Tản mạn về sông An Cựu qua cảm nhận của người Châu Âu trước 1945
Sông An Cựu và vùng đất ven con sông này ở khu vực Huế đã được người châu Âu biết đến từ thế kỷ XVII, qua tên gọi sông Phủ Cam và làng Phủ Cam. Tên Phủ Cam xuất phát từ cái phủ mang tên Cam, có cùng niên đại với phủ Dương Xuân và phủ Tập Tượng bên bờ nam Sông Hương thời các chúa Nguyễn nên dân
gian quen gọi là Phủ Cam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tản mạn về sông An Cựu qua cảm nhận của người Châu Âu trước 1945", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tản mạn về sông An Cựu qua cảm nhận của người Châu Âu trước 1945
132 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018 TẢN MẠN VỀ SÔNG AN CỰU QUA CẢM NHẬN CỦA NGƯỜI CHÂU ÂU TRƯỚC 1945 Nguyễn Quang Trung Tiến* Sông An Cựu và vùng đất ven con sông này ở khu vực Huế đã được người châu Âu biết đến từ thế kỷ XVII, qua tên gọi sông Phủ Cam và làng Phủ Cam. Tên Phủ Cam xuất phát từ cái phủ mang tên Cam, có cùng niên đại với phủ Dương Xuân và phủ Tập Tượng bên bờ nam Sông Hương thời các chúa Nguyễn,(1) nên dân gian quen gọi là Phủ Cam. Vùng đất ven sông Phủ Cam đã sớm xuất hiện họ đạo cùng trú sở của các linh mục thuộc Hội Thừa sai Paris (Société des Missions étrangères de Paris) và nhiều dòng tu khác, có nhà thờ từ năm 1682, đến đầu thế kỷ XX trở thành nhà thờ Chính tòa Phủ Cam; nên ngay từ thế kỷ XVII, các giáo sĩ phương Tây đến Huế quen dùng cái tên Phủ Cam, bởi đây là địa điểm tụ hội chính của họ ở đầu con sông. Vào nửa đầu thế kỷ XVIII, tên Phủ Cam được toàn thế giới Công giáo quan tâm, do “Đức Giám mục E. F de la Baume [Khâm mạng Tòa Thánh Vatican], tuổi đã cao, thiếu thốn đủ mọi thứ... đã qua đời. Nơi đó không phải ở Cochin [từ năm 1834 được triều Nguyễn gọi là Nam Kỳ], ở Barjavel, mà ở Phủ Cam, một vùng đất tại Huế; nơi ông được bổ nhiệm như một vị Hồng y giáo chủ, qua đời vào ngày 02/4/1741, với sự có mặt của một hoàng thân Kitô giáo An Nam [hoàng tộc chúa Nguyễn xứ Đàng Trong], cùng một số người đến thăm viếng và những nhà truyền giáo khác, bao gồm một linh mục người Trung Quốc là học trò của ông... Cái chết này là một sự kiện ở Huế đối với triều đình cũng như các thần dân, bởi sự hiện diện của “Vị khách”mà cả thế giới đều biết đến”.(2) Đầu thế kỷ XIX, vùng đất Phủ Cam là nơi cư trú suốt gần 18 năm [1802-1819] của gia đình Jean Baptiste Chaigneau, công thần người Pháp hàng đầu của chúa Nguyễn Ánh đã trở thành vua Gia Long đầu triều Nguyễn. Michel Ðức Chaigneau, con trai trưởng của gia đình này đã có nhiều kỷ niệm sâu lắng về vùng đất Phủ Cam khi viết trong hồi ký của mình: “Cha tôi đã mua một ngôi nhà ở khu vực phụ cận Huế, cách Kinh Thành khoảng một cây số và cách làng đạo Phủ Cam cũng khoảng chừng đó. Sở đất này rộng chừng ba héc-ta, nằm bên bờ một chi lưu [sông An Cựu] của sông Trường Tiền [Sông Hương] vốn bắt nguồn gần khu lăng tẩm của hoàng gia [nơi hợp lưu giữa sông Tả Trạch và sông Hữu Trạch để tạo