Thực hành thờ cúng thần/thánh vùng châu thổ Bắc Bộ
Theo các nguồn tài liệu, vùng châu thổ Bắc Bộ Việt Nam, từ xa xưa, việc thờ cúng thần thánh rất phổ biến. Mỗi loại thờ cúng lại có những nghi thức tế lễ khác nhau. Trải thời gian, việc thờ cúng thần thánh cũng bị mai một và thường ẩn dưới hình thức lễ hội.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Thực hành thờ cúng thần/thánh vùng châu thổ Bắc Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực hành thờ cúng thần/thánh vùng châu thổ Bắc Bộ
100 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11&12 - 2016 NGUYỄN NGỌC MAI* THỰC HÀNH THỜ CÚNG THẦN/THÁNH VÙNG CHÂU THỔ BẮC BỘ Tóm tắt: Theo các nguồn tài liệu, vùng châu thổ Bắc Bộ Việt Nam, từ xa xưa, việc thờ cúng thần thánh rất phổ biến. Mỗi loại thờ cúng lại có những nghi thức tế lễ khác nhau. Trải thời gian, việc thờ cúng thần thánh cũng bị mai một và thường ẩn dưới hình thức lễ hội. Nhằm tìm hiểu niềm tin và thực hành thờ cúng các loại hình thần thánh (tôn giáo truyền thống) vùng châu thổ Bắc Bộ Việt Nam trong bối cảnh đa dạng tôn giáo, bài viết này bên cạnh việc phân biệt nội hàm khái niệm: thực hành tôn giáo và thực hành mang tính tôn giáo, sẽ khái quát hiện trạng thờ cúng thần/thánh vùng châu thổ Bắc Bộ Việt Nam đang diễn ra như thế nào, có bao nhiêu loại hình thờ cúng và các biểu hiện thực hành trong thờ cúng thần/ thánh. Keywords: Thực hành tôn giáo, thờ cúng, thần/thánh, Bắc Bộ, Việt Nam. 1. Thực hành tôn giáo và thực hành mang tính tôn giáo Là một trong ba yếu tố cốt lõi để cấu thành một thực thể tôn giáo, thực hành tôn giáo là yếu tố không thể thiếu của bất cứ tôn giáo nào. Thực hành tôn giáo không chỉ nhằm biểu thị niềm tin tôn giáo mà còn là phương thức/phương cách chính để các cá nhân, cộng đồng tôn giáo liên hệ với đấng thiêng của mình. Từ đặc tính này mà thực hành tôn giáo có mặt ở mọi tôn giáo kể cả những tôn giáo đã phát triển hoàn thiện như Công giáo, Phật giáo hay những tôn giáo còn đang trong quá trình hoàn thiện, thậm chí cả những tôn giáo còn mang nhiều đặc điểm của những hình thức tôn giáo sơ khai (tôn giáo dân gian/niềm tin). * TS., Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Bài viết được trích yếu từ Đề tài cấp Bộ (2015-2016): Niềm tin và thực hành tôn giáo truyền thống trong cộng đồng nông thôn Việt Nam do Viện Nghiên cứu Tôn giáo chủ trì. Nguyễn Ngọc Mai. Thực hành thờ cúng thần/thánh... 101 Thực hành tôn giáo có đặc điểm là sự lặp đi lặp lại trong cộng đồng nhằm khơi dậy niềm tin, nhắc nhở các tín đồ về sự hiện diện của các đối tượng thiêng, gợi lên cho từng cá nhân thấy rằng mình thuộc về một cộng đồng tôn giáo hay một nhóm xã hội nhất định và thấy mình được sự đùm bọc và che chở của cộng đồng đó. Vì vậy, trong các nghiên cứu về tôn giáo, các tác giả đều nhắc đến thực hành tôn giáo như một yếu tố cơ bản không thể thiếu để cấu thành một tôn giáo và đồng thời nó cũng là cái