Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe

Mục tiêu: nhằm mô tả thái độ của điều dưỡng về tổn thương do vật sắc nhọn dựa theo mô hình niềm tin sức khỏe.

Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe trang 1

Trang 1

Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe trang 2

Trang 2

Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe trang 3

Trang 3

Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe trang 4

Trang 4

Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe trang 5

Trang 5

Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe trang 6

Trang 6

Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe trang 7

Trang 7

Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe trang 8

Trang 8

Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe trang 9

Trang 9

pdf 9 trang Danh Thịnh 13/01/2024 1560
Bạn đang xem tài liệu "Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe

Thái độ đối với tổn thương do vật sắc nhọn của điều dưỡng: Một nghiên cứu dựa trên mô hình niềm tin sức khỏe
67
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
Thái Bình.
6. Nguyễn Thị Bích Đào và Vũ Thị Là 
(2011). Kiến thức, thái độ và hành vi tự 
chăm sóc bàn chân của người bệnh đái 
tháo đường type 2 đến khám và điều trị tại 
Bệnh viện chợ Rẫy. Tạp chí Y học Thành 
phố Hồ Chí Minh, 16(2), tr.60-69.
7. Nguyễn Tiến Dũng và Phùng Văn Lợi 
(2011). Các yếu tố liên quan đến hành vi 
chăm sóc bàn chân ở bệnh nhân đái tháo 
đường type 2 tại Thái Nguyên Việt Nam. 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 104(4), 
tr.55-60.
8. Bondor C.I., Ioan A. V., Bogdan F., 
et al. (2016). Epidemiology of Diabetic 
Foot Ulcers and Amputations in Romania: 
Results of a Cross-Sectional Quality of Life 
Questionnaire Based Survey. Journal of 
Diabetes Research, 2016, pp.1-7.
9. Boyko E. J., Ahroni J. H., Cohen V., 
et al. (2006). Prediction of diabetic foot 
ulcer occurrence using commonly available 
clinical information: the Seattle Diabetic Foot 
Study. Diabetes Care, 29(6), pp.1202-7.
10. International Diabetes Federation 
(2017), “IDF Clinical Practice 
Recommendations for managing Type 2 
Diabetes in Primary Care”, International 
Diabetes Federation, pp.1-43.
11. International Diabetes Federation 
(2017), “IDF Clinical Practice 
Recommendations on the Diabetic Foot”, 
International Diabetes Federation, pp.1-70
12. World Health Organization. (2016). 
Global report on diabetes: ISBN 978 92 4 
156525 7 (NLM classifcation: WK 810). 
THÁI ĐỘ ĐỐI VỚI TỔN THƯƠNG DO VẬT SẮC NHỌN CỦA ĐIỀU DƯỠNG:
 MỘT NGHIÊN CỨU DỰA TRÊN MÔ HÌNH NIỀM TIN SỨC KHỎE 
Đỗ Minh Sinh1, Hoàng Trung Tiến2
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định; 
2Trường Đại học Yersin Đà Lạt
TÓM TẮT
Mục tiêu: nhằm mô tả thái độ của điều 
dưỡng về tổn thương do vật sắc nhọn dựa 
theo mô hình niềm tin sức khỏe. Đối tượng 
và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế 
nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện 
