Rèn luyện kĩ năng ứng phó với stress cho sinh viên ngành sư phạm mầm non trường cao đẳng sư phạm Nghệ An

Theo các nghiên cứu và thực tiễn gần đây cho thấy,

giáo viên nói chung và giáo viên mầm non (GVMN) nói

riêng thuộc nhóm nghề có nguy cơ stress cao, mức độ

stress diễn ra ở GVMN khá phổ biến. Sự thay đổi nhanh

chóng của xã hội về kinh tế, văn hóa, xã hội và lối sống

đã làm nảy sinh nhiều vấn đề mà trước đây GVMN chưa

gặp, chưa phải ứng phó. Do đó, GVMN thường hành

động theo cảm tính và có thể sẽ gặp rủi ro. Chính vì thế,

GVMN trong xã hội ngày nay cần có kĩ năng ứng phó

(KNƯP) để sống tốt và làm tốt nhiệm vụ nghề nghiệp.

Mặt khác, trong xã hội hiện đại, tâm lí của trẻ em

cũng mang đặc trưng của xã hội. Điều này có nghĩa là,

GVMN phải đối mặt với nhiều vấn đề trong chăm sóc và

giáo dục trẻ. Bên cạnh đó, hoạt động giảng dạy của

GVMN có những đặc thù riêng về đối tượng, nội dung,

thời gian giảng dạy và các đặc điểm khác đã tác động và

trở thành những tác nhân gây stress cho GVMN. Thực tế

cho thấy, nhiều GVMN có thời gian làm việc không phải

8 tiếng mà lên tới 10 tiếng mỗi ngày; phải làm việc với

trách nhiệm cao để đảm bảo an toàn tính mạng của hàng

chục trẻ, đảm bảo cho trẻ ngoan, ăn hết suất, ngủ ngon

đủ giấc, hứng thú, tích cực tìm tòi khám phá để phát triển

1 cách toàn diện,. Với áp lực công việc như vậy, stress

rất có thể xuất hiện ở họ. Vì vậy, để yêu thích và làm tốt

công việc của mình, bản thân GVMN phải có khả năng

ứng phó với những khó khăn, yêu cầu cao của công việc,

của cuộc sống. Vì vậy, KNƯP với stress được xem là kĩ

năng (KN) cần thiết của mỗi GVMN

Rèn luyện kĩ năng ứng phó với stress cho sinh viên ngành sư phạm mầm non trường cao đẳng sư phạm Nghệ An trang 1

Trang 1

Rèn luyện kĩ năng ứng phó với stress cho sinh viên ngành sư phạm mầm non trường cao đẳng sư phạm Nghệ An trang 2

Trang 2

Rèn luyện kĩ năng ứng phó với stress cho sinh viên ngành sư phạm mầm non trường cao đẳng sư phạm Nghệ An trang 3

Trang 3

Rèn luyện kĩ năng ứng phó với stress cho sinh viên ngành sư phạm mầm non trường cao đẳng sư phạm Nghệ An trang 4

Trang 4

Rèn luyện kĩ năng ứng phó với stress cho sinh viên ngành sư phạm mầm non trường cao đẳng sư phạm Nghệ An trang 5

Trang 5

pdf 5 trang minhkhanh 4180
Bạn đang xem tài liệu "Rèn luyện kĩ năng ứng phó với stress cho sinh viên ngành sư phạm mầm non trường cao đẳng sư phạm Nghệ An", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Rèn luyện kĩ năng ứng phó với stress cho sinh viên ngành sư phạm mầm non trường cao đẳng sư phạm Nghệ An