để nhận diện một hình thức cấu trúc tập thể xã hội có phải là tôn giáo hay không. Phụ thuộc vào mỗi tôn giáo với những đặc tính về sự hoàn thiện, nhân sinh quan và vũ trụ quan khác nhau mà các hình thức thực hành tôn giáo cũng mang những màu sắc khác nhau, được thực hiện và thể hiện bằng những hình thức khác nhau, được chỉ dẫn bởi những nguyên lý/giáo lý và mang những nội dung, ý nghĩa cũng khác nhau. Thực hành tôn giáo có thể được thực hiện bởi cá nhân hoặc cộng đồng và trên thực tế thực hành tôn giáo cũng biểu hiện bởi rất nhiều các hành vi khác nhau. Có khi là thực hành các nghi lễ trong một môi trường tôn giáo nhất định (tế lễ tại không gian tôn giáo) cũng có khi chỉ là những giây phút các tín đồ tự đọc/ học kinh bổn hay hát các bài thánh ca, hoặc cũng có khi chỉ đơn giản là cầu nguyện bằng một vài động tác, hoặc phù chú với vài đường nét khó hiểu vào một vật gì đó,. Tất cả những cách thực hành nghi lễ đó đều được coi đó là thực hành tôn giáo. Ngoài ra, những hoạt động như ăn kiêng, giữ trai giới trong cuộc sống đời thường của các tín đồ chỉ là những hoạt động mang tính tôn giáo. Trong tất cả các thực hành tôn giáo thì thực hành nghi lễ tôn giáo là quan trọng nhất và cũng thể hiện được bản chất, cấp bậc của tôn giáo đó. Trong bất kỳ một tôn giáo nào thì thực hành tế lễ/thực hiện nghi lễ tại không gian tôn giáo (không gian thiêng) là thực hành tôn giáo quan trọng và cơ bản nhất. Thực hiện nghi lễ có tầm quan trọng rất lớn đối với các tín đồ tôn giáo. Nếu huyền thoại hay giáo lý thu hút con người ta bằng lời thì nghi lễ làm phong phú thêm lời nói bằng những hành vi tạo ra một trường tôn giáo - một ngôn ngữ hành động - cuốn hút con người ta không chỉ một lần mà nhiều lần, được lặp đi lặp lại, nhằm tạo nên một tập quán ăn sâu vào tâm thức tôn giáo của các thành viên 102 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11&12 - 2016 trong cộng đồng - một cộng đồng thống nhất và sống động. Có rất nhiều loại thực hành nghi lễ nhưng có thể chia thành 3 loại sau: Nghi lễ tuân thủ theo chu kỳ thời gian: đây là những nghi lễ được các tôn giáo tổ chức theo hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng, hàng năm, hoặc theo chu kỳ 10 năm, 12 năm, 100 năm Nghi lễ tuân thủ theo chu kỳ đời người: đây là những nghi lễ liên quan đến những giai đoạn chuyển tiếp trong cuộc đời một con người. Những nghi lễ này có khi công khai nhưng cũng có những nghi lễ được tiến hành bí mật trong một nhóm người của một tôn giáo hoặc chỉ riêng với các tín đồ của một tôn giáo. Nghi lễ riêng của từng tôn giáo: những nghi lễ này nhằm mục đích giáo dục các tín đồ hay chức sắc hiểu giáo lý, tuân thủ giáo luật, giữ gìn phẩm chất đạo đức theo mục đích của tôn giáo đó. Đối với các tín đồ tôn giáo, việc thực hiện nghi lễ có tác dụng dẫn con người đến với các đối tượng mà họ thờ cúng. Thực hành nghi lễ tôn giáo là nhằm thỏa mãn một yêu cầu phi trần tục