Sự biến thiên của gen mã hóa các phân tử dính và trợ viêm có liên quan với sốt rét nặng trên bệnh nhân người việt
Cơ sở di truyền của tính cảm nhiễm sốt rét đã được nghiên cứu rộng rãi trên các quần thể người châu Phi
nhưng sự đóng góp của các biến thể di truyền chuyên biệt trong các quần thể người châu Á chưa được biết nhiều. Chúng tôi đã xác định kiểu gen của 67 thể đa hình đơn-nucleotid (SNP) trên 1030 trường hợp sốt rét nặng và 2840 trường hợp đối chứng ở Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Sự biến thiên của gen mã hóa các phân tử dính và trợ viêm có liên quan với sốt rét nặng trên bệnh nhân người việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự biến thiên của gen mã hóa các phân tử dính và trợ viêm có liên quan với sốt rét nặng trên bệnh nhân người việt
NGHIÊN CỨU THỜI SỰ Y HỌC 12/2012 - Số 71 3 SỰ BIẾN THIÊN CỦA GEN MÃ HÓA CÁC PHÂN TỬ DÍNH VÀ TRỢ VIÊM CÓ LIÊN QUAN VỚI SỐT RÉT NẶNG TRÊN BỆNH NHÂN NGƯỜI VIỆT SJ Dunstan1,2, KA Rockett3, NTN Quyên1, YYTeo4, CQ Thái5, NT Hằng1, A Jeffreys3, G Clark6, KS Small7, CP Simmons1,2, N Day8, SE O’Riordan1, DP Kwiatkowski3,9, J Farrar1,2, NH Phú1,5 và TT Hiền1,5, cộng tác với MalariaGEN Consortium3,9 Tóm tắt Cơ sở di truyền của tính cảm nhiễm sốt rét đã được nghiên cứu rộng rãi trên các quần thể người châu Phi nhưng sự đóng góp của các biến thể di truyền chuyên biệt trong các quần thể người châu Á chưa được biết nhiều. Chúng tôi đã xác định kiểu gen của 67 thể đa hình đơn- nucleotid (SNP) trên 1030 trường hợp sốt rét nặng và 2840 trường hợp đối chứng ở Việt Nam. Sau khi kiểm tra chất lượng dữ liệu, dữ liệu kiểu gen của 956 ca bệnh và 2350 người đối chứng được phân tích đối với 65 SNP (3 SNP xác định giới tính, 62 nằm trên/gần 42 gen ứng viên sốt rét). Tổng cộng có 14 SNP đơn hình và 2 SNP (rs8078340 và rs33950507) không ở trạng thái cân bằng Hardy–Weinberg trên các đối tượng đối chứng (P<0,01). Có 7/46 SNP trên 6 gen (ICAM1, IL1A, IL17RC, IL13, LTA và TNF) có liên quan với sốt rét nặng, với 3/7 SNP ở vùng TNF/LTA. Sự tương quan kiểu gen–kiểu hình giữa SNP và các thông số lâm sàng cho thấy kiểu gen rs708567 (IL17RC) tương quan với mật độ ký sinh trùng trong máu (P=0,028, r2=0,0086), đồng hợp tử GG có lượng ký sinh trùng thấp nhất. Ngoài ra, đồng hợp tử GG rs708567 có nguy cơ sốt rét nặng (P=0,007, OR=0,78 (KTC 95%: 0,65–0,93)) và chết (P=0,028, OR=0,58 (KTC 95%: 0,37–0,93)) thấp hơn các kiểu gen AA và AG. Tóm lại, các biến thể trong 6 gen mã hóa các phân tử dính và trợ viêm có liên quan với sốt rét nặng trên người Việt Nam. Cần có thêm các nghiên cứu tương tự trên các dân số độc lập để khẳng định những kết quả này. Từ khóa: sốt rét nặng; SNP; kết hợp di truyền; ICAM1; TNF; IL17RC Abstract VARIATION IN HUMAN GENES ENCODING ADHESION AND PROINFAMMATORY MOLECULES ARE ASSOCIATED WITH SEVERE MALARIA IN THE VIETNAMESE The genetic basis for susceptibility to malaria has been studied widely in African populations but less is known of the contribution of specific genetic variants in Asian populations. We genotyped 67 single-nucleotide polymorphisms (SNPs) in 1030 severe malaria cases and 2840 controls from Vietnam. After data quality control, genotyping data of 956 cases and 2350 controls were analysed for 65 SNPs (3 gender confirmation, 62 positioned in/near 42 malarial candidate genes). A total of 14 SNPs were monomorphic and 2 (rs8078340 and rs33950507) were