Rèn luyện kĩ năng ứng phó với stress cho sinh viên ngành sư phạm mầm non trường cao đẳng sư phạm Nghệ An
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 435 (Kì 1 - 8/2018), tr 24-27; 59 
24 
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG ỨNG PHÓ VỚI STRESS 
CHO SINH VIÊN NGÀNH SƯ PHẠM MẦM NON 
TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM NGHỆ AN 
Nguyễn Thị Cẩm Tú - Trường Cao đẳng Sư phạm Nghệ An 
Ngày nhận bài: 05/06/2018; ngày sửa chữa: 08/06/2018; ngày duyệt đăng: 04/07/2018. 
Abstract: The paper analyzes the groups of skills needed to cope with the stress of early childhood 
teachers. Also, the article proposes some measures to practice students majoring in preschool 
education at Nghe An College of Education to cope with stress and balance psychological changes 
in their life and job, bringing high efficiency in children care and education. 
Keywords: Stress, coping skills, preschool teachers, preschool students. 
1. Mở bài 
Theo các nghiên cứu và thực tiễn gần đây cho thấy, 
giáo viên nói chung và giáo viên mầm non (GVMN) nói 
riêng thuộc nhóm nghề có nguy cơ stress cao, mức độ 
stress diễn ra ở GVMN khá phổ biến. Sự thay đổi nhanh 
chóng của xã hội về kinh tế, văn hóa, xã hội và lối sống 
đã làm nảy sinh nhiều vấn đề mà trước đây GVMN chưa 
gặp, chưa phải ứng phó. Do đó, GVMN thường hành 
động theo cảm tính và có thể sẽ gặp rủi ro. Chính vì thế, 
GVMN trong xã hội ngày nay cần có kĩ năng ứng phó 
(KNƯP) để sống tốt và làm tốt nhiệm vụ nghề nghiệp. 
Mặt khác, trong xã hội hiện đại, tâm lí của trẻ em 
cũng mang đặc trưng của xã hội. Điều này có nghĩa là, 
GVMN phải đối mặt với nhiều vấn đề trong chăm sóc và 
giáo dục trẻ. Bên cạnh đó, hoạt động giảng dạy của 
GVMN có những đặc thù riêng về đối tượng, nội dung, 
thời gian giảng dạy và các đặc điểm khác đã tác động và 
trở thành những tác nhân gây stress cho GVMN. Thực tế 
cho thấy, nhiều GVMN có thời gian làm việc không phải 
8 tiếng mà lên tới 10 tiếng mỗi ngày; phải làm việc với 
trách nhiệm cao để đảm bảo an toàn tính mạng của hàng 
chục trẻ, đảm bảo cho trẻ ngoan, ăn hết suất, ngủ ngon 
đủ giấc, hứng thú, tích cực tìm tòi khám phá để phát triển 
1 cách toàn diện,... Với áp lực công việc như vậy, stress 
rất có thể xuất hiện ở họ. Vì vậy, để yêu thích và làm tốt 
công việc của mình, bản thân GVMN phải có khả năng 
ứng phó với những khó khăn, yêu cầu cao của công việc, 
của cuộc sống. Vì vậy, KNƯP với stress được xem là kĩ 
năng (KN) cần thiết của mỗi GVMN. 
Sinh viên (SV) sư phạm mầm non (SPMN) sẽ trở 
thành GVMN trong tương lai, sẽ là những người chăm 
sóc, giáo dục cho các “mầm xanh” của đất nước, việc giáo 
dục, hình thành và rèn luyện KNƯP cho họ là rất cần thiết 
để giúp họ có được tâm lí ổn định, nhanh nhẹn, khéo léo, 
biết cách nhìn nhận và giải quyết vấn đề một cách tốt nhất 
trong công việc chuyên môn sau khi ra trường. 