thành Sông Hương, * Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế. 133Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018 ở vị trí xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà hiện nay]. Tương tự nhiều sở đất khác quanh thành phố, sở đất nhà cha tôi có trồng cau, cam, xoài, ổi, v.v... và bao quanh là hàng rào tre dày với bờ mương phía trong. Giữa sở đất là một cụm ba căn nhà, mái lợp ngói liệt; tất cả đều là nhà trệt, lớn bé đều có, cất trên nền nhà cao hơn mặt sân nửa mét, gồm những chiếc cột gỗ kết nối vững vàng với xà ngang và kèo. Tôi không thể cưỡng lại sự cám dỗ khi mô tả ngôi nhà này, nơi tôi sinh ra, lớn lên và lìa xa nó ở tuổi mười sáu, khi theo cha trong chuyến đi đầu tiên về Pháp vào cuối năm 1819”.(3) Ảnh 1: Ngôi nhà của gia đình J. B. Chaigneau bên bờ sông An Cựu trong giai đoạn 1802-1819, nằm ở đường Phan Đình Phùng gần chợ Bến Ngự hiện nay. (Nguồn: Paul Boudet et André Masson (1931), Iconographie historique de l’Indochine française, Les Éditions G. Van Oest, Paris, Planche XVIII). Ký ức của Michel Ðức Chaigneau về Phủ Cam không chỉ là ngôi nhà thời thơ ấu, mà còn phần nào phản ánh đặc điểm vùng đất này qua việc tang ma vào đầu thế kỷ XIX: “Ở Huế, người ta phải dùng thuyền để di chuyển trong phần lớn quãng đường đưa tang, bởi có vô số dòng sông ở mọi hướng tại vùng phụ cận, mà cầu thì rất ít. Lợi thế của việc đưa tang bằng thuyền là di chuyển nhanh hơn so với gánh đám bằng đường bộ. Nhưng đôi lúc do thiếu phương tiện, một phần đoàn đưa tang phải đi bộ theo trên bờ, rồi dùng đò ngang để qua sông ở những đoạn không có cầu. Giữa làng Phủ Cam và ngọn núi biệt lập [núi Ngự Bình] là một thung lũng lớn, “thung lũng mộ địa”, nơi phần lớn người Huế và vùng phụ cận mai táng những người thân. Một chi lưu của sông Trường Tiền chảy ngang một con đường sỏi đá 134 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018 nằm phía hữu ngạn [đường lên đàn Nam Giao, nay là đường Phan Bội Châu], cách cửa sông [Cửa Khâu, nơi giao nhau giữa bờ nam Sông Hương và đầu sông An Cựu] khoảng một cây số: con đường này dẫn đến “thung lũng mộ địa” khi vượt qua làng Phủ Cam ở bên trái”.(4) Ảnh 2: Một khu làng ở cửa sông An Cựu ven phá Hà Trung - đầm Cầu Hai cuối thế kỷ XIX. (Nguồn: Valérien Groffier (1908), Héros trop oubliés de notre épopée coloniale, Desclée - De Brouwer, Lille, p. 312). Đến nửa sau thế kỷ XIX, sĩ quan hải quân Pháp là Dutreuil de Rhins trên đường từ Đà Nẵng đi bộ ra Huế(5) để nhận nhiệm vụ lái thuê chiếc tàu hơi nước Scorpion cho triều đình Huế vào tháng 10/1876, đã có những cảm nhận đầu tiên dưới góc nhìn của người châu Âu về địa lý của vùng đất này. Trong bài viết đăng trên Tập san Hội Địa dư Paris năm 1878 [trước khi Dutreuil de Rhins viết hồi ký và xuất bản lần đầu năm 1879], ông nhận xét: “Từ chân dãy núi vòng quanh thung lũng Cầu Hai, nơi có một số con sông đổ nước vào, chúng tôi rời khỏi con đường bộ mà trước khi đến vùng đồng bằng