và giúp tín đồ có một đảm bảo an toàn trong cuộc sống đạo cũng như đời. Trong một nghi lễ tôn giáo có thể chỉ có một lễ thức, hoặc có nhiều lễ thức được thực hành liên tục với những công đoạn khác nhau và mang nhiều ý nghĩa bổ trợ cho nhau. Những biểu hiện cụ thể của lễ thức được thể hiện qua những hành vi khác nhau. Hành vi đó có thể là các dấu hiệu, hay lời cầu nguyện, cầu xin hoặc khấn lễ, kể cả những động tác nhảy múa (trong shaman và lên đồng). Ở một số tôn giáo, trong khi cầu nguyện còn kèm theo việc dâng lễ vật, thậm chí hiến sinh, có tôn giáo khi cầu nguyện còn đi đôi với những hành vi khắc kỷ, những hành động hành xá ... vận lễ phục (hằng năm cứ đến dịp lễ hội, người Tư văn chịu trách nhiệm thảo một tờ chúc văn mới để đọc trong nghi lễ tế thần)12. Sau khi chúc văn được rước về đình là bắt đầu vào tế thần khai hội. Nguyễn Ngọc Mai. Thực hành thờ cúng thần/thánh... 117 Tế thần/thánh cũng là mở đầu cho khai hội, thông thường là đội tế của dân làng gốc (làng có đình/đền) tế đầu tiên sau đó lần lượt đến các đội tế từ các địa phương khác theo đăng ký vào tế (đội tế của làng kết chạ). Tuy nhiên, cũng có trường hợp làng có đình lại tế sau và làng khác lại vào tế trước như quy trình lễ tế tại đình thờ Thần Cao Lỗ (Bắc Giang)13. Tế ngoại cũng có nơi thường được tổ chức một hoặc hai lần mỗi năm vào dịp kỷ niệm ngày đản sinh, hoặc ngày lễ giỗ, hoặc dịp Xuân tế, Thu tế, tùy nơi và được quy định chặt chẽ trong thần tích. Tế thần thực hiện ngay trong khuôn viên của Đình/ đền với phạm vi 4 chiếu tế: chiếu 1 chiếu thần vị, chiếu thứ hai là chiếu tế chủ thụ tộ, chiếu thứ ba là chiếu ngôi tế chủ, và chiếu thứ tư là chiếu bồi tế. Khi vào tế, các thành viên đội tế và các chấp sự đều mang lễ phục: đội mũ, mặc áo thụng xanh, đi hia chỉnh tế đứng sắp hàng hai bên và theo sự điều khiển chung của Đông xướng. Lễ vật chính trong lễ tế thần gồm ‘vật tam sinh’ (dê, bò, heo), ngoài ra còn có hoa trái, trầu rượu, xôi bánh, v.v.. Dự lễ những dịp này rất long trọng, có bá tánh, thiện tín, các hội viên hội thờ cúng và quan khách cùng tham dự. Ban tế lễ gồm có: ông chánh niệm hương, ông chánh tế, các vị bồi tế, các vị thị lập, các lễ sinh hay trò lễ, phường nhạc bát âm. Nghi thức bao giờ cũng gồm có: một tuần hương, ba tuần rượu, đọc văn tế, một tuần trà, lễ dâng bánh trái, thụ tộ và ẩm phước (ăn và uống một chút lễ vật thần ban lại cho) và sau hết là lễ hóa văn tế. Như vậy, các cuộc rước và tế là một trong những thực hành chính trong thờ cúng thần/thánh. Sau nghi thức tế lễ thần thì đến các đoàn khách, dân làng vào khấn lễ và sau đó là những cuộc thi, diễn trò dân gian, chủ yếu là mô tả lại sự tích hay chiến tích của Thành hoàng làng. Sau nghi thức tế, đôi khi còn tổ chức các nghi thức phụ như lễ cúng tiền hiền, hậu hiền, lễ cầu siêu cho chúng sinh. Quan sát, so sánh một số nghi lễ tế thần ở châu thổ Bắc Bộ (gồm tế thần ở đình Triều Khúc (Hà Nội), tế