Phân tích chi phí - Lợi ích mở rộng hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản bauxite Tây Nguyên
Nghiên cứu tập trung đánh giá hiệu quả của hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản
bauxite Tây Nguyên qua nghiên cứu mẫu tại tổ hợp bauxite-alumina Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân
Cơ (Đắk Nông) bằng phương pháp phân tích chi phí - lợi ích mở rộng. Các chi phí ngoại ứng đã
được nội hoá để đưa vào tính toán, bao gồm chi phí cơ hội, chi phí môi trường, chi phí trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp và chi phí dự phòng cho sự cố môi trường. Kết quả phân tích chi phí - lợi
ích mở rộng cho thấy, nếu tính toán đầy đủ các khoản chi phí môi trường thì tổ hợp Tân Rai không
đem lại hiệu quả cho xã hội với giá trị NPV âm (-5.167.422 triệu đồng), IRR (6,27%) thấp hơn tỷ lệ
chiết khấu (10%); Tổ hợp Nhân Cơ hoạt động hiệu quả với NPV dương (145.862 triệu đồng), IRR
(10,1%) cao hơn tỷ lệ chiết khấu (10%), tuy nhiên hoạt động của tổ hợp này chứa nhiều rủi ro khi
phân tích độ nhạy của các chỉ số tính toán. Trung bình 1 tấn sản phẩm alumina sản xuất ra cần từ
0,7 đến 0,9 triệu đồng chi phí môi trường. Hai tổ hợp bauxite-alumina ở Tây Nguyên một năm tạo
việc làm ổn định cho hàng nghìn lao động, đóng góp khoảng 1.200-1.400 tỷ đồng các khoản thuế,
phí cho Nhà nước, tương đương từ 1,0 đến 1,2 triệu đồng/1 tấn sản phẩm. Từ bài học kinh nghiệm
của tổ hợp Tân Rai và Nhân Cơ, các dự án khai thác, chế biến bauxite sau này cần được triển khai
đúng tiến độ và vận hành 100% công suất thiết kế ngay từ năm đầu tiên để đạt mức hiệu quả tối ưu.
Trong tương lai, cần xây dựng và đánh giá hiệu quả các phương án khai thác, chế biến theo chuỗi
khép kín, tận thu, chế biến sâu để cải thiện hiệu quả hoạt động của các dự án bauxite, hướng tới giải
quyết triệt để các vấn đề môi trường bằng cải tiến quy trình công nghệ, thực hiện hoàn thổ phục hồi
môi trường, áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích chi phí - Lợi ích mở rộng hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản bauxite Tây Nguyên
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 58-67 58 Original Article Extend Cost Benefit Analysis of Bauxite Mining and Processing in the Central Highlands of Vietnam Trinh Phuong Ngoc1, , Hoang Xuan Co2 1Tan Trao University, km6 Trung Mon, Yen Son, Tuyen Quang, Viet Nam 2VNU University of Science, Vietnam National University, Hanoi, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam Received 03 February 2020 Revised 12 April 2020; Accepted 15 April 2020 Abstract: The study focuses on assessing the effectiveness of bauxite mining and processing in the Central Highlands through the example of Tan Rai (Lam Dong) and Nhan Co (Dak Nong) bauxite- alumina complexes by the method of extended cost benefit analysis. External costs have been localized to be taken into account, including opportunity costs, environmental costs, corporate social responsibility costs and contingency costs for environmental incidents. The results showed that if calculating the environmental costs, the Tan Rai complex does not bring effectiveness for society with a negative NPV value (VND -5,167,422 million), IRR (6.27%) is lower than the discount (10%); Nhan Co complex is effective with positive NPV (VND 145,862 million), IRR (10.1%) is higher than the discount (10%), but the operation of this complex is risky when analyzing the sensitivity of the indicators. A ton of alumina will require an average from VND 0.7 to 0.9 million of environmental costs. In a year, two bauxite-alumina complexes in the Central