Huế vẫn phải đi qua một con đèo, đất canh tác bị cắt xẻ bởi các dòng sông và một cánh đồng cát mênh mông được bao phủ với nhiều ngôi mộ – những di tích cuối cùng của một thành phố ẩn hiện phía xa. Để thuận tiện, chúng tôi đi thuyền bản xứ, hoặc gọi là thuyền tam bản, trong vòng 12 giờ sẽ đưa chúng tôi qua vùng đầm phá và sông Phủ Cam để đến Huế. Toàn bộ đồng bằng mà chúng tôi đi qua, giữa đầm phá và những ngọn đồi bao quanh là một vùng đất đỏ, đất sét pha cát nơi nhiều nơi ít, bị chia cắt bởi các dòng suối, những cánh đồng lúa vùng trũng, và những rừng cây trong đó tre và cau chiếm đa số. Thấp thoáng dưới tầm nhìn của chúng tôi là nhiều thôn xóm được bao quanh bởi những vườn cây lá, đồng ruộ ... 924, p. 228). Trên dòng sông An Cựu, mặc dù đang sa lầy trong cuộc Chiến tranh Thế giới 1914-1918, người Pháp cũng bắt đầu có sự điều chỉnh, với việc xây cống ngăn mặn ở cửa sông giáp phá Hà Trung - đầm Cầu Hai. Năm 1916, căn cứ dự án của Toàn quyền Đông Dương về việc thực hiện các công trình thủy lợi ở tỉnh Thừa Thiên và tờ trình của Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, ngày 19/12/1916, Tổng thống Cộng hòa Pháp(15) ký sắc lệnh cho phép triển khai xây dựng các đập Phủ Cam [đập Cống Quan] và Cầu Hai với khoản kinh phí 200.000 francs (Điều 1).(16) Con đập chắn có cống tháo nước làm xong, sinh hoạt của cư dân trên sông An Cựu cũng phải thay đổi phương cách khi đi từ sông ra phá hay ngược dòng từ 143Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018 phá vào sông. Dufresne đã cho chúng ta thấy lại cảnh này một cách thi vị qua sự mô tả đầy chất văn chương: “Từ khi sông Phủ Cam tại Huế bị cách ly với đầm phá bởi một con đập để ngăn nước mặn xâm nhập vào những cánh đồng lúa, và điều đó là cần thiết, để vượt qua đập chắn, người ta hò và nghiêng các thuyền tam bản để gánh qua với một điệu hò dài, mà cuối mỗi câu được xướng lên bởi một người râu tóc bạc trắng thì cả nhóm cùng hò theo ở những điệp khúc. Những người khiêng thuyền thậm chí không thể gánh nổi nếu không có nhịp điệu của hai tiếng “hò khoan” vang lên theo từng động tác của họ”. “Có lẽ trong giao thông đường thủy, hiệu ứng nghệ thuật được tạo ra bằng cách hòa cùng một nhịp hò mang đến sự hoàn hảo tối đa. Ở đó, tất cả mọi thứ góp phần vào kết quả của cái đẹp: sự tĩnh lặng sâu lắng của vùng nông thôn, vẻ duyên dáng của những hàng tre, mặt nước êm đềm phản chiếu ánh trăng yên bình trên một thủy vực rộng. Những chiếc thuyền lướt nhẹ mà không có bất kỳ âm thanh nào khác ngoài tiếng mái chèo cọ xát quai chèo và cọc chèo. Và người ta có thể đoán được khoảng cách một đoạn điệp khúc hò theo nhịp điệu chậm rãi”.