với 149 điều dưỡng viên chăm sóc người 
bệnh đang làm việc tại những khoa có tiếp 
xúc với vật sắc nhọn của Bệnh viện đa khoa 
tỉnh Lâm Đồng. Thu thập số liệu bằng hình 
thức phỏng vấn dựa trên bộ câu hỏi tự điền. 
Kết quả: đa số điều dưỡng có thái độ tích 
cực đối với mức độ nghiêm trọng của tổn 
Người chịu trách nhiệm: Đỗ Minh Sinh
Email: minhsinh82@gmail.com
Ngày phản biện: 24/02/2020
Ngày duyệt bài: 02/3/2020
Ngày xuất bản: 16/3/2020
thương do vật sắc nhọn. Tỷ lệ điều dưỡng 
có thái độ tích cực với tính nhạy cảm của 
bệnh chiếm > 90% ở tất cả các nội dung. 
Nhìn chung niềm tin của điều dưỡng đối 
với các biện pháp dự phòng là khá cao 
chiếm > 75% ở tất cả các nội dung. Mặc 
dù vậy, ở một số nội dung tỷ lệ điều dưỡng 
có thái độ chưa tích cực chiếm trên 16% và 
một số yếu tố như quá tải công việc, thiếu 
nhân sự, thiếu dụng cụ an toàn, thiếu kiến 
thức được cho là rào cản. Kết luận: đa 
phần điều dưỡng đã có thái độ tích cực về 
tổn thương do vật sắc nhọn, dựa trên học 
thuyết “mô hình niềm tin sức khoẻ” có khả 
năng cao các điều dưỡng trong nghiên cứu 
này sẽ thực hiện các biện pháp dự phòng 
tổn thương do vật sắc nhọn.
Từ khóa: Tổn thương do vật sắc nhọn, 
thái độ, điều dưỡng
68
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
INVESTIGATION OF THE ATTITUDES TOWARDS SHARPS INJURIES AMONG 
NURSES: A STUDY BASED ON THE HEALTH BELIEF MODEL
ABSTRACT
Objective: to describe the nurses’ 
attitudes towards sharps injuries based on 
the health belief model. Method: A cross-
sectional descriptive study was conducted 
at Lam Dong General Hospital. All clinical 
nurses working in all patient wards 
where sharp devices were being used 
and 149 nurses agreed to response the 
self-completed questionnaires. Results: 
showed that a majority of nurses had 
positive attitudes towards the severity of 
damage caused by sharp devices. The 
rate of nurses who had positive attitudes 
to the susceptibility of the disease were 
also greater than 90%. In general, the 
belief of nurses in preventive measures 
was quite high (all items were more than 
75%). However, in some contents, the 
proportion of nurses with negative attitudes 
accounted for over 16%, and the study also 
revealed some factors that may considered 
as barriers including work overload, lack 
of staff, lack of safety equipment, lack of 
knowledge. Conclusion: the nurses of 
the study sample had positive attitudes 
towards sharp injuries, based on the health 
belief model, it is anticipated that the nurses 
within this study are likely to practise the 
measures for prevention of sharp injuries. 
Keywords: sharp-device injuries, 
attitude, nurses
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phơi nhiễm với các bệnh truyền nhiễm 
qua đường máu liên quan đến tổn thương 
(TT) do vật sắc nhọn (VSN) đang là một 
vấn đề phổ biến và gây ra nhiều hậu quả 
nghiêm trọng với điều dưỡng. Theo trung 
tâm phòng ngừa và kiểm soát bệnh tật Hoa 
Kỳ, ước tính có 385.000 TT do VSN liên 
quan đến nhân viên y tế mỗi năm. Nó có thể 