not in Hardy–Weinberg equilibrium in controls (P<0.01). In all, 7/46 SNPs in 6 genes (ICAM1, IL1A, IL17RC, IL13, LTA and TNF) were associated with severe malaria, with 3/7 SNPs in the TNF/LTA region. Genotype– phenotype correlations between SNPs and clinical parameters revealed that genotypes of rs708567 (IL17RC) correlate with parasitemia (P=0.028, r2=0.0086), with GG homozygotes having the lowest parasite burden. Additionally, rs708567 GG homozygotes had a decreased risk of severe malaria (P=0.007, OR=0.78 (95% CI; 0.65– 0.93)) and death (P=0.028, OR=0.58 (95% CI; 0.37–0.93)) than those with AA and AG genotypes. In summary, variants in six genes encoding adhesion and proinflammatory molecules are associated with severe malaria in the Vietnamese. Further replicative studies in independent populations will be necessary to confirm these findings. Keywords: severe malaria; SNP; genetic association; ICAM1; TNF; IL17RC Đặt vấn đề Khoảng phân nửa dân số thế giới có nguy cơ sốt rét, với 243 triệu người nhiễm ký sinh trùng (KST) và gần 1 triệu người chết trong năm 2008.(1) Trong thập niên vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc phòng chống sốt rét với số mắc giảm từ 187.994 trường hợp năm 1991 xuống 54.297 năm 2010 và số chết giàm từ 4646 trường hợp năm 1991 xuống còn 21 năm 2010.(2) Thành công này là do sự tập trung can thiệp ở những vùng có nguy cơ cao và cân bằng giữa điều trị và phòng bệnh, nghĩa là phối hợp biện pháp tẩm màn, phun thuốc diệt muỗi và chẩn đoán sớm với sự khả dụng của thuốc điều trị hữu hiệu (các dẫn chất artemisinin).(3,4) Tuy phòng chống thành công, nhưng bệnh sốt rét vẫn tồn tại ở Việt Nam. Ngoài ra, một nghiên cứu của Erhart và cộng sự(5) cho thấy hệ thống thông tin y tế ở Việt Nam chưa đánh giá đúng mức về gánh nặng sốt rét. Các trường hợp sốt rét thường được tìm thấy ở các vùng dân tộc ít người ở miền Trung-Tây nguyên vốn còn nghèo, hệ thống y tế còn yếu và là những vùng rừng núi thuận 1 Đơn vị Nghiên cứu Lâm sàng Đại học Oxford, TP.HCM Việt Nam; 2 Khoa Y học Lâm sàng Nuffield, Trung tâm Y học Nhiệt đới, Đại học Oxford, Oxford, Vương quốc Anh; 3 Trung tâm Di truyền học Người Wellcome Trust, Đại học Oxford, Oxford, Vương quốc Anh, 4 Bộ môn Thống kê và Xác suất ứng dụng, Đại học Quốc gia Singapore, Singapore; 5 Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới, TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam; 6 Trường Vệ sinh và Y học Nhiệt đới London, Vương quốc Anh; 7 Bộ môn Nghiên cứu Song sinh và Dịch tễ học Di truyền, King’s College London, London, Vương quốc Anh; 8 Đơn vị Nghiên cứu Mahidol-Oxford, Khoa Y học Nhiệt đới, Đại học Mahidol, Bangkok, Thái Lan và 9 Viện Wellcome Trust Sanger, Hinxton, Vương quốc Anh. NGHIÊN CỨU 4 THỜI SỰ Y HỌC 12/2012 - Số 71 Bảng 1. Thu thập mẫu các trường hợp sốt rét nặng và đối chứng Năm chọn mẫu Mô tả nghiên cứu Địa điểm Số mẫu Sốt rét nặng 1991–1995 1996–2001 2000–2005 2005-đến nay Thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng(40) Thử nghiệm ngẫu nhiên đối chứng(39) Nghiên cứu dịch tễ học Sưu tập MalariaGEN BVBNĐ, TP.HCM BVBNĐ, TP.HCM BVBNĐ, TP.HCM Bệnh viện huyện Đồng Xoài và Phước Long, tỉnh Bình Phước BVBNĐ, TP.HCM 420 249 300 132 Đối chứng 2000–2005 2000–2005 2003–2006 200 ... biệt có ý nghĩa khi biến thể gây ra sự kết hợp với bệnh không được biết rõ nhưng lại xác định được kiểu gen của các dấu ấn đại diện. Đây có thể là trường hợp xảy ra với nghiên cứu của chúng tôi vì các biến thể nguyên nhân có thể nằm xuôi dòng cách phía dưới TNF và LTA một quãng.