(17) Kể từ cuối năm 1924, khi trên dòng sông An Cựu ở khu vực Huế đã có đủ 6 cây cầu nối đôi bờ [các cầu: Ga, Nam Giao, Bến Ngự, Phủ Cam, Kho Rèn, An Cựu], cảnh quan ở vùng sông này lại tiếp tục có thêm nhiều thay đổi theo nhịp bước của quá trình đô thị hóa, như những dòng mô tả đầy cảm xúc hoài cổ dưới đây của Léopold Cadière: “Con sông, rộng 300 mét, Sông Hương, chảy xuống từ những ngọn núi gần đó, nổi lên từ mỏm đồi đỏ và uốn cong hai lần, tạo thành một chữ Z lớn. Đường trung tuyến kéo từ phía mặt trời lặn sang hướng đông, chia thành phố làm hai: khu phố Tây ở bờ hữu ngạn, thành cổ và khu dân cư bản địa ở bờ tả ngạn. Hai cây cầu sắt, cầu Clémenceau, tức cầu Thành Thái cũ [cầu Trường Tiền] phía hạ lưu; cầu đường sắt phía thượng nguồn [cầu Dã Viên], kết nối hai phần của kinh đô. Các dự án về mỹ quan của thành phố đưa ra một cây cầu thứ ba, hoành tráng, nằm giữa hai cái hiện đang tồn tại. Tôi bắt gặp nhiều người không biết nhàm chán trước vẻ đẹp của thiên nhiên, không hề mệt mỏi khi đứng hàng giờ bên lan can của cây cầu Clémenceau. Dòng nước lững lờ trôi giữa hàng ngàn cư dân vạn đò sinh sống trên thuyền, với một bờ có màu ngọc lục bảo được nhấn mạnh bởi các bức tường màu thổ hoàng của tòa thành cổ, còn một bên là những đốm trắng của các tòa nhà kiểu châu Âu. Đằng xa, những ngọn đồi nối tiếp nhau như những con cừu bị xén lông, lộ ra một mảng sườn thấm nước trông như những vệt máu dưới một thảm thực vật mỏng màu xám. Phía xa xa, những ngọn núi mọc lên, sương mờ che khuất rồi lại lướt qua, chúng có màu xanh đen và đường nét sắc nhọn”. 144 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018 “Ba mươi năm trước, bờ hữu ngạn có một bộ mặt khác xa ngày hôm nay. Khu phố Tây hầu như không tồn tại. Rất khó để nhận dạng nó khi nhìn từ phía hạ lưu. Sứ quán Pháp bị che phủ bởi lùm cây, được bảo vệ bằng một doanh trại và liên lạc với phần còn lại của thế giới bằng một gian nhà có mái che. Toàn bộ bờ sông bị lấp kín bởi một dãy các căn nhà thấp và mái rộng, trải theo chiều dài con sông: chúng là doanh trại của doanh Thủy sư An Nam. Tòa nhà cuối cùng trong số đó đã biến mất do quá trình xây dựng Trường Quốc Học. Nhà khảo cổ luyến tiếc về sự biến mất hoàn toàn của chúng; nhưng người nghệ sĩ thì không như vậy. Đằng trước các doanh trại, những âu thuyền phủ đầy những túp lều tranh nhẹ, chứa những chiếc thuyền hoàng gia khi thời tiết xấu. Tại đây, nhà khảo cổ học và nghệ thuật cùng chung nỗi luyến tiếc, không phải về những túp lều, mà về những chiếc thuyền. Một số thuyền xưa là kỳ quan về nghệ thuật điêu khắc, sơn mài, thếp vàng. Không còn gì, hoặc quá ít đến mức gần như không có gì...” “Nhu cầu của thời đại đã cuốn trôi mọi thứ. Trên vị trí của một phần những chuồng voi của hoàng gia mọc lên nhà ga xe lửa và một khách sạn, một xưởng cưa, một nhà máy nước đá, khu dân cư. Ở phía bên kia sông Phủ Cam, một cây cầu đẹp bắc qua, Trường Pellerin [nay là khu Học viện Âm nhạc Huế] thay thế các khu vườn rợp bóng và nhà cửa”. “Tiếp đến, từ dãy doanh trại cũ của thủy quân, đã chia thành Dinh Công sứ Thừa Thiên, các văn phòng và doanh trại bảo an binh, Trường Quốc Học, Trường nữ trung học Đồng Khánh, trụ sở Phủ Thừa của tỉnh và nhà lao, bệnh viện trung ương rộng lớn của Trung Kỳ, bưu