Phát triển tiêu chuẩn tỉ trọng mỡ cơ thể cho chẩn đoán béo phì ở người Việt

Mục tiêu của công trình nghiên cứu này là khảo sát mối tương quan giữa chỉ số khối cơ thể (BMI) và tỉ trọng mỡ cơ thể (percentage of body fat, hay PBF), và qua đó tìm một chuẩn mới của PBF để chẩn đoán béo phì cho người Việt.

Phát triển tiêu chuẩn tỉ trọng mỡ cơ thể cho chẩn đoán béo phì ở người Việt trang 1

Trang 1

Phát triển tiêu chuẩn tỉ trọng mỡ cơ thể cho chẩn đoán béo phì ở người Việt trang 2

Trang 2

Phát triển tiêu chuẩn tỉ trọng mỡ cơ thể cho chẩn đoán béo phì ở người Việt trang 3

Trang 3

Phát triển tiêu chuẩn tỉ trọng mỡ cơ thể cho chẩn đoán béo phì ở người Việt trang 4

Trang 4

Phát triển tiêu chuẩn tỉ trọng mỡ cơ thể cho chẩn đoán béo phì ở người Việt trang 5

Trang 5

Phát triển tiêu chuẩn tỉ trọng mỡ cơ thể cho chẩn đoán béo phì ở người Việt trang 6

Trang 6

Phát triển tiêu chuẩn tỉ trọng mỡ cơ thể cho chẩn đoán béo phì ở người Việt trang 7

Trang 7

pdf 7 trang Danh Thịnh 13/01/2024 2780
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển tiêu chuẩn tỉ trọng mỡ cơ thể cho chẩn đoán béo phì ở người Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển tiêu chuẩn tỉ trọng mỡ cơ thể cho chẩn đoán béo phì ở người Việt