Bài viết phân tích các nhóm kĩ năng cần thiết để ứng 
phó với stress của giáo viên mầm non và biện pháp rèn 
luyện kĩ năng ứng phó với stress cho SV SPMN, để họ đạt 
được cân bằng tâm lí trong cuộc sống và nghề nghiệp, đem 
lại hiệu quả cao trong công việc chăm sóc, giáo dục trẻ. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Các khái niệm cơ bản về kĩ năng, stress, kĩ năng 
ứng phó với stress 
- Khái niệm “kĩ năng” (KN). Tuy có nhiều định 
nghĩa về KN nhưng các tác giả đều có chung một quan 
niệm, đó là gắn KN với hoạt động của cá nhân. Nó là 
phương thức hành động phù hợp với điều kiện, yêu cầu 
của hoạt động và giúp mang lại hiệu quả của hoạt động. 
Từ đó, có thể hiểu: KN là sự vận dụng tri thức, kinh 
nghiệm vào các thao tác gắn với điều kiện thực tiễn của 
hoạt động cụ thể nhằm thực hiện hiệu quả hoạt động đó. 
Khái niệm ứng phó xuất phát từ tiếng Anh “cope” có 
nghĩa là ứng phó, đương đầu, đối mặt, thường là trong 
những tình huống bất thường, những tình huống khó khăn 
và stress. Ứng phó là hành động tích cực của chủ thể, bao 
gồm cả hành động bên ngoài lẫn tâm lí bên trong nhằm 
giải quyết và giảm được mức độ ảnh hưởng xấu của những 
tình huống gây mệt mỏi, căng thẳng hoặc những tình 
huống vượt quá khả năng của cá nhân [1; tr 26]. 
- Khái niệm “stress”. Theo tiếng Latinh, stress được 
bắt nguồn từ “Strictus” và một phần của từ “string-ere” có 
nghĩa là căng thẳng, nghịch cảnh, bất hạnh, đè nén. Trong 
tiếng Anh, “stress” có nghĩa là nhấn mạnh. Thuật ngữ này 
được dùng trong vật lí học để chỉ sức nén mà vật liệu phải 
chịu. Năm 1914, W.B. Cannon sử dụng trong sinh học với 
ý nghĩa là căng thẳng cảm xúc. Dưới góc độ tâm lí học, 
stress là trạng thái căng thẳng về mặt tâm lí được biểu 
hiện ở mặt tâm thể, nhận thức, cảm xúc và hành vi của con 
người khi họ đối mặt với những sự kiện mà họ nhận thấy 
vượt quá khả năng ứng phó bình thường của mình trong 
hoạt động cũng như trong cuộc sống [2; tr 76]. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 435 (Kì 1 - 8/2018), tr 24-27; 59 
25 
Khái niệm “KNƯP với stress”. Từ việc tổng hợp các 
khái niệm về KN, ứng phó, stress, KNƯP, chúng tôi cho 
rằng, KNƯP với stress là sự vận dụng tri thức, kinh 
nghiệm vào các thao tác gắn với điều kiện thực tiễn của 
hoạt động bằng cách nhận thức những việc gây ra stress 
và biểu hiện của stress, xác định điều kiện khả thi (các 
phương án đối phó) và thực hiện những phương án nhằm 
giải quyết, giảm bớt, tác động xấu của stress xuất hiện 
trong quá trình sống và hoạt động. 
Khi gặp stress trong cuộc sống cũng như trong công 
việc, GVMN cần tìm cách vượt qua stress để có thể lấy 
lại được sự cân bằng và làm việc đạt hiệu quả. Khi đó, họ 
cần nỗ lực nhận diện stress trong cuộc sống của mình, tại 
sao mình bị stress, phải đối diện với stress như thế nào và 
cần hành động ra sao để vượt qua stress - đó chính là 
KNƯP với stress [1; tr 28]. 
2.2. Các nhóm kĩ năng ứng phó với stress của giáo viên 