thần tại Hoàng Thành Thăng Long (Hà Nội); tế thánh tại đền Trần (Nam Định), tế thần ở đền Hệ (Thái Thụy/Thái Bình) với nghi lễ tế thần do Nguyễn Văn Huyên cung cấp tại hai làng Yên Sở và Đắc Sở14 thấy rằng về cơ bản các nghi lễ tế thần/thánh ở châu thổ Bắc Bộ hiện nay khá giống với các nghi lễ 118 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11&12 - 2016 tế thần đầu thế kỷ XX, và khá giống nhau giữa các địa phương. Sự khác nhau chỉ là những chi tiết nhỏ trong nghi thức tế thần tại đình và đền Diềm (Hòa Long/Bắc Ninh). Ở đây, khi bái lạy thần/ thánh, các thành viên đội tế không giai quỵ bằng đầu gối như ở các nơi mà các Mạnh tế và tế viên đều quỳ úp sát mặt và thân người xuống nền chiếu, hai tay và hai chân xoạc ra trong tư thế úp xấp phủ phục. Đây là tư thế quỳ rất lạ so với nhiều địa phương khác, khi phỏng vấn sâu cũng chỉ được biết là đời xưa truyền lại và mọi người không lý giải được ý nghĩa. Tuy nhiên, căn cứ vào nguồn gốc ngôi đình, thần phả của 5 vị thần, hình tượng hai phỗng quỳ còn lưu lại tại đình với tư thế quỳ khoanh tay; hệ thống cửa võng độc nhất vô nhị, chúng tôi cho rằng ngôi đình mang đậm dấu ấn văn hóa Chiêm Thành. Từ đó cho phép đặt ra giả thiết, có lẽ cách thức tế lễ này có nguồn gốc Chăm. Tế Nữ quan Sự biến đổi của hình thái kinh tế xã hội đã làm thay đổi nhận thức về các thành viên tham gia tế thần, thánh, các quan niệm nam tôn nữ ti tại chốn tâm linh cũng đã phai nhạt. Nhiều địa phương hiện nay đã chấp nhận, thậm chí còn khuyến khích thành lập các đội tế nữ. Theo khảo sát của chúng tôi thì đa phần các đội tế nữ mới xuất hiện từ sau năm 2000. Số lượng đội tế nữ cũng không cố định, có khi là 24 người, có khi là 18 người. Nếu như lễ phục của đội tế nam về cơ bản giữa các làng ở châu thổ Bắc Bộ giống nhau thì lễ phục của các đội tế nữ lại khá linh hoạt, giữa các địa phương có sự khác nhau rất nhiều. Có địa phương mặc áo tế thụng dài màu hồng điều/ đỏ, đội khăn vành dây, đi giầy thêu (đội tế nữ đình Nhân Huệ). Có nơi, ngoài 2 Mạnh tế áo thụng đỏ và 8 tế viên áo thụng dài màu vàng lại thêm 6 tế áo ngắn thắt ngang lưng, đầu cài hoa mặc quần lụa mềm chít ống, hai tay sử dụng một thứ đạo cụ làm bằng hai thanh tre có cài hoa để múa tế thần15, cộng với hai tay trống và chiêng (áo đỏ ngắn) tổng cộng 18 người (đội tế nữ đình Diềm, Bắc Ninh). Tế nữ quan chỉ bắt đầu thực hành nghi lễ sau khi tế nam quan đã kết thúc và hầu hết chỉ được đứng tế ở các chiếu trải ngoài sân đình chứ không được dâng hương đăng, trà quả, rượu vào hậu cung cho thần. Mọi nghi thức dâng vào hậu cung đều vào tới mép cửa đình, sau đó có hai cụ ông áo the khăn đóng đứng đón để mang tiếp vào hậu Nguyễn Ngọc Mai. Thực hành thờ cúng thần/thánh... 