điện, các công trình công cộng, câu lạc bộ, khách sạn lớn của Huế, Tòa Khâm sứ Trung Kỳ, Sứ quán cũ, nhạc viện, sở thuế... Tôi chỉ đề cập đến các tòa nhà chính và chỉ nói về những gì chúng ta thấy khi đi theo đường Jules Ferry [nay là Lê Lợi], trục chính của Huế, mà không nói đến tất cả các công trình xây dựng, các cơ sở theo kế hoạch chỉnh trang của đô thị Huế đang được tiến hành”. “Tất cả các công trình này được phủ bóng cây xanh, phù hợp với một thành phố thuộc địa. Một số công trình là các di tích, với đường nét giản dị và thuần khiết theo sở thích của người Pháp, lại phù hợp với yêu cầu của bản xứ. Một số công trình khác đã bị chỉ trích mạnh mẽ, trở thành bất cập và phải để cho cây cối che phủ dần”.(18) Cùng mang tâm trạng hoài cổ, năm 1925, Madrolle viết: “Ở bờ hữu ngạn Sông Hương là khu phố Tây. Tòa Khâm sứ vẫn còn được gọi là Sứ quán, vì ban đầu vào năm 1878 nơi đây được dùng làm trú sở của sứ bộ ngoại giao Pháp một thời gian, trước khi thiết lập chính quyền Bảo hộ. Băng qua sông Phủ Cam là nhà ga xe lửa, đại lộ Nam Giao, chùa Quốc Ân, thành cổ ở Nguyệt Biều [Thành Lồi], đàn 145Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018 Nam Giao, núi Ngự Bình, đường lên lăng tẩm hoàng gia. Trên ngọn đồi phía sau nhà ga, có chùa Báo Quốc được xây dựng vào cuối thế kỷ XVII. Cổng tam quan của chùa xây dựng vào năm 1808, được khắc trang trí bằng chữ Phạn và các Hán tự. Trong khuôn viên có những bảo tháp của các sư trú trì. Tháp cổ nhất nằm sau hàng đầu tiên được dựng lên (năm 1714) bởi các đệ tử đáng kính của sư Giác Phong để tưởng niệm vị tổ sáng lập chùa. Trong chính điện có một số mảng chạm khắc đẹp, một cái chuông đúc năm 1808. Trên bàn thờ lớn được xếp theo thứ bậc là tượng của các vị Phật trong Phật giáo Đại thừa, xen vào đó là vài bức tượng của Lão giáo...(19) Việc chỉnh trang sông An Cựu còn được tiếp nối những năm sau đó, như vào năm 1929, tỉnh Thừa Thiên trích ngân sách để gia cố độ bền của kè chống xói mòn ở bờ sông đoạn Phủ Cam;(20) năm 1932 trích 745,00 đồng Đông Dương xây công trình bảo vệ ở hai bờ sông chống xói lở phía dưới cầu An Cựu,(21) trích 500,00 đồng Đông Dương tu bổ lần thứ nhất công trình bảo vệ trên bờ sông Phủ Cam chống lũ lụt hàng năm gây xói mòn theo yêu cầu của Hội đồng tỉnh;(22) năm 1938 trích trước 425,00 đồng Đông Dương cho việc củng cố và thay thế mặt đường bờ kè của cầu đường Jules Ferry gần ga [cầu Ga] bằng mặt đường bê tông cốt thép...(23) Hóa ra, những hoạt động chỉnh trang, tu bổ để cho dòng sông An Cựu vận hành tốt hơn, đô thị phát triển mạnh hơn dưới thời Pháp thuộc không hề quá ít; còn những cảm nhận của người châu Âu về vùng đất bên sông An Cựu ở khu vực Huế thì không chỉ có sự vui mừng về những đổi thay, mà còn xen lẫn vào đó cả những tâm trạng hoài cổ, luyến tiếc những giá trị quý báu của một thời đang dần dần mất bóng... N Q T T Ảnh 6: Trụ sở tập đoàn công nghệ phẩm Chaffanjon góc đường Chaigneau - Henri Rivière giữa thế kỷ XX, nay là góc Lý Thường Kiệt - Hà Nội. (Nguồn: AAVH). 