mầm non 
Việc xác định các nhóm KN thành phần của KNƯP 
với stress dựa vào đặc điểm stress trong hoạt động sống 
của GVMN, quá trình kiểm soát stress tiến tới giải quyết 
vấn đề. 
2.2.1. Nhóm kĩ năng nhận thức vấn đề gây stress và biểu 
hiện của stress 
Hai KN này là cơ sở xác định các phương án ứng phó 
và giải quyết, giảm bớt stress. 
 ... việc và nghỉ ngơi, thư 
giãn; + Tranh thủ ý kiến của người khác khi lập kế 
hoạch;... Nếu GVMN có KN quản lí thời gian, họ sẽ có 
xu hướng kiểm soát được phần lớn stress [1]. 
2.3. Rèn luyện kĩ năng ứng phó với stress cho sinh viên 
sư phạm mầm non 
2.3.1. Vai trò của kĩ năng ứng phó với stress đối với sinh 
viên sư phạm mầm non 
Trong quá trình học tập, ngoài việc được tiếp thu hệ 
thống tri thức cơ bản, chuyên ngành, SV SPMN, còn 
được học những kiến thức mang tính nghiệp vụ về công 
tác giáo dục trẻ mầm non. Đặc thù nghề nghiệp đã đặt ra 
những yêu cầu cao đối với GVMN, đòi hỏi họ không 
những giỏi về chuyên môn mà còn cần có lối sống, hành 
vi mô phạm, đạo đức trong sáng, lòng yêu nghề, yêu trẻ 
sâu sắc. Có KNƯP giúp SV mầm non có khả năng nhận 
thức được các vấn đề có thể gây stress trong quá trình 
hoạt động nghề nghiệp, nhận thức được biểu hiện của 
stress, giúp họ có tâm lí tốt quá trình học tập, đồng thời 
biết hành động một cách phù hợp trong mọi hoàn cảnh, 
mọi tình huống. Những SV có KNƯP tốt sẽ có những 
hành vi, những phản ứng, cử chỉ đúng đắn, những quyết 
định phù hợp với từng điều kiện, hoàn cảnh, biết kiềm 
chế cảm xúc và có những xử lí phù hợp với tình huống 
của cuộc sống. 
Có thể nói, thông qua các hoạt động học tập, rèn 
luyện nghiệp vụ sư phạm, với vai trò là GVMN tương 
lai, KNƯP là yếu tố giúp mỗi SV SPMN: - Tiếp cận hoạt 
động nghề nghiệp một cách dễ dàng; - Điều hòa hoạt 
động thần kinh của bản thân, giữ gìn sức khỏe tinh thần 
và thể lực, dễ dàng vượt qua được các áp lực, căng thẳng 
để luôn tìm được niềm vui, tình thương trong công việc 
với trẻ nhỏ, cởi mở trong cuộc sống; - Hiểu cảm xúc của 
chính mình và của người khác để có thể kiểm soát cảm 
xúc, từ đó điều hòa, tạo dựng được các mối quan hệ xã 
hội tích cực, mang lại hiệu quả cao trong chăm sóc, giáo 
dục trẻ, công tác xã hội hóa giáo dục. 
2.3.2. Rèn luyện kĩ năng ứng phó cho sinh viên sư phạm 
mầm non 
- SV cần tự bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về KNƯP 
cho bản thân. Các giảng viên cần định hướng để mỗi SV 
xác định đúng đắn động cơ, mục tiêu học tập chuyên 
ngành SPMN; định hướng để các em có ý thức tự tìm 
hiểu và nắm bắt các thông tin về ngành học ngoài các bài 
giảng trên lớp. SV cần tự trau dồi phong cách sư phạm 
cho bản thân: thể hiện sự tôn trọng với thầy, cô giáo; tích 
cực học tập, nâng cao kiến thức, rèn luyện KN nghiệp vụ 
cho bản thân; luôn hòa đồng, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè, 
có thái độ vui vẻ, cởi mở với những người xung quanh 
