương 
quan thuận có ý nghĩa thống kê giữa kiến thức 
và thái độ của đối tượng nghiên cứu (r = 
0,502, p < 0,001). Khi đối tượng nghiên cứu 
có kiến thức tốt thì có thái độ về UTCTC và 
sàng lọc UTCTC tích cực hơn. 
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong tổng số 
132 đối tượng nghiên cứu có 80 đối tượng dự 
định sẽ tiêm phòng chiếm tỷ lệ 60,6%, chỉ có 
39,4% đối tượng chưa có dự định tiêm phòng. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có tỷ lệ đối 
tượng dự định tiêm phòng tương đồng với kết 
quả nghiên cứu của Vico Chung Lim Chiang 
(2016) [3] tại Hồng Kông năm 2015 và cao 
hơn nhiều so với kết quả nghiên cứu của 
Archin Songthap tại Thái Lan năm 2009 [6]. 
Trong nghiên cứu của tác giả Vico Chung 
Lim Chiang và cộng sự (2016) [3] thì 69,6% 
đối tượng nghiên cứu có dự định sẽ tiêm 
phòng. Trong nghiên cứu của nhóm tác giả 
Archin Songthap chỉ có 29% đối tượng 
nghiên cứu dự định sẽ tiêm phòng [6]. 
Kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy có mối 
tương quan thuận giữa kiến thức và dự định 
tiêm phòng của đối tượng nghiên cứu với 
nhóm đối tượng nghiên cứu có kiến thức đạt 
thì khả năng tiêm phòng vắc xin HPV để 
phòng chống ung thư cổ tử cung sẽ cao hơn 
(OR = 5,9, 95% CI = 2,8 – 12,8). Kết quả 
nghiên cứu cũng chỉ ra một số biến dự đoán 
khả năng tiêm phòng của đối tượng nghiên 
cứu như “Đã từng nghe được các thông tin về 
UTCTC”, đối tượng nghiên cứu biết được 
“Ung thư cổ tử cung có thể phòng ngừa được 
bằng vắc xin”, “Nhiễm HPV là nguy cơ gây 
UTCTC” và “Phụ nữ bị các bệnh LTQĐTD 
có nguy cơ UTCTC cao hơn”. Kết quả của 
nghiên cứu cũng tương đồng với nhiều nghiên 
cứu khác. Kiến thức là Một trong số nhiều 
yếu tố tác động tới việc thực hành phòng 
chống UTCTC của đối tượng nghiên cứu. 
Nếu kiến thức về phòng chống UTCTC chưa 
đúng và đầy đủ, sẽ trở thành rào cản hành vi 
dẫn đến việc tiếp cận kịp thời các hoạt động 
dự phòng. Hiện nay, vẫn còn thiếu các bằng 
chứng khoa học xác thực về thực hành phòng 
ngừa UTCTC trong nữ giới tại Việt Nam. 
KẾT LUẬN 
Điểm trung bình kiến thức của đối tượng 
nghiên cứu về ung thư cổ tử cung là 10,9 (Độ 
lệch chuẩn = 2,9) trong đó điểm thấp nhất là 5 
và cao nhất là 17. Đối tượng nghiên cứu có 
mức độ kiến thức không đạt chiếm 43,9%, 
mức độ đạt chiếm 56,1%. Thái độ của đối 
tượng nghiên cứu về UTCTC, sàng lọc 
UTCTC. Điểm trung bình thái độ của đối 
tượng nghiên cứu là 30,8 ± 4,3 trong đó điểm 
thấp nhất là 16 cao nhất là 40. Kiến thức và 
thái độ của đối tượng nghiên cứu có mối 
tương quan thuận với r = 0,502 (p < 0,001). 
Về dự định tiêm phòng trong tổng số 132 đối 
tượng nghiên cứu có 80 đối tượng dự định sẽ 
tiêm phòng chiếm tỷ lệ 60,6%, chỉ có 39,4% 
đối tượng chưa có dự định tiêm phòng. Có 
mối liên quan giữa kiến thức và dự định tiêm 
phòng của đối tượng nghiên cứu. 
KHUYẾN NGHỊ 
Phối hợp với các cơ quan, đoàn thể, các tổ 
chức xã hội các nhân viên y tế tăng cường 
phổ biến thông tin về UTCTC, các biện pháp 
ngòng ngừa, các phương pháp sàng lọc phát 
hiện sớm ung thư cổ tử cung dưới mọi hình 
thức: Tivi, đài phát thanh, tờ rơi, quảng cáo, 
tranh ảnh, vào trường học, buổi tuyên truyền 
giáo dục sức khỏe tại địa phương về chủng 
ngừa HPV, rộng rãi trong cộng đồng, và khu 
vực ngoại thành. Đặc biệt là các thông tin liên 
quan đến chủng ngừa HPV như hiệu quả, mức 
độ an toàn của việc tiêm phòng, độ tuổi 
khuyến khích nên tiêm phòng. Cung cấp 
những địa chỉ đối tượng có thể nhận được sự 
hỗ trợ tư vấn khi cần thiết. Cần chú ý khi tư 
vấn cho đối tượng khách hàng nhưng không 
làm cho khách hàng lầm tưởng đang tuyên 
Lê Thị Bích Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 194(01): 27 - 34 
 Email: jst@tnu.edu.vn 34 
truyền quảng cáo cho công ty thuốc. Tốt nhất 
nên kết hợp với các buổi sinh hoạt ngoại 
khóa, ngoài giờ tại các nhà trường để tuyên 
truyền cho những đối tượng đang trong độ 
tuổi tiêm phòng. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Y tế (2012), Ung thư cổ tử cung. Giới thiệu 
một số bệnh ung thư thường gặp, Nxb Y học. 
2. Artan I. M. et al (2015), "The knowledge, 
attitude and behavioral-intent regarding cervical 
cancer and the human papillomavirus (HPV) 
vaccine: A cross-sectional study among female 
university students in Ajman, UAE", President’s 
Message, vol. 4, pp. 52. 
3. Chiang V. C., Wong H. T., Yeung P. C., Choi 
Y. K., Fok M. S., Mak O. I., Wong H. Y., Wong 
K. H., Wong S. Y., Wong Y. S.,  Wong E. Y. 
(2016), Attitude, Acceptability and Knowledge of 
HPV Vaccination among Local University 
Students in Hong Kong, International journal of 
environmental research and public health, 13(5), 
486. 
4. Kwan T. C. et al (2008), "Barriers and 
facilitators to human papillomavirus vaccination 
among Chinese adolescent girls in Hong Kong: a 
qualitative-quantitative study", Sexually 
transmitted infections, 84(3), pp. 227 -232 
5. Ndejjo R. et al (2016), "Uptake of cervical 
cancer screening and associated factors among 
women in rural Uganda: a cross sectional study", 
PLoS One, 11(2), pp. e0149696. 
6. Songthap A. et al (2012), "Knowledge, 
attitudes, and acceptability of a human papilloma 
virus vaccine among students, parents and teachers 
in Thailand", Southeast Asian J. Trop. Med. 
Public Health, 43(2), pp. 340-353. 
7. Waggoner and Steven E. (2003), "Cervical 
cancer", The Lancet, 361(9376), pp. 2217-2225. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_kien_thuc_thai_do_ve_ung_thu_co_tu_cung_va_du_din.pdf