Phát triển tiêu chuẩn tỉ trọng mỡ cơ thể cho chẩn đoán béo phì ở người Việt
NGHIÊN CỨU 
THỜI SỰ Y HỌC 04/2011 - Số 59 3 
PHÁT TRIỂN TIÊU CHUẨN TỈ TRỌNG MỠ CƠ THỂ 
CHO CHẨN ĐOÁN BÉO PHÌ Ở NGƯỜI VIỆT 
Hồ Phạm Thục Lan* Đoàn Công Minh** Phạm Ngọc Khánh*** Phạm Ngọc Hoa**** Nguyễn Đình 
Nguyên*****, Nguyễn Văn Tuấn***** 
Tóm lược 
Mục tiêu của công trình nghiên cứu này là khảo sát mối 
tương quan giữa chỉ số khối cơ thể (BMI) và tỉ trọng mỡ cơ 
thể (percentage of body fat, hay PBF), và qua đó tìm một 
chuẩn mới của PBF để chẩn đoán béo phì cho người Việt. 
Chúng tôi đo PBF bằng máy DXA (Hologic QDR4500) và 
các chỉ số nhân trắc, kể cả BMI, trên 870 nữ và 357 nam 
tuổi từ 15 trở lên tại TP Hồ Chí Minh. Các đối tượng nghiên 
cứu được chọn ngẫu nhiên trong cộng đồng theo qui trình 
chọn mẫu ngẫu nhiên. Tính chung, BMI ở nam giới là 
22.7±3.0 kg/m2 (trung bình ± độ lệch chuẩn) và nữ giới là 
22.3±3.5 kg/m2. Chỉ có 1,4% nam và 1,8% nữ có BMI≥30, 
trong khi đó 6,5% nam và 5,0% nữ có BMI≥27,5. Những 
nghiên cứu trước đây cho thấy BMI≥27,5 có liên quan đến 
gia tăng nguy cơ tử vong. PBF trung bình ở nam giới là 
24,1±5,6%, thấp hơn nữ (34.7±5.2%). Hệ số tương quan 
giữa BMI và PBF là 0,51. Dựa vào mối tương quan giữa 
PBF và BMI, chúng tôi ước tính rằng PBF≥30 cho nam và 
PBF≥40 cho nữ tương đương với BMI≥27,5. Dựa vào tiêu 
chuẩn PBF≥30/40, kết quả nghiên cứu cho thấy có 17% 
nam và 18% nữ có thể xem là béo phì. Những kết quả này 
cho thấy chuẩn BMI≥30 hay BMI≥27,5 có thể dẫn đến sai 
sót trong chẩn đoán béo phì. Trong khi chưa có nghiên cứu 
ở người Việt về mối liên quan giữa BMI hay PBF và tử 
vong, chúng tôi đề nghị lấy ngưỡng PBF≥30 (nam) và 
PBF≥40 (nữ) để chẩn đoán béo phì ở người Việt. 
 Abstract 
DETERMINATION OF BOFY FAT PERCENTAGE AS AN 
APPROACH FOR DIAGNOSIS OF OBESITY IN 
VIETNAMESE ADULTS 
The present study sought to examine the relationship 
between body mass index (BMI) and percentage of body fat 
(PBF), and through which to derive new PBF thresholds for 
the diagnosis of obesity in Vietnamese men and women. 
We measured PBF by DXA (Hologic QDR4500) and 
obtained anthropometric indices from 870 women and 357 
men aged 15 years or above. The individuals were selected 
from various districts within Ho Chi Minh City according to a 
simple random sampling scheme. Overall, BMI in men and 
women was 22.7±3.0 kg/m2 and 22.3 ±3.5 kg/m2 (mean ± 
standard deviation [SD]), respectively. Only 1.4% of men 
and 1.8% of women had BMI ≥30 kg/m2. Approximately 
6.5% of men and 5.0% of women had BMI≥27.5, the level 
that was associated with an increased risk of mortality. 
Average PBF in men was 24.1±5.6%, approximately 10% 
lower than that in women (34.7±5.2%). The coefficient of 
correlation between BMI and PBF was 0.51. For a given 
BMI category, there was a large between-subject difference 
in PBF. Based on the relationship between PBF and BMI, 
we found that PBF≥30 in men and PBF≥40 in women were 
corresponding to BMI≥27.5. Using the new criteria of 
PBF≥30/40, 17% of men and 18% of women could be 
considered obese. These results clearly show that the 
threshold of BMI≥30 or BMI≥27.5 can lead to misdiagnosis 
of obesity in Vietnamese men and women. We propose to 
use the PBF≥30 (in men) and PBF≥40 (in women) for the 
diagnosis of obesity in the Vietnamese population. 