Highlands create stable jobs for thousands of workers, contributing from VND 1,200 to 1,400 billion of taxes and fees for the State, equivalent to between VND 1.0 and 1.2 million per ton of alumina. From the lessons learned from Tan Rai and Nhan Co complexes, the future bauxite mining and processing projects need to be implemented on schedule and operate at 100% of the designed capacity right from the first year to achieve optimal efficiency. In the future, it is necessary to develop and evaluate the effectiveness of closed, full and chain options to improve the operational efficiency of bauxite projects, aiming to thoroughly solve the environmental issues by improving technological processes, implementing land restoration after mining, applying cleaner production solutions. Keywords: Bauxite, Alumina, Central Highlands, Extended Cost Benefit Analysis, Effectiveness. ________ Corresponding author. E-mail address: gemytrinh@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4534 T.P. Ngoc, H.X. Co / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 58-67 59 Phân tích chi phí - lợi ích mở rộng hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản bauxite Tây Nguyên Trịnh Phương Ngọc1, , Hoàng Xuân Cơ2 1Trường Đại học Tân Trào, km6, Trung Môn, Yên Sơn, Tuyên Quang, Việt Nam 2 Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 03 tháng 02 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 12 tháng 04 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 15 tháng 4 năm 2020 Tóm tắt: Nghiên cứu tập trung đánh giá hiệu quả của hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản bauxite Tây Nguyên qua nghiên cứu mẫu tại tổ hợp bauxite-alumina Tân Rai (Lâm Đồng) và Nhân Cơ (Đắk Nông) bằng phương pháp phân tích chi phí - lợi ích mở rộng. Các chi phí ngoại ứng đã được nội hoá để đưa vào tính toán, bao gồm chi phí cơ hội, chi phí môi trường, chi phí trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và chi phí dự phòng cho sự cố môi trường. Kết quả phân tích chi phí - lợi ích mở rộng cho thấy, nếu tính toán đầy đủ các khoản chi phí môi trường thì tổ hợp Tân Rai không đem lại hiệu quả cho xã hội với giá trị NPV âm (-5.167.422 triệu đồng), IRR (6,27%) thấp hơn tỷ lệ chiết khấu (10%); Tổ hợp Nhân Cơ hoạt động hiệu quả với NPV dương (145.862 triệu đồng), IRR (10,1%) cao hơn tỷ lệ chiết khấu (10%), tuy nhiên hoạt động của tổ hợp này chứa nhiều rủi ro khi phân tích độ nhạy của các chỉ số tính toán. Trung bình 1 tấn sản phẩm alumina sản xuất ra cần từ 0,7 đến 0,9 triệu đồng chi phí môi trường. Hai tổ hợp bauxite-alumina ở Tây Nguyên một năm tạo việc làm ổn định cho hàng nghìn lao động, đóng góp khoảng 1.200-1.400 tỷ đồng các khoản thuế, phí cho Nhà nước, tương đương từ 1,0 đến 1,2 triệu đồng/1 tấn sản phẩm. Từ bài học kinh nghiệm của tổ hợp Tân Rai và Nhân Cơ, các dự án khai thác, chế biến bauxite sau này cần được triển khai đúng tiến độ và vận hành 100% công suất thiết kế ngay từ năm đầu tiên để đạt mức hiệu quả tối ưu. Trong tương lai, cần xây dựng và đánh giá hiệu quả các phương án khai thác, chế biến theo chuỗi khép kín, tận thu, chế biến sâu để cải thiện hiệu quả hoạt động của các dự án bauxite, hướng tới giải quyết triệt để các vấn đề môi trường bằng cải tiến quy trình công nghệ, thực hiện hoàn thổ phục hồi môi trường, áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn. Từ khoá: bauxite, alumina, Tây Nguyên, phân tích chi phí - lợi ích mở rộng, hiệu quả. 1. Mở đầu Bauxite là quặng dùng để sản xuất alumina, rồi từ đó điện phân ra nhôm kim loại. Tuỳ thuộc vào loại quặng, cần khoảng 4-6 tấn bauxite để sản xuất 2 tấn