làm lây truyền hơn 20 bệnh truyền nhiễm, 
trong đó ba bệnh truyền nhiễm phổ biến 
nhất là HBV, HCV và HIV [4]. Mặc dù tổn 
thương do VSN có thể gặp ở bất kỳ nhân 
viên y tế nào tuy nhiên điều dưỡng đặc biệt 
là điều dưỡng lâm sàng là nhóm người có 
tỷ lệ mắc cao nhất [13]. Các điều dưỡng đã 
từng bị TT do VSN báo cáo rằng sau khi sự 
kiện xảy họ cảm thấy rất lo lắng, căng thẳng 
và stress. Những vấn đề sức khỏe này đã 
làm ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và 
hiệu quả công việc của họ [8]. 
Thái độ của nhân viên y tế nói chung và 
điều dưỡng nói riêng được coi là yếu tố dự 
báo mạnh nhất của TT do VSN, điều dưỡng 
có thái độ tiêu cực đối với việc phòng ngừa 
TT do VSN có khả năng có TT cao gấp gần 
hai lần so với những người có thái độ tích 
cực [9]. Kiến thức, thái độ và thực hành 
là ba yếu tố có mối quan hệ mật thiết với 
nhau. Một cá nhân sẽ thực hiện và duy trì 
hành vi có lợi cho sức khỏe nếu họ “nhận 
thức” được nguy cơ đối với một vấn đề sức 
khỏe và sức khỏe của họ sẽ bị đe dọa bởi 
 ... ng quá trình chăm sóc người 
bệnh, điều dưỡng phải đối diện với nhiều 
nguy cơ tổn thương do vật sắc nhọn (bơm 
kim tiêm, uống thuốc bằng thủy tinh, ...). Bản 
thân người điều dưỡng cũng đã khai báo 
họ từng bị TT do VSN và chứng kiến đồng 
nghiệp của mình bị TT do VSN [1], [2]. Ngoài 
ra các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng 
kiến thức của điều dưỡng về các vấn đề có 
liên quan đến tổn thương do vật sắc nhọn 
là đương đối tốt [1], [16]. Các nội dung vừa 
liệt kê có thể lý giải một phần về tỷ lệ thái độ 
tích cực của điều dưỡng trong nghiên cứu 
này đối với tổn thương do vật sắc nhọn. Nhờ 
nhận thức được mức độ nguy hiểm của TT 
do VSN mà điều dưỡng sẽ có thể có những 
biện pháp phòng ngừa nhằm làm giảm nguy 
cơ phơi nhiễm bệnh bởi TT do VSN. Tất 
nhiên để có thể thực hiện tốt các biện pháp 
dự phòng còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố như 
mức độ hiểu biết của họ về các biện pháp dự 
phòng, các điều kiện hỗ trợ, môi trường làm 
việc, ...
4.2. Niềm tin về tính nhạy cảm đối với 
tổn thương do vật sắc nhọn
Theo HBM dự đoán rằng những người 
nhận thức được rằng họ dễ bị một vấn đề 
sức khỏe cụ thể sẽ tham gia vào các hành vi 
để giảm nguy cơ phát triển vấn đề sức khỏe. 
Các cá nhân có độ nhạy cảm nhận thức thấp 
có thể phủ nhận rằng họ có nguy cơ mắc vấn 
đề sức khỏe và có nhiều khả năng tham gia 
vào các hành vi không lành mạnh hoặc rủi ro. 
Ngược lại, các cá nhân nhận thấy nguy cơ 
cao rằng họ sẽ bị ảnh hưởng bởi một vấn đề 
sức khỏe cụ thể có nhiều khả năng tham gia 
vào các hành vi để giảm nguy cơ phát triển 
tình trạng này. Trong kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi, điều dưỡng phần lớn có thái độ 
tích cực khi thể hiện thái độ hoàn toàn không 
đồng ý và không đồng ý rằng họ sẽ không 
bị TT do VSN, điều này có nghĩa họ tin rằng 
họ có khả năng lớn gặp TT do VSN. Cụ thể, 
có 91.3% không đồng ý rằng họ sẽ không bị 
TT do VSN, có 93.3% không đồng ý rằng họ 