(25,26) Interleukin 1 (IL1) hiện hữu dưới hai dạng, IL1a và IL1b, và cả hai đều có vai trò vượt trội trong đáp ứng pha cấp bằng cách gây biểu hiện nhiều cytokin và phân tử trợ viêm, dẫn đến hoạt hóa tế bào T và bạch cầu đơn nhân và gia tăng các phân tử dính. Các biến thể ở vùng gen này còn liên quan với nhiều bệnh khác nhau(27–30) và đặc biệt là sốt rét.(31,32) Walley và cộng sự(31) chỉ báo cáo sự liên quan giữa IL1A+4845 G-T (rs17561) và sốt rét nhẹ. Trên người Việt Nam, rs17561 liên quan với sốt rét nặng, một biến thể làm thay đổi acid amin không bảo toàn (Ala 114 Ser) của protein IL1 . Những sự khác biệt trong định nghĩa ca bệnh và nhân khẩu học của các quần thể bệnh nhân sốt rét có thể giải thích vì sao rs17561 liên quan với sốt rét nhẹ ở Gambia và sốt rét nặng ở Việt Nam. Tại Việt Nam, một khu vực có mức truyền bệnh thấp, sốt rét thường là bệnh của người trưởng thành không có miễn dịch, trái ngược với những khu vực truyền bệnh cao ở châu Phi, nơi mà sốt rét thường là bệnh của trẻ em. Để phân tích, chúng tôi đã xếp chung các kiểu hình lâm sàng khác nhau là sốt rét nặng, cho dù nguyên nhân di truyền tiềm ẩn đàng sau mỗi kiểu hình có thể khác nhau. Cu thể, sốt rét thể não có thể có một yếu tố quyết định di truyền khác với sốt rét thể xuất huyết. Khi giới hạn phân tích chỉ trên bệnh nhân sốt rét thể não (điểm hôn mê Glasgow [GCS] <9), chúng tôi nhận thấy một sự kết hợp kiểu gen giữa khởi phát sốt rét thể não với rs17561 (IL1A; P=0,039; không trình bày số liệu). Tính đa hình ở gen TLR4, rs4986790, cũng có sự liên quan với khởi phát sốt rét thể não (rs4986790, P=0,044, OR=2,85 (KTCC 95%: 1,4–7,17)); tuy nhiên, cả hai sự liên quan với sốt rét thể não đểu không có ý nghĩa sau khi hiệu chỉnh Bonferroni. IL17A và IL17F là các cytokin trợ viêm được tế bào Th17 biểu hiện, một loại tế bào T trợ thủ CD4+ độc đáo vốn thúc đẩy cơ chế phản ứng bẩm sinh của hiện tượng viêm.(33) Phức hợp thụ thể IL17 hợp bởi IL17RA và IL17RC là cốt lõi của hoạt tính sinh học của IL17,(34) và phức hợp này gây hoạt hóa các đường phát tín hiệu NF-B và MAPK. Sự điều hòa thích hợp của trục phát tín hiệu IL17 giữ vai trò không thể thiếu trong sự tự vệ của vật chủ chống vi khuẩn ngoại bào và nấm; tuy vậy, có ít bằng chứng về vai trò của nó trong trong sự tự vệ chống sinh vật đơn bào.(33,35) Trước đây, rs708567 trong IL17RC có sự liên quan với hai phân nhóm bệnh nhân sốt rét trong một thuần tập dịch tễ học đa dạng về mặt chủng tộc ở Sudan,(36) và dựa trên dữ liệu khả dụng về rs708567, Fumagalli và cộng sự(37) đã xác định rằng IL17RC, cùng với 44 gen IL khác, là đích của sự chọn lọc do tác nhân gây bệnh điều khiển. Đối với người Việt Nam, kiểu hình GG của rs708567 khiến bệnh nhân giảm được 22% khả năng bị sốt rét nặng và đem lại 42% sự bảo vệ tránh tử vong nếu bị sốt rét nặng. Đáng lưu ý là các đồng hợp tử GG (Ser 111 Leu), vốn phổ biến nhất trên người Việt Nam, có tải lượng KST thấp hơn bệnh nhân AA hoặc AG. Mang allen A của rs708567 là bất lợi về mặt sốt rét; tuy nhiên, chưa thể xác định liệu điều này là do sự can nhiễu trong trục phát tín hiệu IL17 hay là do một chức năng riêng của IL17RC. Việc sử dụng cách tiếp cận cả bộ gen (genome- wide approach, GWA) để nhận diện các gen bệnh trên mô hình người với những điều