alumina và điện phân được 1 tấn nhôm kim loại [1]. Theo Cục khảo sát địa chất Hoa Kỳ năm 2019, nguồn tài nguyên toàn cầu của bauxite ước tính khoảng 55 đến 75 tỷ tấn, tập trung chủ yếu ở Châu Phi (32%), Châu Đại Dương (23%), Nam Mỹ và Caribê (21%), Châu ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: gemytrinh@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4534 Á (18%) và các nơi khác (6%), đủ để đáp ứng nhu cầu của thế giới về kim loại nhôm trong tương lai. Trên thế giới, quặng bauxite chủ yếu phân bố ở Úc, Brazil, Jamaisa, Nga, Hungary, Guyana, Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Việt Nam. Trong đó, Việt Nam là nước có trữ lượng bauxite đứng thứ 3 trên thế giới (3,7 tỷ tấn), chỉ sau Guinea và Úc [2]. Hiện nay, sản lượng khai thác và chế biến quặng bauxite ở ... góp cho Nhà nước. Trong trường hợp này, doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được 100,3-114,5 tỷ đồng thuế thu nhập doanh nghiệp phải đóng hàng năm cho một tổ hợp, tương đương hơn 200 tỷ đồng cho hai tổ hợp Tân Rai và Nhân Cơ. Đây là chính sách ưu đãi của Nhà nước để khuyến khích doanh nghiệp thực hiện các nội dung về bảo vệ T.P. Ngoc, H.X. Co / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 58-67 65 môi trường trong hoạt động sản xuất. Do vậy, doanh nghiệp nên thực hiện đầy đủ các quy định về bảo vệ môi trường và hạch toán những chi phí này vào giá thành sản phẩm để được hưởng khoản chênh lệch khi đóng thuế. Các tổ hợp Tân Rai và Nhân Cơ đều mất 6-7 năm để hoàn thành giai đoạn đầu tư ban đầu, việc kéo dài dẫn đến tăng gấp 2 lần tổng vốn đầu tư. Trong tương lai, nếu các dự án bauxite - alumina được triển khai đúng tiến độ thì hiệu quả của chúng sẽ được cải thiện rõ rệt. Kết quả phân tích chi phí - lợi ích tổ hợp Nhân Cơ cho thấy, mỗi tấn alumina sản xuất ra cần 918.670 đồng chi phí môi trường và đóng góp 1.207.100 đồng các khoản thuế, phí vào ngân sách nhà nước. Ngoài ra, tổ hợp còn tạo việc làm ổn định cho hơn 1.100 lao động và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội khu vực diễn ra hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản bauxite, đem lại lợi ích chung cho xã hội Tây Nguyên. 3.2. Phân tích độ nhạy Tổ hợp Tân Rai và Nhân Cơ với cùng quy mô công suất, cùng công nghệ sản xuất và chi phí đầu tư ban đầu gần tương đương, nhưng kết quả phân tích chi phí - lợi ích của hai tổ hợp lại cho thấy hiệu quả của chúng khác nhau. Sở dĩ có sự khác biệt này là do ba nguyên nhân. Một là, sau khi hoàn thiện quá trình đầu tư cơ bản, tổ hợp Tân Rai mất 6 năm mới vận hành được 100% công suất thiết kế, trong khi tổ hợp Nhân Cơ vận hành 100% công suất thiết kế từ năm thứ 2. Hai là, tổ hợp Tân Rai đi vào vận hành từ năm 2013, đúng thời điểm giá alumina trên thị trường đang ở mức thấp. Trong khi tổ hợp Nhân Cơ bắt đầu sản xuất từ năm 2017, vào thời điểm giá alumina trên thị trường phục hồi và đạt mức tăng kỉ lục vào năm 2018. Ba là, doanh nghiệp đã cắt giảm chi phí đầu tư xây dựng hồ bùn đỏ ở tổ hợp Nhân Cơ giảm đi một nửa so với chi phí này của tổ hợp Tân Rai. Những nguyên nhân trên đã làm ảnh hưởng đáng kể đến kết quả phân tích chi phí - lợi ích. Mặt khác, kết quả tính toán cũng có thể thay đổi phụ thuộc vào độ nhạy của các thông số. Do vậy, sau khi tính toán kết quả phân tích chi phí - lợi ích mở rộng, các số liệu đầu vào được thay đổi để xem xét biến động của chỉ số NPV. i) Biến động tỷ lệ chiết khấu (r): tỷ lệ chiết khấu có vai trò quan trọng trong việc quy đổi dòng tiền về cùng một thời điểm nhất định. Tỷ lệ này không cố định mà có thể khác nhau tuỳ mục đích sử dụng của từng cá nhân, doanh nghiệp, dự