mình; SV SPMN phải tự nhận thức được đặc thù nghề 
nghiệp mà mình lựa chọn, từ đó có ý thức bồi dưỡng 
KNƯP cho bản thân trong quá trình học tập, đặc biệt là 
trong quá trình kiến tập, thực tập, tạo được môi trường 
tương tác với trẻ để luôn cải thiện được tình trạng cảm 
xúc cùng mối quan hệ của trẻ. 
- Áp dụng một số phương thức rèn luyện KNƯP trong 
quá trình học tập các bộ môn về Tâm lí - Giáo dục, 
phương pháp và trong quá trình tham gia rèn luyện 
nghiệp vụ sư phạm thường xuyên: 
+ Nhanh chóng giảm áp lực, giải tỏa căng thẳng. 
Giảng viên có thể hướng dẫn SV nghiên cứu tài liệu và 
tìm hiểu về đặc điểm tâm, sinh lí của trẻ mầm non, học 
cách nhận biết những biểu hiện của sự căng thẳng, phân 
loại các phản ứng của bản thân khi tiếp cận với trẻ (cáu 
giận, chán nản, buồn phiền, lạnh nhạt,...) để chọn lựa 
những hành động khắc phục phù hợp (giữ điềm tĩnh, làm 
dịu hay khích lệ,...). 
+ Luôn tạo mối liên hệ với cảm xúc và tìm ảnh hưởng 
của nó đến suy nghĩ và hành động của mình. Trong quá 
trình cùng một lúc tiếp xúc nhiều trẻ trong 1 lớp khiến 
giáo viên luôn gặp phải những trạng thái cảm xúc rất 
khác nhau cho dù không mong muốn. Hãy theo dõi, đối 
mặt với những trạng thái cảm xúc đó và tìm cách điều 
chỉnh chúng một cách linh hoạt. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 435 (Kì 1 - 8/2018), tr 24-27; 59 
27 
+ Tăng cường các hình thức giao tiếp “không lời 
nói” trong quá trình tiếp xúc trực tiếp với trẻ. Để thu hút 
sự chú ý của trẻ nhỏ, đáp ứng nhu cầu giao tiếp của trẻ, 
SV cần tích cực sử dụng phương thức truyền thông, 
truyền cảm bằng ngôn ngữ cơ thể (ánh mắt, nụ cười, điệu 
bộ, thao tác, dáng điệu,...); bao quát trẻ, thường xuyên 
“đọc” và “trả lời” những “tin nhắn” bằng tín hiệu cơ thể 
của trẻ một cách hiệu quả. 
+ Sử dụng sự hài hước, nghệ thuật, trò chơi. Đây là 
cách thức có thể tự “giải độc”, vượt qua những khó khăn 
trong công việc. Tiếng cười sảng khoái, vẻ mặt rạng rỡ, 
bầu không khí cởi mở, vui vẻ là những “liều thuốc bổ” quý 
giá cho tinh thần, tình cảm của cô và trẻ, từ đó có thể nâng 
cao hiệu quả các hoạt động. Giảng viên có thể áp dụng 
cách thức này trong giờ giảng hoặc cho SV thực hành ngay 
trên lớp, trong các giờ rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. 
- Một số hoạt động giúp SV mầm non Trường CĐSP 
Nghệ An tăng cường, phát triển KNƯP 
Vào mỗi học kì, SV đều được kiến tập, đặc biệt là đợt 
thực tập sư phạm. Để tăng cường, phát triển KNƯP, cần 
yêu cầu SV: 
+ Lập kế hoạch hoạt động, học tập. Trong quá trình 
rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, cần hướng dẫn và yêu cầu 
SV tự xây dựng kế hoạch hoạt động và học tập của bản 
thân, từ đó giúp các em biết cách sắp xếp thời gian hợp lí 
để đưa ra các hoạt động phù hợp để đạt hiệu quả tối đa 
trong công việc. Bên cạnh đó, hướng dẫn SV làm sổ nhật 
kí rèn luyện nghiệp vụ sư phạm để các em có thể tích lũy 