Dẫn nhập 
Béo phì được ghi nhận là một trong những vấn 
đề y tế công cộng lớn ở các nước đã phát triển và ở 
châu Á,(1-3) vì bệnh gắn liền với sự tăng nguy cơ tử 
vong cũng như nguy cơ mắc các bệnh lý mạn tính 
nguy hiểm như đái tháo đường, tim mạch, ung 
thư.(4) Nhưng tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì vẫn 
chưa hoàn chỉnh. Hiện nay, béo phì được chẩn 
đoán dựa vào chỉ số khối cơ thể (BMI), hay có khi 
gọi là Quetelet index do nhà toán học Adolphe 
Quetelet phát triển vào thế kỷ 19. Theo Tổ chức Y 
tế Thế giới (WHO), bất cứ cá nhân trưởng thành 
nào có chỉ số BMI bằng hoặc cao hơn 30 kg/m2 
được xem là “béo phì”.(5) Chuẩn này được áp dụng 
cho rất nhiều nơi trên thế giới, và được xem là một 
thước đo quan trọng để đánh giá qui mô béo phì 
trong một quần thể. 
Chuẩn BMI ≥30 có thể không phù hợp cho 
người châu Á. Một số nghiên cứu mới nhất cho thấy 
ở người châu Á, nguy cơ tử vong gia tăng ngay cả 
khi BMI thấp hơn 30 kg/m2. Thật vậy, hai công 
trình nghiên cứu qui mô ở Trung Quốc(6) và 
Singapore(7) mà trong đó các nhà nghiên cứu theo 
dõi một quần thể lớn trong thời gian 10 năm, cho 
thấy ở nam và nữ dưới 65 tuổi, nguy cơ tử vong 
tăng cao khi BMI vượt quá ngưỡng 27 kg/m2. 
Ngưỡng này cũng phù hợp với khuyến cáo của một 
nhóm chuyên gia của WHO sau khi xem xét bằng 
chứng khoa học,(8) mà theo đó BMI ≥27,5 có thể 
xem là có nguy cơ cao (“higher high risk”). 
Nhưng BMI là một chỉ số không hoàn hảo. BMI 
được phát triển để làm một thước đo gián tiếp phản 
ánh lượng mỡ trong cơ thể (vì vào thế kỷ 19 chưa 
có máy đo lượng mỡ trong cơ thể). BMI thực chất 
là tỉ số của trọng lượng trên bình phương chiều cao. 
Bởi vì trọng lượng bao gồm phần lớn hai thành tố là 
lượng nạc (lean mass) và lượng mỡ (fat mass), và 
trong khi lượng mỡ mới thật sự là yếu tố cần quan 
tâm trong thực hành lâm sàng, cho nên BMI không 
*Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch; Khoa Khớp, Bệnh viện 115; 
**Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 
*** Khoa Khớp, Bệnh viện 115 
****Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; 
*****Đại học New South Wales và Viện Nghiên cứu Y khoa 
Garvan, Sydney, Australia 
NGHIÊN CỨU 
4 THỜI SỰ Y HỌC 04/2011 - Số 59 
phản ảnh được tỉ trọng mỡ trong cơ thể. Chính vì 
khiếm khuyết này mà một số vận động viên có khi 
bị chẩn đoán là béo phì vì họ nặng cân dù rằng có ít 
lượng mỡ và nhiều lượng nạc. 
Chỉ số “vàng” để chẩn đoán béo phì là tỉ trọng 
mỡ trong cơ thể (percentage of body fat, hay PBF). 
Thật vậy, béo phì được định nghĩa là lượng mỡ 
trong người tăng cao đến mức có thể gây nguy hiểm 
cho sức khỏe. Do đó, tiêu chuẩn thích hợp nhất phải 
là lượng mỡ trong cơ thể so với trọng lượng.(9) 
Ngày nay, có n ... ên, việc chẩn đoán béo phì ở người châu Á 
vẫn còn là một vấn đề nan giải. Tiêu chuẩn “vàng” 
để chẩn đoán béo phì là tỉ trọng mỡ cơ thể, vì chỉ số 
này đáng tin cậy nhất và có thể đo lường một cách 
chính xác bằng máy DXA. Tuy nhiên, ở nhiều nước 
đang phát triển, máy DXA vẫn chưa phổ biến, hay 
ngay cả phổ biến cũng chưa thể ứng dụng trong lâm 
sàng thường xuyên do vấn đề chi phí xét nghiệm. 
Do đó, BMI vẫn được xem là một chỉ số thực tế có 
thể sử dụng trong việc chẩn đoán béo phì. Nhưng 
BMI không phải là một chỉ số hoàn hảo, bởi vì như 
nghiên cứu này cho thấy BMI không phản ảnh được 