án, phương án sử dụng tài nguyên hoặc dựa trên quan điểm của doanh nghiệp hay xã hội. Tuy nhiên, tỷ lệ chiết khấu được sử dụng để tính toán chi phí - lợi ích mở rộng phải đảm bảo được đầy đủ các yếu tố: chi phí cơ hội của vốn, có tính đến yếu tố rủi ro và lạm phát. Kết quả phân tích độ nhạy cho thấy, với mức thay đổi dao động trên dưới 20% của tỷ lệ chiết khấu r (từ 8% đến 12%), nếu tính đầy đủ các chi phí môi trường thì NPV của tổ hợp Tân Rai vẫn mang dấu âm, còn NPV của tổ hợp Nhân Cơ sẽ âm nếu r lớn hơn hoặc bằng 10,2%. Điều này có nghĩa rằng nếu tỷ lệ r càng lớn thì hoạt động của các tổ hợp tiềm ẩn nhiều rủi ro. ii) Giá trị hiện tại ròng NPV của tổ hợp Tân Rai (PA2) sẽ mang giá trị dương nếu như giá alumina thị trường giai đoạn 2020-2042 ở mức cao hơn 470USD/tấn hoặc chi phí vận hành của tổ hợp giảm 50%. Những điều này là rất khó xảy ra bởi các yếu tố này đều phụ thuộc chủ yếu vào thị trường, trong khi giá alumina hiện nay đang ở mức thấp. iii) Tổ hợp Nhân Cơ sẽ không đạt hiệu quả nếu giá alumina thị trường 2020-2046 ở mức thấp hơn 395USD/tấn hoặc biến động chi phí vận hành tăng lớn hơn 1,5%/năm. Những điều này được cho là có khả năng xảy ra trong bối cảnh giá alumina thị trường năm 2019 giảm mạnh xuống còn 294USD/tấn. Theo dự báo của các tổ chức uy tín trên thế giới, giá alumina trên thị trường sẽ tăng nhẹ trong những năm tới, nhưng dự báo biến động không nhiều do nguồn cung alumina thế giới năm 2019 đã ở mức dư thừa. Nguyên nhân là do nhà máy alumina công suất 6,3 triệu tấn tại Brazil đã hoạt động trở lại sau khi hết lệnh cấm và nhiều nhà sản xuất nhôm trên thế giới đã đầu tư xây dựng nhà máy alumina để làm chủ nguồn nguyên liệu đầu vào sau sự cố giá alumina tăng đột biến ở mức trung bình 472USD/tấn, có thời điểm lên đến 707USD/tấn vào năm 2018. T.P. Ngoc, H.X. Co / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 58-67 66 iv) Ở phương án phân tích tài chính tổ hợp Nhân Cơ (PA3), chi phí xây dựng hồ bùn đỏ được tính theo thực tế triển khai và bằng một nửa so với tổ hợp Tân Rai (PA1 và PA2). Việc cắt giảm chi phí này đã cải thiện hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tuy nhiên lại làm phát sinh vấn đề môi trường khi khoang chứa bùn đỏ số 2 (khoang dự phòng) của tổ hợp Nhân Cơ đã xảy ra sự cố liên quan đến sụt lún ở trong lòng hồ và khu vực lân cận nhiều lần vào mùa mưa các năm 2017, 2018, 2019. Phương án phân tích chi phí - lợi ích mở rộng (PA4) sử dụng dữ liệu đầu vào là chi phí xây dựng hồ bùn đỏ của tổ hợp Nhân Cơ bằng chi phí này ở tổ hợp Tân Rai, kết quả tính toán cho thấy hoạt động sản xuất vẫn đem lại hiệu quả kinh tế, dù giá trị không cao và tiềm ẩn rủi ro về tài chính, nhưng đảm bảo được đầy đủ các nội dung liên quan đến bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản như hoàn thổ phục hồi môi trường, quan trắc giám sát môi trường, chi đầy đủ chi phí xây dựng hồ bùn đỏ, có tính đến chi phí cơ hội và chi phí trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. 4. Kết luận Phương pháp phân tích chi phí - lợi ích thường được sử dụng theo hai hướng là phân tích tài chính và phân tích chi phí - lợi ích mở rộng. Phương pháp phân tích tài chính nghiên cứu khả năng sinh lời theo hướng tối thiểu hoá chi phí sản xuất, do đó những khoản chi phí cho môi trường và xã hội về cơ bản bị bỏ qua. Khi sản lượng nhà máy alumina tăng lên, tổng lượng chất ô nhiễm phát thải sẽ tăng lên do quá trình tích lũy lâu dài. Tuy nhiên, chi phí sản xuất của mỗi tấn alumina chỉ phản ánh số tiền mà doanh nghiệp trả cho việc khai thác nguyên liệu (khai thác bauxite, tuyển rửa,), hóa chất, vận chuyển, chi phí lao động, mà