kiện nhiễm khuẩn tự nhiên có thể có tiềm năng phát hiện các gen mã hóa những đáp ứng miễn dịch bảo vệ quan trọng hiện còn chưa biết. Vì vậy, các nghiên cứu GWA là bước quyết định trong việc xác định sự góp phần của tất cả các gen đã biết và chưa biết có dính líu một cách không thiên lệch. Chúng tôi đang chuẩn bị một nghiên cứu GWA về sốt rét nặng trên người Kinh bằng cách sử dụng những thuần tập bệnh nhân và người đối chứng được đưa vào MalariaGEN consortium, tổ chức đã công bố một nghiên cứu GWA về sốt rét nặng trên người Gambia.(38) Một tổng phân tích gồm nhiều nghiên cứu GWA từ những quần thể đa dạng về chủng tộc sẽ có khả năng nhận diện tất cả những cơ chế góp phần cần thiết cho miễn dịch bảo vệ chống sốt rét. Cảm tạ Chúng tôi xin cảm ơn tất cả những ai đã đồng ý cung cấp mẫu thử cho nghiên cứu này. Xin cảm ơn đội ngũ cán bộ lâm sàng của Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới TP. HCM, Bệnh viện huyện Phước Long và Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước, những người đã chẩn đoán và khảo sát bệnh nhân nặng lúc ban đầu. Xin cảm ơn BS Nguyễn Thị Hiếu và cộng sự ở Bệnh viện Hùng Vương về việc thu thập máu cuống rốn đối chứng. Xin cảm ơn sự trợ giúp của Susana Campino, Rachel Craik, Kate Rowlands, Angie Green và Christina Hubbart của trung tâm nguồn lực MalariaGEN trong việc xử lý DNA và xác định kiểu gen. Chúng tôi chân thành cảm ơn sự đóng góp của HĐĐĐ MalariaGEN (Đại học Oxford, Vương quốc Anh), đặc biệt là Jantina de Vries. NGHIÊN CỨU 10 THỜI SỰ Y HỌC 12/2012 - Số 71 Các hoạt động lâm sàng trong nghiên cứu này được tài trợ thông qua Wellcome Trust Major Overseas Program tại Việt Nam (089276/Z/ 09/Z). Dự án MalariaGEN được sự hỗ trợ của Wellcome Trust (WT077383/Z/05/ Z) và Quỹ Bill & Melinda Gates thông qua Viện Y tế Quốc gia (trợ cấp số 566) như một của Chương trình Những Thách Thức Lớn trong Y tế Toàn cầu. Nghiên cứu này cũng được sự hỗ trợ của Hội đồng Nghiên cứu Y học (G0600718; G0600230). Dominic Kwiatkowski nhận sự hỗ trợ từ Hội đồng Nghiên cứu Y học (G19/9). Tài liệu tham khảo 1 World Health Organisation WH. World Malaria Report 2009. WHO: Geneva, 2009. 2 National Institute of Malariology Preventation and Epidemiology. Annual Report of Malaria and Parasite Prevention in 2010. National Institute of Malariology Preventation and Epidemiology: Hanoi, Vietnam, 2010. 3 Barat LM. Four malaria success stories: how malaria burden was successfully reduced in Brazil, Eritrea, India, and Vietnam. Am J Trop Med Hyg 2006; 74: 12–16. 4 Hung Le Q, Vries PJ, Giao PT, Nam NV, Binh TQ, Chong MT và cs. Control of malaria: a successful experience from Viet Nam. Bull World Health Organ 2002; 80: 660–666. 5 Erhart A, Thang ND, Xa NX, Thieu NQ, Hung LX, Hung NQ và cs. Accuracy of the health information system on malaria surveillance in Vietnam. Trans R Soc Trop Med Hyg 2007; 101: 216–225. 6 Trung HD, Van Bortel W, Sochantha T, Keokenchanh K, Quang NT, Cong LD và cs. Malaria transmission and major malaria vectors in different geographical areas of Southeast Asia. Trop Med Int Health 2004; 9: 230–237. 7 Dondorp AM, Nosten F, Yi P, Das D, Phyo AP, Tarning J và cs. Artemisinin resistance in Plasmodium falciparum malaria. N Engl J Med 2009; 361: 455–467. 8 Bejon P, Lusingu J, Olotu A, Leach A, Lievens M, Vekemans J và cs. Efficacy of RTS,S/AS01E vaccine against malaria in children 5 to 17 months of age. NenglJ Med 2008; 359: 2521–2532. 