tỉ trọng mỡ trong cơ thể. Ngoài ra, BMI còn có thể 
sai vì đơn giản là bệnh nhân không nhớ chính xác 
được chiều cao và trọng lượng của mình. Do đó, 
việc dùng chỉ số BMI cho chẩn đoán béo phì đã bị 
rất nhiều phê bình.(18, 21-25) 
Bất cứ một ngưỡng chẩn đoán nào cũng nên dựa 
vào kết cục lâm sàng (clinical outcome). Kết cục 
lâm sàng có ý nghĩa y tế nhất có lẽ là tử vong. 
Trong quá khứ nhiều nghiên cứu về mối liên quan 
giữa tử vong và BMI đã được thực hiện ở người Âu 
Mỹ, và kết quả cho thấy nguy cơ tử vong tăng 
nhanh khi BMI bằng hoặc cao hơn 30. Do đó, 
ngưỡng BMI ≥30 được lấy làm tiêu chuẩn chẩn 
đoán cho người Âu Mỹ, và WHO cũng đề nghị 
dùng tiêu chuẩn này trên toàn thế giới. 
Cho đến khoảng 10 năm trước đây, chưa có 
những nghiên cứu qui mô về mối liên quan giữa 
BMI và tử vong ở người châu Á. Tuy nhiên, ở người 
Á châu, bệnh đái tháo đường và tim mạch thường 
hay thấy ở những người có chỉ số BMI thấp hơn 30, 
thậm chí thấp hơn 25.(16, 25) Xuất phát từ lý do này, 
các chuyên gia đề nghị tiêu chuẩn chẩn đoán béo phì 
cho người Á châu phải thấp hơn người da trắng, và 
đã chọn BMI 25 kg/m2 làm ngưỡng chẩn đoán béo 
phì cho người Á châu.(8) Nếu dùng BMI ≥25 kg/m2, 
số người Việt béo phì là khoảng 27% nam và 22% 
nữ. Tuy nhiên, ngưỡng BMI ≥25 không dựa vào một 
bằng chứng khoa học nào đáng tin cậy. 
Khoảng 15 năm qua tồn tại một giả định rằng 
nếu hai người châu Á và châu Âu (da trắng) có 
cùng BMI và cùng tuổi, thì người châu Á có nhiều 
NGHIÊN CỨU 
8 THỜI SỰ Y HỌC 04/2011 - Số 59 
lượng mỡ hơn(11,14,16,24,26) người châu Âu. Từ đó, 
một số chuyên gia đề nghị rằng ngưỡng chẩn đoán 
béo phì cho người châu Á là PBF ≥25 cho nam và 
PBF ≥35 cho nữ. Trong quần thể người Việt, kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có đến 51% 
nam và nữ có thể xem là béo phì nếu dựa vào chuẩn 
PBF ≥25 cho nam và PBF ≥35 cho nữ! Rất khó có 
thể nói rằng tần suất 51% là thuyết phục. Nhưng có 
hai vấn đề ở đây. Thứ nhất, giả định về sự khác biệt 
tỉ trọng mỡ giữa người châu Âu và châu Á không 
đúng. Thật vậy, trong một nghiên cứu mới đây, 
chúng tôi chứng minh rằng tỉ trọng mỡ ở phụ nữ 
Việt Nam tương đương với tỉ lệ mỡ ở phụ nữ Mỹ 
gốc châu Âu,(9) hay nói cách khác là không có khác 
biệt về tỉ trọng mỡ giữa người châu Á và châu Âu. 
Vấn đề thứ hai là hoàn toàn không có một cơ sở 
khoa học nào cho chuẩn PBF ≥25 cho nam và PBF 
≥35 cho nữ. Chúng tôi phát hiện rằng chuẩn này 
hoàn toàn không có trong tài liệu của WHO mà các 
nhà nghiên cứu Singapore phát biểu. Nói tóm lại, 
các kết quả trên cho thấy ngưỡng BMI 30 kg/m2 
hay 25 kg/m2 dùng để chẩn đoán béo phì cho người 
châu Á cần được xem xét lại. 
Gần đây, đã có một số nghiên cứu phân tích mối 
liên quan giữa BMI và tử vong ở người châu Á. 
Nghiên cứu ở Trung Quốc 6) và Singapore(7) theo 
dõi trên 150.000 nam và nữ trong 10 năm, và phát 
hiện rằng ngưỡng BMI ≥27 có liên quan đến gia 
tăng nguy cơ tử vong. Năm 2004, các chuyên gia 
WHO cũng đề nghị lấy ngưỡng BMI ≥27,5 làm 
ngưỡng xác định “nguy cơ cao”. Ở Việt Nam, một 
nghiên cứu trên 978 người tuổi từ 25-74 ở Hà 
Nội(27) cho thấy có khoảng 2,1% nam và 2,2% nữ 
có BMI ≥27. Nhưng một nghiên cứu khác ở 
TPHCM(28) báo cáo 6,4% có BMI ≥27. Trong 
nghiên cứu này, chúng tôi ghi nhận 6,2% nam và 
4,7% nữ có BMI ≥27,5. Trong nghiên cứu ở Trung 
Quốc,(6) có đến 12% đối tượng có BMI ≥27. Nghiên 