không hề có khoản chi phí cho giảm thiểu, giám sát và xử lý ô nhiễm gây ra trong quá trình sản xuất. Do đó, kết quả tính toán không phản ánh đúng hiệu quả hoạt động của nền kinh tế. Dưới góc độ quản lý vĩ mô, hoạt động sản xuất là quá trình phát triển đảm bảo lợi ích đồng đều trong ba lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường. Chính vì vậy, cần thực hiện phân tích chi phí - lợi ích mở rộng để đưa ra cái nhìn tổng thể và khách quan về hiệu quả của hoạt động khai thác, chế biến quặng bauxite tại các dự án thí điểm ở khu vực Tây Nguyên. Kết quả phân tích chi phí - lợi ích mở rộng tổ hợp Tân Rai cho giá trị NPV là (-5.167.422) triệu đồng, IRR = 6,27% < r (10%), B/C bằng 0,89, cho thấy nếu tính toán đầy đủ các khoản chi phí môi trường và xã hội thì tổ hợp không đem lại hiệu quả. Kết quả phân tích chi phí - lợi ích mở rộng của tổ hợp Nhân Cơ cho giá trị NPV là 145.862 triệu đồng, IRR = 10,1% > r (10%), B/C bằng 1,003, thời gian thu hồi vốn là 8 năm 10 tháng, điều này cho thấy hoạt động của tổ hợp đem lại hiệu quả theo quan điểm kinh tế môi trường. Nếu thực hiện đúng các quy định về bảo vệ môi trường, trung bình 1 tấn sản phẩm alumina sản xuất ra cần 0,7-0,9 triệu đồng chi phí môi trường. Tổng chi phí đầu tư bổ sung để xây dựng hồ chứa bùn đỏ trong 30 năm của tổ hợp Tân Rai là rất lớn, khoảng trên 3.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, để cải thiện hiệu quả của các tổ hợp bauxite- alumina trong tương lai, không nên cắt giảm chi phí xây dựng hồ chứa bùn đỏ như thực tế đang làm với tổ hợp Nhân Cơ. Thực tế cho thấy chất lượng hồ chứa bùn đỏ tại Nhân Cơ không đảm bảo và tiềm ẩn nhiều rủi ro, đã xuất hiện hiện tượng sụt lún lòng hồ xảy ra hàng năm vào mùa mưa, cho thấy hiệu quả môi trường đã giảm tương ứng. Do vậy, cần có giải pháp về quy trình công nghệ hướng tới bùn đỏ thải ra ở dạng khô, dễ dàng lưu trữ và tái sử dụng hơn, góp phần giảm chi phí, hạn chế các tác động tiêu cực tới môi trường, qua đó giải quyết được mối lo lớn nhất về môi trường cho các dự án khai thác, chế biến quặng bauxite sau này [14]. Đồng thời, cần xây dựng các phương án cải thiện hiệu quả hoạt động khai thác, chế biến quặng bauxite Tây Nguyên trong tương lai và tính toán phân tích chi phí - lợi ích mở rộng trên cơ sở hướng tới hình thành chuỗi sản xuất khép kín ngành công nghiệp nhôm, từ khai thác quặng bauxite, sản xuất alumina, điện phân nhôm, tận dụng bùn thải quặng đuôi và tái sử dụng bùn đỏ, dần hình thành mô hình kinh tế tuần hoàn, khép kín trong sản xuất, ít tạo ra chất thải. T.P. Ngoc, H.X. Co / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 58-67 67 Đã một thập kỷ trôi qua kể từ sau chỉ đạo của Bộ Chính trị về việc thực hiện các dự án bauxite- alumina thí điểm ở khu vực Tây Nguyên, Việt Nam đã tham gia vào thị trường xuất khẩu alumina được 7 năm và dần làm chủ công nghệ chế biến quặng bauxite. Kết quả phân tích chi phí - lợi ích mở rộng hai dự án bauxite - alumina đã chỉ ra những điểm tích cực và cả những tồn tại cần khắc phục, làm cơ sở để điều chỉnh, xây dựng và triển khai các dự án khai thác, sử dụng tài nguyên bauxite hợp lý hơn trên vùng đất Tây Nguyên. Doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản bauxite nên thực hiện đầy đủ các biện pháp bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật và hạch toán vào chi phí sản xuất để được giảm trừ khi đóng thuế thu nhập. Trong tương lai, các dự án khai thác, chế biến bauxite tại khu vực Tây Nguyên cần được triển khai đúng tiến độ và vận hành 100% công suất thiết kế từ năm đầu tiên để đạt mức hiệu quả tối ưu. Tài liệu tham khảo [1] World Aluminium, Sustainable