119 cung dâng lên thần/thánh. Những quy định này rất chặt chẽ và phổ biến khắp các đình thờ thần/ thánh mà chúng tôi có dịp khảo sát ở châu thổ Bắc Bộ. Ngay cả tại đình Nhân Đạo (Mai Lĩnh, Hà Đông, Hà Nội) trong đình thờ hai mẹ con bà lái đò (thần nữ) nhưng cũng vẫn bảo lưu quy định này. Một địa điểm tế nữ quan được dâng lễ vật vào hậu cung mà chúng tôi chứng kiến là tại phủ mẫu bên cạnh đền Hệ (Thái Thụy, Thái Bình). Về cơ bản, các nghi thức trong tế nữ quan cũng giống như tế nam quan (chủ yếu do quan sát hoặc được các cụ ông truyền dạy lại) nhưng tế nữ quan nói chung không chuẩn mực khuôn đóng như trong tế nam quan, thể hiện rõ nhất ở số lượng thành viên, lễ phục (thiên về các màu tươi, sáng, rực rỡ và phong cách cũng ngẫu hứng), lối đi đứng, quỳ, phủ phục nhiều địa phương còn chưa chuẩn chỉ bằng tế nam)16. Trong tế nữ quan, thường rất hay lồng câu niệm “Nam mô A di đà phật”. Điều này cho thấy tính dung hợp, hòa trộn tôn giáo trong tâm thức mỗi người phụ nữ Việt. Ngoài các hình thức thực hành nghi lễ tế nam và tế nữ, thực hành tôn giáo trong thờ cúng thần/thánh ở châu thổ Bắc Bộ còn tồn tại một loại hình nữa là nghi lễ lên đồng hầu bóng. Thực hiện nghi lễ này hiện nay ở châu thổ Bắc Bộ chủ yếu trong thờ đức Thánh Trần và Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Lên đồng hầu bóng trong tế lễ thánh là một thực hành tôn giáo mang đậm sắc thái diễn xướng dân gian Việt - Chăm với sự góp mặt của nhiều yếu tố dân gian khác nữa như: ma thuật, bùa ếm, trừ trùng, trừ tà của Đạo giáo và cả những dấu hiệu phù chú, bùa ngải của Mật tông. Chi tiết loại hình thực hành nghi lễ đặc biệt này, chúng tôi đã có dịp trình bày rất kỹ trong tài liệu “Nghi lễ lên đồng - Lịch sử và giá trị” (Nxb. Văn hóa, Hà Nội, 2013) nên sẽ chỉ nêu một một vài nét ngắn gọn. Nghi lễ này có nguồn gốc từ sự hỗn hợp/ dung hợp của khá nhiều yếu tố: Tục lập thi (xác cốt/ nhập hồn) vốn dĩ lưu truyền trong dân gian từ rất xa xưa ở Trung quốc và có lẽ du nhập vào Việt Nam khoảng thời Bắc Thuộc và lưu hành trong dân gian với các hình thức gọi hồn, nhập hồn, về sau được sử dụng trong thờ Mẫu Tam phủ như một phương cách để tiếp nhận với linh hồn Thánh Mẫu. Trong hình thức lên đồng còn du nhập cả các điệu thức trong múa bóng thờ thần của người Chăm (do sự thâu hóa văn hóa Chăm của người Việt 120 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11&12 - 2016 trong khoảng thế kỷ X - XV) để rồi đến thế kỷ XVI - XVII khi thờ Thánh Mẫu thịnh hành thì những yếu tố này được cấu trúc lại mà làm thành diễn xướng nghi lễ lên đồng như chúng ta thấy ngày nay (ở Miền Trung, Việt Nam xưa gọi là “tiệc hát”17. Tóm lại, với nhiều hình thức thực hành tôn giáo khác nhau, trong thờ cúng thần/thánh ở châu thổ Bắc Bộ Việt Nam, con người xưa cũng như nay đều sử dụng đó như là những phương thức, cách thức để biểu lộ đức tin của mình và thông qua đó tạo ra cơ hội tiếp xúc, tiếp cận với thần linh để đề đạt nguyện vọng và giải quyết những nhu cầu thiết thực/thực dụng trong cuộc sống hiện sinh của mình chứ không nhằm tìm ra cuộc sống sau khi chết, hay con đường để giải thoát khỏi những bế tắc của cuộc sống trần tục như ở những tôn giáo lớn. Đó cũng chính là khác biệt về bản chất của thực hành tôn giáo dân gian./. CHÚ THÍCH: 1 Khái niệm này được giải thích là xuất phát từ tục thờ thần đô thị của Trung quốc: Thành Hoàng đọc chệch từ thành - hào (thành và có hào chạy bao quanh làm thành chiến lũy) và mỗi thành đều có thờ môt vị thần cai quản khu vực đó và có chức năng phù trợ cho dân chúng trong thành. 