sẽ không bị phơi nhiễm với bệnh nguy hiểm, 
có 90.6% không đồng ý rằng họ sẽ không bị 
lo lắng, căng thẳng, có 73.2% không đồng 
ý rằng họ sẽ không tốn thời gian và chi phí 
cho việc điều trị TT do VSN và 72.5% không 
73
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
đồng ý rằng TT do VSN sẽ không ảnh hưởng 
đến công việc của họ. Nghiên cứu của Anitha 
Madhavan và cộng sự trên 100 điều dưỡng 
đang làm việc tại a tertiary care center in 
Kerala, India cho kết quả có tới 49% điều 
dưỡng luôn luôn và thường xuyên lo lắng 
rằng họ sẽ bị TT do VSN Luôn luôn lo lắng 
bị TT do VSN là 60%, [14]. Con số này trong 
nghiên cứu của Asgad suliman và cộng sự 
tại Khartoum, Sudan còn lên tới 83,5% [16]. 
Từ những kết quả trên có thể đi đến nhận 
định đa phần điều dưỡng đã có sự nhạy cảm 
trong nhận thức của họ khi cho rằng họ có 
nguy cơ TT do VSN, điều này có thể dự báo 
rằng họ sẽ thực hiện các biện pháp nhằm làm 
giảm nguy cơ bị thương tổn. Theo tổ chức 
y tế thế giới (WHO), có nhiều nguyên nhân 
đưa đến TT do VSN như: lạm dụng mũi tiêm, 
thiếu vật tư, thiết bị, nhân sự không đáp ứng 
đủ, thiếu kỹ năng, thiếu nhận thức và đào tạo 
[17]. Như đã đề cập ở trên nhiều nghiên cứu 
trước đây đã chỉ ra rằng kiến thức của điều 
dưỡng liên quan đến vấn đề này là tương 
đối tốt. Do vậy việc họ nhận thức được tính 
nhạy cảm với TT do VSN là điều dễ hiểu. Từ 
mối liên quan này có thể thấy để thấy nâng 
cao kiến thức của điều dưỡng về các vấn đề 
có liên quan đến TT do VSN là một giải pháp 
giúp họ có thái độ tích cực hơn qua đó thực 
hiện tốt hơn các biện pháp dự phòng.
4.3. Nhận thức lợi ích của các biện 
phòng dự phòng TT do VSN
Cũng theo HBM, nếu một cá nhân tin 
rằng những hành động cụ thể sẽ làm giảm 
tính nhạy cảm đối với vấn đề sức khỏe hoặc 
giảm mức độ nghiêm trọng, thì người đó có 
khả năng tham gia vào hành vi đó bất kể sự 
thật khách quan liên quan đến hiệu quả của 
hành động. Trong kết quả nghiên cứu của 
chúng tôi, nhìn chung điều dưỡng đã có thái 
độ tích cực với các biện pháp dự phòng TT 
do VSN khi có 83.9% điều dưỡng cho rằng 
áp dụng các biện pháp dự phòng sẽ giúp họ 
giảm nguy cơ phơi nhiễm bệnh. Tương tự 
vậy, trong nghiên cứu của Dimie O (2015) 
cho thấy hầu hết 95% những người tham 
gia nghiên cứu tin rằng các biện pháp phòng 
ngừa tiêu chuẩn sẽ ngăn họ khỏi nhiễm 
trùng từ bệnh viện [11], và nghiên cứu của 
Arif A và cộng sự (2017), 94% có thái độ tích 
cực (30% đồng ý và 64% hoàn toàn đồng ý) 
rằng họ có thể giảm nguy cơ nghề nghiệp đối 
với HIV, HBV nhiễm trùng bằng cách tuân 
thủ các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn 
[6]. Cụ thể hơn từ nghiên cứu của chúng 
tôi, có 72.5% điều dưỡng nghĩ rằng loại bỏ 
kim tiêm và VSN không cần thiết, 83.9% cho 
rằng không nên đậy nắp kim bằng hai tay, có 
93.9% điều dưỡng cho rằng nên cho ngay 
VSN vào thùng đựng VSN sau sử dụng, có 
89.9% đồng ý với việc phân loại rác thải đúng, 
có 75.2% đồng ý nên báo cáo phơi nhiễm 
và thực hiện tiêm phòng HBV chiếm 80.6%. 