146 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018 CHÚ THÍCH (1) Lê Quý Đôn toàn tập (1977), Tập I, Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr 112. (2) Académie de Vaucluse (1935), Mémoires de l’Académie de Vaucluse, Tome XXXV, Impr. Rullière, Avignon, p. 181. (3) Michel Ðức Chaigneau (1867), Souvenirs de Hué, Imprimerie Impériale, Paris, p. 20. (4) Michel Ðức Chaigneau (1867), Souvenirs de Hué, Imprimerie Impériale, Paris, p. 211-212. (5) Đây là lần ra Huế thứ hai của Dutreuil de Rhins, lần đầu ông đến Huế bằng đường biển, đi từ cửa biển Thuận An lên Huế. (6) Dutreuil de Rhins, “La côte d’Annam et la province de Hué”, Bulletin de la Société de Géographie, Société de Géographie, Tome XVI, Paris, 12/1878, p. 335-336. (7) Institut Géographique de Paris, Revue de Géographie, Tome V, juillet - décembre 1879, Librairie Ch. Delagrave, Paris, p. 196-198. (8) Jules Léon Dutreuil de Rhins (1889), Le royaume d’Annam et les Annamites: journal de voyage, Librairie Plon, Paris, p. 125-128. (9) Jules Léon Dutreuil de Rhins (1889), Le royaume d’Annam et les Annamites: journal de voyage, Librairie Plon, Paris, p. 232-234. (10) Bulletin officiel de l’Indo-Chine française, No 1-6, Imprimerie Schneider, Hanoi, 1899, p. 12. (11) Bulletin Économique de l’Indo-Chine, No110, septembre 1914, Hanoi, p.764. (12) J. Paul Trouillet, “Le Tourisme en Indochine”, La Dépêche Coloniale Illustrée, No11, 15 juin 1910, Paris, p. 137. (13) Ph. Eberhardt, Guide de l’Annam, Augustin Challamel - Éditeur, Librairie Maritime et Coloniale, Paris, 1914, p. 157-158. (14) Jeanne Leuba, “La grande nuit”, La Renaissance, No14, 08 juillet 1916, Paris, p. 17. (15) Tổng thống Raymond Nicolas Landry Poincaré, nhiệm kỳ 1913-1920. (16) Bulletin officiel du Ministère des Colonies, Nos1 à 12, 1918, Imprimerie Nationale, Paris, p. 48-50. (17) Dufresne, “Littérature Annamite”, Indochine, Exposition Coloniale Internationale de Paris, Société d’Éditions, Paris, 1931, p. 160. (18) Agence Économique des territoires africains sous mandat, Bulletin de l’Agence Générale des Colonies, No197, 1924, Paris, p. 817-818. (19) Madrolle (1925), Indochine du Nord: Tonkin, Annam, Laos, Yunnan, Kouang-Tchéou Wan (2e Édition), Librairie Hachette, Paris, p. 270-271. (20) Gouvernement général de l’Indo-Chine, Rapports au Conseil de gouvernement, Imprimerie d’Extrême-Orient, Hanoï, 1929, p. 785. (21) Résidence de Thua-Thiên, Budget provincial pour l’exercice, Imprimerie Phuc-Long, Hué, 1932, p. 50-51. (22) Résidence de Thua-Thiên, Budget provincial pour l’exercice, Imprimerie Phuc-Long, Hué, 1932, p. 46-47. (23) Ville de Hué, Budget municipal pour l’exercice, Imprimerie de Bui Huy Tin, Hué, 1938, p. 48-49. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Agence Économique des territoires africains sous mandat, Bulletin de l’Agence Générale des Colonies, No197, 1924, Paris. 147Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (149) . 2018 2. Bulletin économique de l’Indo-Chine, No110, septembre 1914, Hanoi. 3. Bulletin officiel de l’Indo-Chine française, No1-6, 1899, Imprimerie Schneider, Hanoi. 4. Bulletin officiel du Ministère des Colonies, Nos1 à 12, 1918, Imprimerie Nationale, Paris. 5. Michel Ðức Chaigneau (1867), Souvenirs de Hué, Imprimerie Impériale, Paris. 6. Dufresne (1931), “Littérature Annamite”, Indochine, Exposition Coloniale Internationale de Paris, Société d’Éditions, Paris. 7. Lê Quý Đôn toàn tập (1977), Tập I, Phủ biên tạp lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 8. Ph. Eberhardt (1914), Guide de l’Annam, Augustin Challamel - Éditeur, Librairie Maritime et Coloniale, Paris. 9. Gouvernement général de l’Indo-Chine, Rapports au Conseil de gouvernement, Impr. d’Extrême-Orient, Hanoï, 1929. 10. Institut Géographique de Paris, Revue de Géographie, Tome V, juillet - décembre 1879, Librairie Ch. Delagrave, Paris. 11. Jeanne Leuba, “La grande nuit”, La Renaissance, No14, 08 juillet 1916, Paris. 12. Madrolle (1925), Indochine du Nord: Tonkin, Annam, Laos, Yunnan, Kouang-Tchéou Wan (2e Édition), Librairie Hachette, Paris. 13. Résidence de Thua-Thiên, Budget provincial pour l’exercice, Imprimerie Phuc-Long, Hué, 1932. 14. Dutreuil de Rhins, “La côte d’Annam et la province de Hué”, Bulletin de la Société de Géographie, Société de Géographie, Tome XVI, Paris, 12/1878. 15. Dutreuil de Rhins (1889), Le royaume d’Annam et les Annamites: journal de voyage, Librairie Plon, Paris. 16. J. Paul Trouillet, “Le Tourisme en Indochine”, La Dépêche Coloniale Illustrée, No11, 15 juin 1910, Paris. 17. Académie de Vaucluse (1935), Mémoires de l’Académie de Vaucluse, Tome XXXV, Imprimerie Rullière, Avignon. 18. Ville de Hué, Budget municipal pour l’exercice, Imprimerie de Bui Huy Tin, Hué, 1938. TÓM TẮT Sông An Cựu và vùng đất ven con sông này ở Huế đã được người châu Âu biết đến từ thế kỷ XVII qua tên gọi sông Phủ Cam và làng Phủ Cam. Bài viết này tổng thuật những điều ghi chép, khảo tả về sông An Cựu của một số tác giả người Âu từng đến Huế xưa, qua đó giúp người đọc hôm nay hình dung được cảnh quan và những thay đổi của dòng sông “nắng đục mưa trong” trong quá trình đô thị hóa vùng Huế. ABSTRACT TALKING ABOUT AN CỰU RIVER THROUGH THE VIEW OF SOME EUROPEAN PEOPLE BEFORE 1945 An Cựu River and the area along this river in Huế have been known to Europeans since the 17th century through the name of Phủ Cam River and Phủ Cam village. This article summarizes the notes and descriptions of An Cựu River of some European authors who used to visit Huế in the past, and thereby helping readers visualize the landscape and changes of the river which is “muddy in sunny season and clear in rainy season” during the process of urbanization of Huế.
File đính kèm:
- tan_man_ve_song_an_cuu_qua_cam_nhan_cua_nguoi_chau_au_truoc.pdf