2 Sách chép tay chữ Hán vốn có 4 tập nay còn lại 2 tập mang ký hiệu VH. 1276 và VHv. 1276/2 lưu tại Thư viện Viện Hán Nôm 3 Tư liệu điền dã của chúng tôi cho biết riêng ở Thái Thụy, Thái bình thì số di tích (đình, đền, từ đường) cấp tỉnh đã có tới 75 cơ sở; di tích cấp quốc gia có tới 22 di tích. Ở Bắc Ninh, theo số liệu của ngành văn hóa cung cấp, hiện toàn tỉnh có 1.558 cơ sở tôn giáo, bao gồm cả đình, đền, chùa, nghè, nhà thờ, từ đường, văn chỉ, trong đó có 108 cơ sở tôn giáo (đình, đền thờ thần và thánh) được xếp hạng di tích cấp quốc gia và 217 cơ sở tôn giáo (đình, đền, nghè) được xếp hạng cấp tỉnh. 4 Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb. Tổng hợp Đồng Tháp: 77-88. 5 Các nghiên cứu về Đình cho biết: Đình lúc đầu chỉ là những dịch trạm, về sau đến thời Trần (Trần Thái Tông) mới lệnh cho các hương tô tượng Phật để thờ, lúc này đình mới có thêm chức năng tôn giáo. Về sau, đình mở rộng thành nơi hội họp, làm việc của các “quan chức” làng, từ đó, đình thêm chức năng là trụ sở hành chính làng quê. Về sau, khi nhà nước quân chủ chuẩn hóa việc thờ tự thì đình chính thức là nơi cúng tế thần thành hoàng làng. 6 Tư liệu phỏng vấn sâu tại các đình: Diềm (Bắc Ninh), Nhân Huệ (Hà Đông) năm 2015. 7 Vũ Ngọc Khánh (2001), Đạo Thánh ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội: 275. 8 Trong dân gian khi lên đồng hầu phủ Trần Triều đều là hầu đồng để chữa bệnh và bắt tà ma ám. 9 Chúng tôi sẽ trình bày nội dung này sau phần nghi thức tế thần tại đền/đình Diềm. Nguyễn Ngọc Mai. Thực hành thờ cúng thần/thánh... 121 10 Viện Sử học (1993), Khâm định Đại nam hội điển sự lệ, tập 6, Nxb. Thuận Hóa, Huế: 15. 11 Lễ vật do sự phân công có tính chất luân phiên. Lần này nhà cụ A lo, lần sau đến cụ B cứ thế lần lượt (tiền mua lễ vật là trích từ quỹ nhang đèn của đình/ đền. Sau khi tế xong tất cả những người dự hôm đó đều được hưởng lễ vật tại đình 12 Người tư văn cũng là người am hiểu chữ Hán trong làng và thường là người nhiều đời làm tư văn 13 Tư liệu phỏng vấn sâu cho biết xưa kia làng kết chạ với 4 làng khác đều gọi là các làng Bưởi. Khi tổ chức lễ hội đã xảy ra sự tranh chấp giữa các làng. Hội đồng các cụ trong làng đã họp và ra quy chế mỗi làng lấy 1 quả bưởi khắc tên của làng mình rồi đem lễ trước điện thánh, sau đỏ bỏ vào hố (dưới chân tượng thánh có một hố sâu, hố này có đường thông ra cửa sông trước mặt đình, hố này nay đã bị bịt kín) và đổ nước vào, các quả bưởi sẽ theo nước trôi ra cửa lỗ phía