cứu ở Singapore cho thấy có 10,3% (5316 / 51251) 
có BMI ≥27,5. 
Nhưng như đề cập trên, BMI chỉ là một chỉ số gián 
tiếp để chẩn đoán béo phì. Trong thời gian qua, việc 
dùng BMI để chẩn đoán béo phì đã gặp rất nhiều phê 
bình gay gắt.(18,21-25). Bởi vì trọng lượng bao gồm hai 
cấu phần chính là lượng mỡ (fat mass) và lượng nạc, 
và hai cấu phần này có thể khác biệt giữa các cá nhân, 
cho nên công thức BMI không phản ảnh chính xác 
tình trạng béo phì cho một cá nhân.(24) Như nghiên 
cứu này cho thấy hai người có thể có cùng BMI, 
nhưng tỉ lệ mỡ hoàn toàn khác nhau. 
Tỉ trọng mỡ cơ thể PBF là tiêu chuẩn vàng để 
chẩn đoán béo phì, vì PBF trực tiếp đo lường lượng 
mỡ trong cơ thể. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào 
đo lường PBF và theo dõi đối tượng một thời gian 
dài để biết được mối liên hệ giữa PBF và tử vong. 
Do đó, dù PBF được xem là tiêu chuẩn vàng, nhưng 
ngưỡng PBF để chẩn đoán béo phì vẫn chưa được 
xác định. Trong nghiên cứu này, qua tìm hiểu hàm số 
tương quan giữa BMI và PBF, chúng tôi có thể ước 
tính ngưỡng PBF ≥30 (nam) và PBF ≥40 (nũ) tương 
đương với BMI ≥27,5 (tức ngưỡng có nguy cơ tử 
vong cao). Và, dựa vào chuẩn mới này, chúng tôi 
ước tính rằng có khoảng 18% cư dân TP.HCM đang 
ở trong tình trạng béo phì, hiểu theo nghĩa có nguy 
cơ tử vong cao. Mặc dù tỉ lệ hiện hành này vẫn còn 
thấp so với các nước Âu Mỹ (nơi mà tỉ lệ béo phì 
hay BMI ≥30 dao động trong khoảng 25 đến 
30%),(29) nhưng vẫn là một tỉ lệ khá cao. 
Những dữ liệu của nghiên cứu này cần phải diễn 
giải trong khuôn khổ của một số ưu điểm và nhược 
điểm. Đây là một công trình nghiên cứu béo phì qui 
mô có đo tỉ trọng mỡ bằng máy DXA ở Việt Nam 
và một trong những nghiên cứu qui mô nhất trong 
vùng Á châu, bao gồm cả nam và nữ, đảm bảo đầy 
đủ số liệu cho việc phân tích xác định các thông số 
cần thiết cho việc xác định mối tương quan giữa 
BMI và tỉ trọng mỡ cơ thể. Các đối tượng nam và 
nữ được chọn một cách ngẫu nhiên trong cộng đồng 
qua những tiêu chuẩn lâm sàng, do đó kết quả mang 
tính hợp lý ngoại tại (external validity) cao. Một ưu 
điểm khác của nghiên cứu là sử dụng công nghệ 
DXA, một công nghệ chuẩn để đo thành phần cơ 
thể. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu cũng có một 
số nhược điểm. Trước hết, đây là một nghiên cứu 
cắt ngang, cho nên không thể suy luận về mối liên 
hệ nhân quả giữa BMI và tỉ trọng mỡ. Vì không có 
dữ liệu về tử vong nên chúng tôi phải dựa vào dữ 
liệu nước ngoài (Trung Quốc và Singapore) những 
nơi có thể khác với Việt Nam về tỉ lệ tử vong. 
Nghiên cứu được thực hiện tại Thành phố Hồ Chí 
Minh, nơi mà dinh dưỡng và lối sống có thể khác 
biệt so với cư dân nông thôn, nên có thể xem những 
kết quả này chưa đại diện cho quần thể ở nông thôn, 
hay cho toàn quốc. 
Tóm lại, những kết quả của nghiên cứu cho thấy 
chuẩn BMI≥30 hay BMI≥27,5 có thể dẫn đến sai 
sót trong chẩn đoán béo phì ở người Việt. Dựa vào 
mối liên hệ giữa BMI và tỉ trọng mỡ cơ thể PBF, 
giữa BMI và nguy cơ tử vong, chúng tôi xác định 
được ngưỡng tỉ trọng mỡ ≥30% cho nam và ≥40% 
cho nữ là ngưỡng có thể sử dụng cho chẩn đoán béo 
phì ở người Việt. Với ngưỡng mới này, chúng tôi 
NGHIÊN CỨU 
THỜI SỰ Y HỌC 04/2011 - Số 59 9 
ước tính rằng tỉ lệ béo phì trong cộng động cư dân 
TPHCM là khoảng 18%, một qui mô rất đáng quan 