9 Abdulla S, Oberholzer R, Juma O, Kubhoja S, Machera F, Membi C và cs. Safety and immunogenicity of RTS,S/AS02D malaria vaccine in infants. N Engl J Med 2008; 359: 2533–2544. 10 Webster DP, Dunachie S, Vuola JM, Berthoud T, Keating S, Laidlaw SM và cs. Enhanced T cell-mediated protection against malaria in human challenges by using the recombinant poxviruses FP9 and modified vaccinia virus Ankara. Proc Natl Acad Sci USA 2005; 102: 4836–4841. 11 Dunachie SJ, Walther M, Epstein JE, Keating S, Berthoud T, Andrews L và cs. A DNA prime-modified vaccinia virus ankara boost vaccine encoding thrombospondin- related adhesion protein but not circumsporozoite protein partially protects healthy malaria-naive adults against Plasmodium falciparum sporozoite challenge. Infect Immun 2006; 74: 5933–5942. 12 Goodman AL, Draper SJ. Blood-stage malaria vaccines—recent progress and future challenges. Ann Trop Med Parasitol 2010; 104: 189–211. 13 MalariaGEN Network. A global network for investigating the genomic epidemiology of malaria. Nature 2008; 456: 732–737. 14 Taylor TE, Fu WJ, Carr RA, Whitten RO, Mueller JS, Fosiko NG và cs. Differentiating the pathologies of cerebral malaria by postmortem parasite counts. Nat Med 2004; 10: 143–145. 15 Fernandez-Reyes D, Craig AG, Kyes SA, Peshu N, Snow RW, Berendt AR và cs. A high frequency African coding poly-morphism in the N-terminal domain of ICAM-1 predisposing to cerebral malaria in Kenya. Hum Mol Genet 1997; 6: 1357–1360 16 Kun JF, Klabunde J, Lell B, Luckner D, Alpers M, May J và cs. Association of the ICAM-1Kilifi mutation with protection against severe malaria in Lambarene, Gabon. Am J Trop Med Hyg 1999; 61: 776– 779. 17 Bellamy R, Kwiatkowski D, Hill AV. Absence of an association between intercellular adhesion molecule 1, complement receptor 1 and interleukin 1 receptor antagonist gene poly-morphisms and severe malaria in a West African population. Trans R Soc Trop Med Hyg 1998; 92: 312–316. 18 Ndiaye R, Sakuntabhai A, Casademont I, Rogier C, Tall A, Trape JF và cs. Genetic study of ICAM1 in clinical malaria in Senegal. Tissue Antigens 2005; 65: 474–480. 19 Ohashi J, Naka I, Patarapotikul J, Hananantachai H, Looareesuwan S, Tokunaga K. Absence of association between the allele coding methionine at position 29 in the N-terminal domain of ICAM-1 (ICAM- 1(Kilifi)) and severe malaria in the northwest of Thailand. Jpn J Infect Dis 2001; 54: 114–116. 20 Fry AE, Auburn S, Diakite M, Green A, Richardson A, Wilson J và cs. Variation in the ICAM1 gene is not associated with severe malaria phenotypes. Genes Immun 2008; 9: 462–469. 21 Amodu OK, Gbadegesin RA, Ralph SA, Adeyemo AA, Brenchley PE, Ayoola OO và cs. Plasmodium falciparum malaria in south-west Nigerian children: is the polymorphism of ICAM-1 and E-selectin genes contributing to the clinical severity of malaria? Acta Trop 2005; 95: 248–255. 22 Sinha S, Qidwai T, Kanchan K, Anand P, Jha GN, Pati SS và cs. Variations in host genes encoding adhesion molecules and susceptibility to falciparum malaria in India. Malar J 2008; 7: 250. 23 McGuire W, Hill AV, Allsopp CE, Greenwood BM, Kwiatkowski D. Variation in the TNF-alpha promoter region associated with susceptibility to cerebral malaria. Nature 1994; 371: 508–510. 