ngoài sông, nếu quả bưởi có tên làng nào ra trước thì đó là làng anh, và quả nào ra sau thì đó là làng em và cứ thế theo lệ làng anh vào tế đầu tiên sau đó đến các làng em. Chi tiết về sự hiện diện một lỗ sâu có đường thông ra sông của đình thờ thần Cao Lỗ tại thực địa càng củng cố cho giả thuyết của Trần Quốc Vượng về bản chất của thần Cao Lỗ = đô lỗ = nỗ = nõ = linga. Tục bỏ bưởi vào lỗ sau đó đổ nước vào giống như mô phỏng hành vi giao phối. Do vậy, có lẽ lớp thần sớm xa xưa của 5 làng chính là thờ linh vật Linga và Yoni. Nhưng về sau đã được cấu trúc lại thành mô típ người anh hùng Đô Lỗ có công phụ tá An Dương Vương chế tạo ra nỏ thần và tục bỏ bưởi vào lỗ được giải thích thay thế bằng tục kết chạ giữa 5 làng. 14 Xem: Nguyễn Văn Huyên (2000), Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 542- 545. 15 Theo khảo sát của chúng tôi thì điệu múa này rất lạ mắt và đẹp, nhưng chưa biết rõ nguồn gốc từ đâu. 16 Khi hỏi về lý do này nhiều cụ cho biết do nữ giới mới tham gia đội tế, số lượng các thành viên trong đội lại hay xáo trộn thay đổi do các bà dễ bị chi phối bởi các nhu cầu khác của gia đình nên thường xuyên biến động. 17 Lê Hữu Trác (1971), Thượng Kinh Ký sự, Nxb. Văn học, Hà Nội: 19. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục, Nxb. Tổng hợp Đồng Tháp. 2. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 3. Nguyễn Văn Huyên (2000), Góp phần tìm hiểu văn hóa Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 4. Vũ Ngọc Khánh (2001), Đạo Thánh ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 5. Nguyễn Ngọc Mai (2013), Nghi lễ lên đồng - Lịch sử và giá trị, Nxb. Văn hóa, Hà Nội. 6. Lê Hữu Trác (1971), Thượng Kinh Ký sự, Nxb. Văn học, Hà Nội 7. Tư liệu điều tra thực địa của tác giả tại Nam định, Thái Bình, Hà Nội, Bắc Ninh năm 2015. 8. Viện Sử học (1993), Khâm định Đại nam hội điển sự lệ, tập 6, Nxb. Thuận Hóa, Huế. 122 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11&12 - 2016 Abstract PRACTICES OF WORSHIP THE DIVINITIES IN THE RED RIVER DELTA According to many documentary sources, the cult of divinities (traditional religions) has been popular in the Red river delta for a long time ago. Each type of worship has had a different ritual. Experiencing the time, the worship of divinities has been gradually lost and hidden in the form of festivities. To study its faith and practices in the Red river delta, Vietnam in the context of religious diversity, this article, on the one hand, distinguishes the connotation of concepts: practices of religion and religious practices; on the other hands, it generalizes the current situation of the cult of divinities in the Red river delta, the number of worship forms and manifestations of the cult of divinities’ practices. Keywords: Divinity; religious practices; worship; North; Vietnam.
File đính kèm:
- thuc_hanh_tho_cung_thanthanh_vung_chau_tho_bac_bo.pdf