tâm. Chúng tôi đề nghị nghiên cứu tiếp chuẩn mới 
này trong các quần thể độc lập để đi đến một chuẩn 
thống nhất cho toàn quốc. 
Cảm tạ 
Công trình nghiên cứu này được sự hỗ trợ một phần 
từ Sở Khoa học và Công nghệ TPHCM, và chương trình 
hợp tác Viện – Trường trong khổ của Ủy hội Đại học Bỉ. 
Chúng tôi cám ơn Bs Trần Sơn Thạch (Bệnh viện Hùng 
Vương và Viện nghiên cứu y khoa Garvan) đã có một số 
góp ý góp phần cải tiến bản thảo của bài báo. Chúng tôi 
chân thành cám ơn Linh mục Phạm Bá Lãm, Linh mục 
Vũ Minh Danh, các ông Phạm Doãn Phong, Lương 
Thành Phát, Nguyễn Công Phú, và Tiền Ngọc Tuấn đã 
tích cực hỗ trợ cho chương trình nghiên cứu của chúng 
tôi, kể cả khuyến khích các giáo dân tham gia vào công 
trình nghiên cứu. Chúng tôi cũng chân thành ghi nhận 
sự giúp đỡ quý báu của Bs Lê Thị Ngọc Linh thuộc Bệnh 
viện Nhân dân 115; và các sinh viên thuộc Trường Đại 
học Y Phạm Ngọc Thạch: Nguyễn Thị Thanh Mai, 
Nguyễn Hải Đăng, Võ Thị Thúy An, Nguyễn Thị Thanh 
Thảo, Nguyễn Trịnh Bảo An, Mai Duy Linh, Nguyễn Vũ 
Đạt, Diêm Đăng Khoa, và Trần Hồng Bảo đã hết lòng 
giúp đỡ trong việc hướng dẫn và phỏng vấn các đối 
tượng nghiên cứu. 
Tài liệu tham khảo 
1. Yoon KH, Lee JH, Kim JW, Cho JH, Choi YH, Ko SH, Zimmet P, Son HY 
(2006) Epidemic obesity and type 2 diabetes in Asia. Lancet 368:1681-
1688. 
2. Ogden CL, Carroll MD, Curtin LR, McDowell MA, Tabak CJ, Flegal KM 
(2006) Prevalence of overweight and obesity in the United States, 1999-
2004. Jama 295:1549-1555. 
3. Cameron AJ, Welborn TA, Zimmet PZ, Dunstan DW, Owen N, Salmon J, 
Dalton M, Jolley D, Shaw JE (2003) Overweight and obesity in Australia: 
the 1999-2000 Australian Diabetes, Obesity and Lifestyle Study 
(AusDiab). Med J Aust 178:427-432. 
4. Whitlock G, Lewington S, Sherliker P, Clarke R, Emberson J, Halsey J, 
Qizilbash N, Collins R, Peto R (2009) Body-mass index and cause-
specific mortality in 900,000 adults: collaborative analyses of 57 
prospective studies. Lancet 373:1083-1096. 
5. WHO (2000) Obesity: preventing and managing the global epidemic. 
Report of a WHO consultation. WHO Technical Report Series 894:1-253. 
6. Gu D, He J, Duan X, Reynolds K, Wu X, Chen J, Huang G, Chen CS, 
Whelton PK (2006) Body weight and mortality among men and women in 
China. Jama 295:776-783. 
7. Odegaard AO, Pereira MA, Koh WP, Gross MD, Duval S, Yu MC, Yuan 
JM BMI, all-cause and cause-specific mortality in Chinese Singaporean 
men and women: the Singapore Chinese health study. PLoS One 
5:e14000. 
8. WHO (2004) Appropriate body-mass index for Asian populations and its 
implications for policy and intervention strategies. Lancet 363:157-163. 
9. Ho-Pham LT, Lai TQ, Nguyen ND, Barrett-Connor E, Nguyen TV 
Similarity in percent body fat between white and Vietnamese women: 
implication for a universal definition of obesity. Obesity (Silver Spring) 
18:1242-1246. 
10. Deurenberg P, Yap M, van Staveren WA (1998) Body mass index and 
percent body fat: a meta analysis among different ethnic groups. Int J 
Obes Relat Metab Disord 22:1164-1171. 
11. Wang J, Thornton JC, Russell M, Burastero S, Heymsfield S, Pierson 
RN, Jr. (1994) Asians have lower body mass index (BMI) but higher 
percent body fat than do whites: comparisons of anthropometric 
measurements. Am J Clin Nutr 60:23-28. 
12. WHO (1995) Physical status: the use and interpretation of 