24 Clark TG, Diakite M, Auburn S, Campino S, Fry AE, Green A và cs. Tumor necrosis factor and lymphotoxin-alpha poly-morphisms and severe malaria in African populations. J Infect Dis 2009; 199: 569– 575. 25 Ackerman HC, Ribas G, Jallow M, Mott R, Neville M, Sisay-Joof F và cs. Complex haplotypic structure of the central MHC region flanking TNF in a West African population. Genes Immun 2003; 4: 476–486. 26 Newton JL, Harney SM, Timms AE, Sims AM, Rockett K, Darke C và cs. Dissection of class III major histocompatibility complex haplotypes associated with rheumatoid arthritis. Arthritis Rheum 2004; 50: 2122– 2129. 27 Mfuna EL, Cormier C, Bosse Y, Filali-Mouhim A, Desrosiers M. Association of IL1A, IL1B, and TNF gene polymorphisms with chronic rhinosinusitis with and without nasal polyposis: a replication study. Arch Otolaryngol Head Neck Surg 136: 187–192. 28 Karjalainen J, Hulkkonen J, Pessi T, Huhtala H, Nieminen MM, Aromaa A và cs. The IL1A genotype associates with atopy in nonasthmatic adults. J Allergy Clin Immunol 2002; 110: 429–434. 29 Sims AM, Timms AE, Bruges-Armas J, Burgos-Vargas R, Chou CT, Doan T và cs. Prospective meta-analysis of interleukin 1 gene complex polymorphisms confirms associations with ankylosing spondylitis. Ann Rheum Dis 2008; 67 1305–1309. 30 Han W, Kang SY, Kang D, Park SK, Lee JY, Kim H và cs. Multiplex genotyping of 1107 SNPs from 232 candidate genes identified an association between IL1A polymorphism and breast cancer risk. Oncol Rep 23: 763–769 31 Walley AJ, Aucan C, Kwiatkowski D, Hill AV. Interleukin-1 gene cluster polymorphisms and susceptibility to clinical malaria in a Gambian case-control study. Eur J Hum Genet 2004; 12: 132–138. 32 Gyan B, Goka B, Cvetkovic JT, Perlmann H, Lefvert AK, Akanmori B và cs. Polymorphisms in interleukin-1beta and interleukin-1 receptor antagonist genes and malaria in Ghanaian children. Scand J Immunol 2002; 56: 619–622. 33 Ho AW, Gaffen SL. IL-17RC: a partner in IL-17 signaling and beyond. Semin Immunopathol 2010; 32: 33–42. 34 Toy D, Kugler D, Wolfson M, Vanden Bos T, Gurgel J, Derry J và cs. Cutting edge:interleukin 17 signals through a heteromeric receptor complex. J Immunol 2006; 177:36–39. 35 van de Veerdonk FL, Gresnigt MS, Kullberg BJ, van der Meer JW, Joosten LA, Netea MG. Th17 responses and host defense against microorganisms: an overview. BMB Rep 2009; 42: 776–787. 36 Eid NA, Hussein AA, Elzein AM, Mohamed HS, Rockett KA, Kwiatkowski DP và cs. Candidate malaria susceptibility/ protective SNPs in hospital and population-based studies: the effect of sub- structuring. Malar J 9:119. 37 Fumagalli M, Pozzoli U, Cagliani R, Comi GP, Riva S, Clerici M và cs. Parasites represent a major selective force for interleukin genes and shape the genetic predisposition to autoimmune conditions. J Exp Med 2009; 206: 1395–1408. 38 Jallow M, Teo YY, Small KS, Rockett KA, Deloukas P, Clark TG và cs. Genome-wide and fine-resolution association analysis of malaria in West Africa. Nat Genet 2009; 41: 657–665. 39 Phu NH, Tuan PQ, Day N, Mai NT, Chau TT, Chuong LV và cs. Randomized controlled trial of artesunate or artemether in Vietnamese adults with severe falciparum malaria. Malar J 9: 97. 40 Tran TH, Day NP, Nguyen HP, Nguyen TH, Tran TH, Pham PL và cs. A controlled trial of artemether or quinine in Vietnamese adults with severe falciparum malaria. N Engl J Med 1996; 335: 76–83.
File đính kèm:
- su_bien_thien_cua_gen_ma_hoa_cac_phan_tu_dinh_va_tro_viem_co.pdf