được các kinh nghiệm cho bản thân trong quá trình rèn 
luyện năng lực sư phạm nói chung, KNƯP nói riêng. 
+ Quan sát các tình huống ở trường mầm non, cách 
xử lí các công việc và các tình huống xảy ra. Xây dựng 
hệ thống các tình huống sư phạm có thể xảy ra trong hoạt 
động sư phạm ở trường mầm non và yêu cầu SV lên kế 
hoạch tập xử lí. Việc quan sát các tình huống xảy ra ở 
trường mầm non và cách xử lí của giáo viên giúp cho SV 
nắm được những nguyên nhân có thể gây ra stress, biểu 
hiện của chúng, và dựa trên hình mẫu là GVMN, SV có 
thể học tập, định hình được những tình huống xảy ra 
trong hoạt động sư phạm của bản thân sau này. Việc yêu 
cầu SV tập xử lí các tình huống một cách hệ thống từ đơn 
giản đến phức tạp nhằm mục đích nâng cao nhận thức và 
KNƯP với stress cho SV. 
+ Quan sát hoạt động và biểu hiện của trẻ. Quản lí 
cảm xúc bao gồm việc quan sát, tìm hiểu cách trẻ “quản lí, 
điều khiển cảm xúc của mình” để từ đó ứng phó với cuộc 
xung đột, tạo nên những mối thân tình giữa trẻ này với trẻ 
khác hoặc giữa trẻ với giáo viên. Nhóm SV trong lớp kiến, 
thực tập cần dành thời gian cùng phối hợp quan sát và ghi 
nhận tình trạng chung về xúc cảm, tình cảm và các mối 
quan hệ tình cảm của một nhóm trẻ, sau đó chọn cách quan 
sát cá nhân trẻ hoặc tình huống cụ thể bằng cách giải quyết 
các câu hỏi như: Cảm xúc của trẻ được thể hiện như thế 
nào? Trẻ có quan tâm đến các bạn trong lớp, trẻ có gặp vấn 
đề gì trong tình cảm không? Những vấn đề đó có ảnh 
hưởng đến hoạt động của trẻ? Cái gì có thể là hữu ích cho 
trẻ này? Làm thế nào để làm tăng hiệu quả học tập, vui 
chơi của trẻ? Cách thức giáo viên hay bạn bè hỗ trợ trẻ?... 
để thu thập thông tin và phân tích, rút kinh nghiệm. 
+ Tìm hiểu về những kiểu cách giao tiếp, nhận thức 
của trẻ em để so sánh, xác định phương thức giáo dục. 
Mỗi cá nhân trẻ có một kiểu hoạt động nhận thức riêng, 
ảnh hưởng rõ rệt đến sự phát triển trí thông minh về cảm 
xúc và kiểu giao tiếp của trẻ; vì thế, việc yêu cầu SV tìm 
hiểu về những kiểu cách giao tiếp, nhận thức của trẻ em 
để so sánh, xác định phương thức giáo dục là rất cần thiết. 
Ví dụ: nếu xét theo tính trội về cách tiếp thu và xử lí 
thông tin có ba loại trẻ: đối với trẻ trội về trực quan - 
không gian, nên tăng cường sử dụng nhiều hình ảnh trong 
lớp như tranh tường, sách, truyện tranh, ảnh, sơ đồ, biểu 
bảng,...; đối với trẻ trội về nghe - nói, nên tăng cường sử 
dụng băng đĩa, phương tiện âm thanh - hình ảnh, kể 
chuyện, sử dụng bài hát, thơ truyện,...; đối với trẻ trội về 
xúc giác - vận động cơ thể, nên sử dụng các bài tập biểu 
cảm “không dùng lời nói”, các trò chơi mô phỏng vận 
động, phối hợp hoạt động âm nhạc - vận động với sử 
dụng các trò chơi phân vai, đóng kịch,... 
+ Tạo môi trường thân thiện, an toàn về cảm xúc 
trong lớp học. Hướng dẫn SV biết tạo môi trường thân 
thiện, an toàn về cảm xúc trong lớp học, phát triển mối 
quan hệ gần gũi, tích cực giữa trẻ và cô giáo, luôn giúp 