anthropometry. Report of a WHO Expert Consultation. WHO Technical 
Report Series 854. 
13. Ko GT, Tang J, Chan JC, Sung R, Wu MM, Wai HP, Chen R (2001) 
Lower BMI cut-off value to define obesity in Hong Kong Chinese: an 
analysis based on body fat assessment by bioelectrical impedance. Br J 
Nutr 85:239-242. 
14. Chang CJ, Wu CH, Chang CS, Yao WJ, Yang YC, Wu JS, Lu FH 
(2003) Low body mass index but high percent body fat in Taiwanese 
subjects: implications of obesity cutoffs. Int J Obes Relat Metab Disord 
27:253-259. 
15. Deurenberg P (2001) Universal cut-off BMI points for obesity are not 
appropriate. Br J Nutr 85:135-136. 
16. Deurenberg-Yap M, Chew SK, Deurenberg P (2002) Elevated body fat 
percentage and cardiovascular risks at low body mass index levels 
among Singaporean Chinese, Malays and Indians. Obes Rev 3:209-215. 
17. He M, Tan KC, Li ET, Kung AW (2001) Body fat determination by dual 
energy X-ray absorptiometry and its relation to body mass index and 
waist circumference in Hong Kong Chinese. Int J Obes Relat Metab 
Disord 25:748-752. 
18. Romero-Corral A, Somers VK, Sierra-Johnson J, Thomas RJ, Collazo-
Clavell ML, Korinek J, Allison TG, Batsis JA, Sert-Kuniyoshi FH, Lopez-
Jimenez F (2008) Accuracy of body mass index in diagnosing obesity in 
the adult general population. Int J Obes (Lond) 32:959-966. 
19. Nguyen TV (2006) Phân tích số liệu và tạo biểu đồ bằng R. Nhà xuất 
bản Khoa học Kỹ thuật TPHCM. 
20. R, Development, Core, Team (2008) R: A Language and Environment 
for Statistical Computing. 
. URL: Vienna, Austria: . 
21. Bozkirli E, Ertorer ME, Bakiner O, Tutuncu NB, Demirag NG (2007) The 
validity of the World Health Organisation's obesity body mass index 
criteria in a Turkish population: a hospital-based study. Asia Pac J Clin 
Nutr 16:443-447. 
22. De Lorenzo A, Deurenberg P, Pietrantuono M, Di Daniele N, Cervelli V, 
Andreoli A (2003) How fat is obese? Acta Diabetol 40 Suppl 1:S254-257. 
23. Goh VH, Tain CF, Tong TY, Mok HP, Wong MT (2004) Are BMI and 
other anthropometric measures appropriate as indices for obesity? A 
study in an Asian population. J Lipid Res 45:1892-1898. 
24. Yajnik CS, Yudkin JS (2004) The Y-Y paradox. Lancet 363:163. 
25. Zhou BF (2002) Predictive values of body mass index and waist 
circumference for risk factors of certain related diseases in Chinese 
adults--study on optimal cut-off points of body mass index and waist 
circumference in Chinese adults. Biomed Environ Sci 15:83-96. 
26. Lee K, Lee S, Kim SY, Kim SJ, Kim YJ (2007) Percent body fat cutoff 
values for classifying overweight and obesity recommended by the 
International Obesity Task Force (IOTF) in Korean children. Asia Pac J 
Clin Nutr 16:649-655. 
27. Walls HL, Peeters A, Son PT, Quang NN, Hoai NT, Loi do D, Viet NL, 
Khai PG, Reid CM (2009) Prevalence of underweight, overweight and 
obesity in urban Hanoi, Vietnam. Asia Pac J Clin Nutr 18:234-239. 
28. Cuong TQ, Dibley MJ, Bowe S, Hanh TT, Loan TT (2007) Obesity in 
adults: an emerging problem in urban areas of Ho Chi Minh City, 
Vietnam. Eur J Clin Nutr 61:673-681. 
29. Baskin ML, Ard J, Franklin F, Allison DB (2005) Prevalence of obesity in 
the United States. Obes Rev 6:5-7. 

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_tieu_chuan_ti_trong_mo_co_the_cho_chan_doan_beo_p.pdf