Kết quả một số nghiên cứu khác cũng cho 
thấy điều dưỡng đã có thái độ tốt với các 
biện pháp dự phòng TT do VSN trong các 
nội dung tương đồng, trong nghiên cứu của 
Olufemi O.A (2016), 98.2% NVYT cho rằng 
VSN cần được xử lý vào Hộp đựng VSN, có 
99% NVYT cho rằng tất cả các phơi nhiễm 
cần được báo cáo, có 94.8% NVYT cho rằng 
cần tiêm phòng HBV, sởi, quai bị...[5] và 
trong nghiên cứu của Mohammed G, Ahmed 
D.B, Musa J, Suleiman D (2018) phần lớn 
điều dưỡng cho đồng ý với việc tiêm phòng 
viêm gan B, với quan điểm cần thiết chiếm 
92% (40.8% và rất cần thiết chiếm 51.2%) 
[10]. Trong các nghiên cứu cho thấy hầu hết 
NVYT có thái độ tích cực với việc báo cáo 
TT do VSN nhưng trong thực tế việc báo cáo 
TT do VSN còn thấp ở qua nhiều nghiên cứu 
khác nhau, mà nguyên nhân chủ yếu do sợ 
gặp rắc rối hoặc sợ bị đổ lỗi khi báo cáo [12], 
hạn chế về thời gian, các VSN gây ra thương 
tích không được sử dụng cho bất kỳ người 
bệnh nào, người bệnh nguồn không có bệnh 
đáng lo ngại... [3]. Như vậy, điều dưỡng 
phần lớn đã nhận thức được tầm quan trọng 
của các biện pháp dự phòng phơi nhiễm do 
VSN, và để thực hiện được các biện pháp 
dự phòng có đầy đủ hay không thì còn dựa 
vào kiến thức của họ về vấn đề này và các 
rào cản khác có thể ngăn cản việc sử dụng 
các biện pháp dự phòng của họ.
74
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
4.4. Nhận thức rào cản với việc thực 
hiện các hành vi dự phòng TT do VSN
Nhận thức rào cản là sự đánh giá của một 
cá nhân về những trở ngại đối với thay đổi 
hành vi. Ngay cả khi một cá nhân nhận thấy 
tình trạng sức khỏe là đe dọa và tin rằng một 
hành động cụ thể sẽ làm giảm mối đe dọa một 
cách hiệu quả, các rào cản có thể ngăn chặn 
hành vi thúc đẩy sức khỏe. Trong nghiên cứu 
của chúng tôi, có 59.8% điều dưỡng cho rằng 
thiếu dụng cụ và thiết bị an toàn, xấp xỉ 40% 
cho rằng quá tải công việc, 57% điều dưỡng 
cho rằng thiếu nhân sự và 14.8% cho rằng 
họ thiếu kiến thức về dự phòng TT do VSN. 
Đây là những yếu tố được điều dưỡng xác 
định rằng nó sẽ cản trở đến thực hành dự 
phòng TT do VSN trong quá trình chăm sóc 
người bệnh. Trong nghiên cứu của Dimie O 
(2015) chỉ ra một số rào cản sau: 66,1%, xác 
định thiếu thiết bị phù hợp hoặc đủ để thực 
hành các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn, 
52,4% thiếu đào tạo thường xuyên về kiểm 
soát nhiễm trùng, thiếu 38,9% ủy ban kiểm 
soát và phòng ngừa nhiễm trùng và quá tải 
công việc chiếm 34,8% [11], trong nghiên 
cứu của Mohammed G, Ahmed D.B, Musa J, 
Suleiman D (2018) sự cản trở việc thực hiện 
các biện pháp phòng chống nhiễm khuẩn 
được điều dưỡng cho là 16% cho rằng quá 
tải công việc, 50.4% cho rằng thiếu thiết bị 
an toàn và 8% cho rằng thiếu thời gian thực 
hiện [10] và nghiên cứu của Arif A và cộng 
sự (2017), 84% đồng ý rằng áp lực công việc 
khiến điều dưỡng thỉnh thoảng quên sử dụng 
các biện pháp bảo vệ [6]. Một số rào cản khác 
cũng đã được báo cáo bao gồm thùng xử lý 
vật sắc nhọn không được thay đổi thường 
xuyên [16], hoạt động dự phòng TT do VSN 