Bauxite Mining Guidelines. ia/ filer_public/2018/05/18/170518_sbmg_final.pdf , 2018 (accessed 15 April 2020). [2] U.S. Geological Survey, Mineral commodity summaries 2019: U.S. Geological Survey, U.S., 2019, 200p. https://doi.org/10.3133/70202434. [3] VUSTA, Proceedings of Bauxite in the Central Highlands Conference: States, Orientation and Recommendations, Hanoi, May 2013 (in Vietnamese). [4] Dang Trung Thuan, Trinh Phuong Ngoc, Exploiting and processing of bauxite in Tan Rai complex in the Central Highlands-5 years searching for a path. Proceedings of the 2nd Science and Technology Conference: Natural Resources, Energy and Environment for Sustainable Development, Ho Chi Minh City University of Natural Resources and Environment, Ho Chi Minh, 2014, pp. 807- 819 (in Vietnamese). [5] Vietnam Government, Decree on Export tariff schedule, preferential import tariff, list of goods and absolute tax, compound tax, import tax out of tariff quota, No.122/2016/ND-CP, Hanoi, September 2016. https://bientap.vbpl.vn//FileData /TW/Lists/vbpq/Attachments/113263/VanBanGo c_122.2016.ND.CP.pdf (in Vietnamese). [6] Vietnam Ministry of Finance, Circular stipulating the price bracket for calculation of resource tax for groups and types of resources with similar physical and chemical properties, No.44/2017/TT- BTC, Hanoi, 2017. file-remote-v2/DownloadServlet?filePath=vbpq/ 2017/07/44-BTC.signed.pdf (in Vietnamese). [7] NSW Goverment, Guide to Cost-Benefit Analysis (TPP17-03). https://www.treasury.nsw.gov.au/sit es/default/files/2017-03/TPP17-03%20NSW%20 Government%20Guide%20to%20Cost-Benefit% 20Analysis%20-%20pdf_0.pdf, 2017, (accessed 15 April 2020). [8] Nguyen Thuy Duong, Tran Tuan Anh, Mineral resource management by assessing economic, social and environmental effects. Vietnam Journal of Earth Sciences 36 (3) (2014) 204-213. vista.gov.vn/file_DuLieu/dataTLKHCN//CVv117 /2014/CVv117V36S32014204.pdf (in Vietnamese). [9] Duong Thi Thanh Xuyen, Tran Nghi, Do Thi Ngoc Thuy, Nguyen Dinh Thai, Do Manh Thuan, Cost benefit analysis of the exploitation of several important natural resources in the Coastal Zone in Binh Thuan Province, VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences 33(3) (2017) 79-86. https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuee s.4124 (in Vietnamese). [10] Nguyen Quang Ha, Identification discount rate in asset pricing and project analysis, Vietnam Journal of Forestry Science and Technology 01 (2014) 103-108. LKHCN//CVv421/2014/CVv421S012014103.pdf (in Vietnamese). [11] VINACOMIN, Environmental Impact Assessment Report of Lam Dong bauxite-alumina complex, Hanoi, 2009 (in Vietnamese). [12] VINACOMIN, Environmental Impact Assessment Report of Nhan Co bauxite-alumina complex, Hanoi, 2010 (in Vietnamese). [13] People's Committee of Lam Dong, Decision on unit price of replacement afforestation; afforestation after clearance; afforestation under the program of sustainable forest protection and development in Lam Dong province, No.994/QD -UBND, Lam Dong, May 2016. https://thuvienphapluat.vn/van- ban/tai-chinh-nha-nuoc/Quyet-dinh-994-QD-UB ND-don-gia-trong-rung-thay-the-trong-rung-sau- giai-toa-Lam-Dong-2016-311539.aspx (in Vietnamese). [14] Luu Duc Hai, Technology for alumina production and environmental issues arising in alumina production technology in Vietnam, Vietnam Journal of Environmental Economics 153 (2019) 48-53. https://kinhtemoitruong.vn/bao-giay/tap-chi - kinh-te-moi-truong-so-153-thang-82019.paper (in Vietnamese).
File đính kèm:
- phan_tich_chi_phi_loi_ich_mo_rong_hoat_dong_khai_thac_che_bi.pdf