trẻ thành công chính là chìa khóa để tạo ra một môi 
trường lớp học thân thiện, an toàn về tình cảm. 
Có thể thúc đẩy mối quan hệ tích cực với trẻ nhỏ bằng 
lòng cảm thông, yêu thương, sự chú ý lắng nghe và đáp 
ứng những nhu cầu về cảm xúc của trẻ; làm sao cho mọi 
trẻ đều cảm thấy mình được công nhận, bảo vệ, được học 
hỏi mà không sợ bị chế giễu hoặc sỉ nhục. 
Thường xuyên tổ chức các hoạt động “quần chúng”, 
mang tính nghệ thuật để cô và trẻ được “xả stress”, củng 
cố niềm tin, được tự do trong biểu cảm có sự tham gia 
của người lớn với tư cách là những tấm gương, hình mẫu. 
3. Kết luận 
Lí luận và thực tiễn giáo dục hiện nay cho thấy, 
KNƯP và việc sử dụng nhằm nâng cao năng lực sư phạm 
cũng như hiệu quả của quá trình dạy - học có vai trò quan 
trọng đối với GVMN. Vì vậy, SV SPMN không chỉ cần 
rèn luyện cho KNƯP cho bản thân mà còn phải biết tổ 
chức hình thành, bồi dưỡng KNƯP cho trẻ như một trong 
những nền tảng phát triển nhân cách. Chính vì nhiệm vụ 
(Xem tiếp trang 59) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 435 (Kì 1 - 8/2018), tr 54-59 
59 
hợp với bản thân, một số phần mềm được yêu thích như: 
Side By Side, EF Englishtown, 101 Languages Of The 
World, WordSmart, EyeSpeak English,... Hầu hết các 
phần mềm được cung cấp miễn phí, dung lượng vừa phải 
và rất dễ sử dụng với SV. Khi học tập trên các phần mềm 
này, SV không chỉ luyện tập kĩ năng nói, mà còn được 
nâng cao kĩ năng nghe, làm giàu thêm vốn từ vựng và 
luyện đọc, luyện viết. 
3. Kết luận 
Thực tiễn dạy học cho thấy, tất cả kĩ năng tiếng Anh 
nói chung và kĩ năng nói tiếng Anh nói riêng rất cần sự 
luyện tập thường xuyên và lâu dài mới đem lại kết quả cao 
cho người học. Không ai học ngoại ngữ mà không mắc lỗi, 
cho nên SV cần tự tin và kiên nhẫn giao tiếp thật nhiều 
trong lớp học và đặc biệt là bên ngoài lớp học, trong cuộc 
sống thực tế thì mới có thể nâng cao kĩ năng và năng lực 
ngoại ngữ cho bản thân. Thông qua quá trình rèn luyện, 
học tập đó, SV sẽ nâng cao năng lực ngoại ngữ, củng cố 
thêm từ vựng và tự điều chỉnh, sửa dần những lỗi sai cơ 
bản để hoàn thiện từng ngày kĩ năng nói tiếng Anh của 
mình. Quá trình rèn luyện này, cần được dẫn dắt, trợ giúp 
của giáo viên và phải được tiến hành thường xuyên và lâu 
dài, bởi vì kĩ năng nói tiếng Anh rất quan trọng và cần thiết 
không chỉ trong quá trình học tập của SV Trường ĐHCN 
TP. Hồ Chí Minh, mà còn giúp ích rất nhiều trong quá 
trình phỏng vấn xin việc và làm việc sau khi tốt nghiệp đại 
học. Tuy nhiên, thời gian luyện tập trên lớp học hạn chế là 
một trở ngại lớn với SV Trường ĐHCN TP. Hồ Chí Minh; 
do đó, tham gia rèn luyện bên ngoài lớp học thông qua các 
hoạt động thực tế rất hữu ích và cần thiết với SV. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Thủ tướng Chính phủ (2008). Quyết định số 
1400/QĐ-TTG ngày 30/9/2008 của Thủ tướng 
Chính phủ về việc phê duyệt đề án “Dạy và học 
ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai 
đoạn 2008-2020”. 
[2] Khamkhien A (2010). Teaching English speaking 
and English speaking tests in the Thai context: A 
reflection from Thai perspectives. English Language 
Journal, Vol. 3(1), pp. 184-200. 
[3] Bygate M. (1987). Speaking. Oxford University Press. 
[4] Celce-Murcia M - Olshtain E (2000). Discourse and 
context in language teaching. Cambridge: 
Cambridge University Press. 
[5] Juhana (2012). Psychological Factors That Hinder 
Students from Speaking in English Class (A Case 
Study in a Senior High School in South Tangerang, 
Banten, Indonesia). Journal of Education and 
Practice, Vol. 3, No. 12, pp. 100-110. 
[6] Thornbury - Scott (2000). How to Teach Speaking. 
New York: Longman. 
[7] Harmer, J. (1984). The Practice of English 
Language Teaching. London: Longman. 
[8] Skinner - Ch (1958). Essential Of Education 
Psychology. Prentice Hall Inc, Engelwood Cliffs, 
New York. 
[9] Brown - Douglas (2001). Teaching by Principles: 
An Interactive Approach to Language Pedagogy. 
New York: Longman. 
[10] Wongsuwana (2006). Speech could be trained. 
Thailand Education Journal, Vol. 21, pp. 44-50. 
RÈN LUYỆN KĨ NĂNG ỨNG PHÓ VỚI STRESS... 
(Tiếp theo trang 27) 
cao cả đó, mỗi SV SPMN muốn trở thành những giáo 
viên có KNƯP tốt thì ngay trong quá trình học tập ở 
trường sư phạm cần rèn luyện KNƯP cho bản thân một 
cách thường xuyên, nghiêm túc và có hiệu quả. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Đỗ Văn Đoạt (2012). Kĩ năng ứng phó với stress - 
một mặt quan trọng của nhân cách giáo viên mầm 
non. Kỉ yếu hội thảo “Mô hình nhân cách giáo viên 
mầm non trong thời kì hội nhập quốc tế”, Trường 
Đại học Sư phạm Hà Nội. 
[2] Trịnh Viết Then - Mai Thị Nguyệt Nga (2014). Ứng 
phó với stress của giáo viên mầm non trên địa bàn 
quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí 
Khoa học, Trường Đại học Văn hiến, số 05, tr 76-83. 
[3] Đỗ Văn Đoạt (2014). Kĩ năng ứng phó với stress 
trong hoạt động học tập theo tín chỉ của sinh viên 
trường đại học sư phạm. Luận án tiến sĩ Tâm lí học, 
Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam. 
[4] Đặng Phương Kiệt (1998). Stress và đời sống. NXB 
Khoa học xã hội. 
[5] Trần Thị Quốc Minh (1996). Phân tích tâm lí tình 
huống có vấn đề trong mối quan hệ giữa giáo viên 
và trẻ mẫu giáo. Luận án phó tiến sĩ Tâm lí chuyên 
ngành, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
[6] Phạm Thanh Hương (2006). Stress và sức khỏe. Tạp 
chí Tâm lí học, số 4, tr 60-62. 
[7] Trịnh Viết Then (2014). Mức độ stress của giáo viên 
mầm non trên địa bàn quận Phú Nhuận, Thành phố 
Hồ Chí Minh. Kỉ yếu Hội thảo quốc tế Tâm lí học 
học đường lần thứ 4, tháng 8/2014, Trường Đại học 
Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 467-478. 

File đính kèm:

  • pdfren_luyen_ki_nang_ung_pho_voi_stress_cho_sinh_vien_nganh_su.pdf