chưa được thường xuyên quan tâm [14].
Cuối cùng, theo học thuyết niềm tin sức 
khỏe để cá nhân có thể tham gia vào các 
hành vi bảo vệ sức khỏe cần có tín hiệu cho 
hành động và sự tự hiểu quả của mỗi cá 
nhân điều dưỡng. Trong tín hiệu cho hành 
động, đó có thể là việc tổ chức tập huấn của 
bệnh viện về phòng rủi ro nghề nghiệp, sự 
giám sát của phòng điều dưỡng trong thực 
hành của điều dưỡng... Tuy nhiên, trong 
thực tế những năm gần đây bệnh viện chưa 
thực sự chú trọng trong việc tập huấn NVYT, 
mảng tiêm an toàn cho người bệnh được 
chú ý giám sát kiểm tra nhưng an toàn cho 
điều dưỡng thì vẫn chưa được chú trọng. 
Ngoài ra, mức độ tự hiệu quả của các cá 
nhân là khác nhau, để cá nhân có thể tham 
gia vào hành vi bảo vệ sức khỏe, họ cần đấu 
tranh với các thói quen có hại đã tồn tại trước 
đó và vượt qua các rào cản trong công việc 
như quá tải, thiếu nhân sự, thiếu dụng cụ an 
toàn Hơn thế nữa để thực hiện các hành 
vi đầy đủ và tốt nhất, điều dưỡng cần phải có 
kiến thức đầy đủ và toàn diện về dự phòng 
TT do VSN. 
Tổn thương do vật sắc nhọn là một trong 
những vấn đề sức khỏe nghề nghiệp phổ 
biến ở điều dưỡng. Nghiên cứu thái độ của 
điều dưỡng đối với TT do VSN là một vấn đề 
cần thiết để có thể dự báo hành vi cũng như 
có thể xây dựng được các biện pháp can 
thiệp giúp kiểm soát vấn đề sức khỏe này ở 
điều dưỡng. Nghiên cứu hiện tại đã áp dụng 
mô hình niềm tin sức khỏe trong đánh giá 
thái độ của điều dưỡng đối với TT do VSN và 
nó cung cấp dữ liệu rất hữu ích từ một khu 
vực cơ sở chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam. 
Mặc dù vậy nghiên cứu chưa đề cập đến thái 
độ của điều dưỡng về sự tự hiệu quả của cá 
nhân và tín hiệu cho hành động khi áp dụng 
mô hình niềm tin sức khỏe.
5. KẾT LUẬN 
Phần lớn điều dưỡng trong nghiên cứu có 
thái độ tích cực về tổn thương do vật sắc 
nhọn, dựa trên học thuyết “mô hình niềm tin 
sức khoẻ” có khả năng cao các điều dưỡng 
trong nghiên cứu này sẽ thực hiện các biện 
pháp dự phòng tổn thương do vật sắc nhọn. 
Một số yếu tố được xem như là rào cản là tải 
công việc, thiếu nhân sự, thiếu dụng cụ an 
toàn, thiếu kiến thức về dự phòng tổn thườn 
do vật sắc nhọn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Văn Khuê (2015), Thực trạng 
và một số yếu tố liên quan đến tổn thương do 
75
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 01
vật sắc nhọn ở điều dưỡng tại bệnh viện Đa 
khoa tỉnh Bắc Giang trong 6 tháng từ tháng 
9/2014 đến tháng 2/2015, Luận văn Thạc sỹ 
Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế công 
cộng, Việt Nam.
2. Dương Khánh Vân (2013), Nghiên cứu 
tổn thương nghề nghiệp do vật sắc nhọn 
ở nhân viên y tế và giải pháp can thiệp tại 
một số bệnh viện khu vực Hà Nội, Luận án 
tiến sỹ, National Institute of Hygiene and 
Epidemiology, Việt Nam.
3. T. Bekele et al. (2015), “Attitude, 
reporting behavour and management 
practice of occupational needle stick and 
sharps injuries among hospital healthcare 
workers in Bale zone, Southeast Ethiopia: a 
cross-sectional study”, J Occup Med Toxicol. 
10, page. 42.
4. Centers for Disease Control and 
Prevention (CDC) Sharps Safety for 
Healthcare Settings, https://www.cdc.gov/
sharpssafety/. Accessed by 12/2018.
5. Olufemi Oludare Aluko et al. (2016), 
“Knowledge, attitudes and perceptions of 
occupational hazards and safety practices in 
Nigerian healthcare workers”, BMC research 
notes. 9, page. 71-71.
6. Areeba Arif et al. (2018), “Knowledge, 
attitudes and practices of standard 
precautions among nursing professionals 
at a teaching hospital”, Original Article. 33, 
page. 314-319.
7. Tolesa Bekele et al. (2015), “Attitude, 
reporting behavour and management practice 
of occupational needle stick and sharps 
injuries among hospital healthcare workers 
in Bale zone, Southeast Ethiopia: a cross-
sectional study”, Journal of occupational 
medicine and toxicology (London, England). 
10, page. 42-42.
8. C. E. Cooke and J. M. Stephens (2017), 
“Clinical, economic, and humanistic burden 
of needlestick injuries in healthcare workers”, 
Med Devices (Auckl). 10, page. 225-235.
9. M. Honda et al. (2011), “Sharps injuries 
among nurses in a Thai regional hospital: 
prevalence and risk factors”, Int J Occup 
Environ Med. 2(4), page. 215-23.
10. G Mohammed et al. (2018), 
“Knowledge, attitude, self-efficacy and 
practice of standard precaution measures by 
nursing and midwifery students in Damaturu, 
North-Eastern Nigeria”, International Journal 
of Advanced Community Medicine. 1(2), 
page. 41-46.
11. Dimie Ogoina et al. (2015), “Knowledge, 
attitude and practice of standard precautions 
of infection control by hospital workers in 
two tertiary hospitals in Nigeria”, Journal of 
infection prevention. 16(1), page. 16-22.
12. Varsha K. Pavithran et al. (2015), 
“Knowledge, attitude, and practice of needle 
stick and sharps injuries among dental 
professionals of Bangalore, India”, Journal 
of International Society of Preventive & 
Community Dentistry. 5(5), page. 406-412.
13. Sheng-Li Huang et al. (2017), 
“Sharp instrument injuries among hospital 
healthcare workers in mainland China: a 
cross-sectional study”, BMJ open. 7(9), 
page. e017761-e017761.
14. Anitha Madhavan et al. (2019), 
“Comparison of knowledge, attitude, and 
practices regarding needle-stick injury 
among health care providers”, Journal of 
family medicine and primary care. 8(3), 
page. 840-845.
15. Irwin M. Rosenstock (1974), “Historical 
Origins of the Health Belief Model”, Health 
Education Monographs. 2(4), page. 328-335.
16. Asgad suliman et al. (2016), 
“Knowledge, Attitude and Practice Towards 
Needle Stick Injury Among Health Care 
Workers in a Tertiary Sudanese Hospital”, 
South American Journal of Clinical Research. 
1.
17. World Health Organization (2010), 
WHO best practices for injections and 
related procedures toolkit, World Health 
Organization, , Geneva, Switzerland.

File đính kèm:

  • pdfthai_do_doi_voi_ton_thuong_do_vat_sac_nhon_cua_dieu_duong_mo.pdf