Nhu cầu chăm sóc điều dưỡng tại nhà của bệnh nhân đái tháo đường Týp 2 có biến chứng
Xác định tỷ lệ, lý do của người bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 có biến chứng có nhu cầu được chăm sóc điều dưỡng (CSĐD) tại nhà, và mối liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu học với nhu cầu CSĐD tại nhà.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Nhu cầu chăm sóc điều dưỡng tại nhà của bệnh nhân đái tháo đường Týp 2 có biến chứng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhu cầu chăm sóc điều dưỡng tại nhà của bệnh nhân đái tháo đường Týp 2 có biến chứng
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 182 NHU CẦU CHĂM SÓC ĐIỀU DƯỠNG TẠI NHÀ CỦA BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÝP 2 CÓ BIẾN CHỨNG Cao Thị Ngọc Bích*, Janet Houser**, Trần Thiện Trung*** TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định tỷ lệ, lý do của người bệnh đái tháo đường (ĐTĐ) týp 2 có biến chứng có nhu cầu được chăm sóc điều dưỡng (CSĐD) tại nhà, và mối liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu học với nhu cầu CSĐD tại nhà. Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang mô tả, được tiến hành trên 106 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có biến chứng đang điều trị ở bệnh viện Nguyễn Tri Phương trong khoảng thời gian từ tháng 1/2013 đến 3/2013. Kết quả: Có 45,3% người bệnh ĐTĐ týp 2 biến chứng đang điều trị tại bệnh viện có nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc điều dưỡng tại nhà. Lý do người bệnh cần CSĐD tại nhà là: 79% do thủ tục bệnh viện phức tạp và thời gian chờ khám lâu; người bệnh muốn được chăm sóc an toàn, thoải mái, riêng tư, được điều dưỡng chăm sóc theo yêu cầu là 90%; không có thời gian đến bệnh viện và ít tốn kém hơn so với điều trị nội trú là 30%, không đi đến bệnh viện được 58%; không muốn nằm viện 76%; muốn hướng dẫn cho gia đình kiến thức để chăm sóc họ tốt hơn 95%; gia đình neo đơn không có người chăm sóc 50%. Liên quan giữa trình độ học vấn, điều trị nội và ngoại trú, đã từng được chăm sóc tại nhà với nhu cầu CSĐD tại nhà có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kết luận: Bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có biến chứng đang điều trị tại bệnh viện có nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc điều dưỡng tại nhà. Để phát triển các nhu cầu và nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh của bệnh nhân ĐTĐ týp 2, ngành y tế trong đó có các bệnh viện nên triển khai phục vụ nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng và cấp thiết của người bệnh Từ khóa: ĐTĐ týp 2 có biến chứng; chăm sóc điều dưỡng tại nhà. ABSTRACT RESEARCH ON NEED FOR NURSING CARE AT HOME OF TYPE 2 DIABETIC PATIENTS WITH COMPLICATION Cao Thi Ngoc Bich, Janet Houser, Tran Thien Trung * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 4 ‐ 2013: 182 ‐ 188 Objective: To determine the ratio and the causes of type 2 diabetic patients with complications interest in receiving nursing care at home. To determine the relationship among characteristics of demographic with using nursing care at home. Patients and method: Cross‐sectional descriptive design, 106 type 2 diabetic patients with complications who have been hospitalized to receive treatment at Nguyen Tri Phuong hospital during from January, 2013 to March, 2013. Results: 45.3% type 2 diabetic patients with complications who have been hospitalized want to nursing home care services. The reason for patients need nursing care at home: paper procedures at hospital are * Trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch, thành phố Hồ Chí Minh ** Friendship Bridge Group ‐ Đại học Regis, Denver, Colorado – USA. *** Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: CN Cao Thị Ngọc Bích, ĐT: 0984037426 Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 183 complicated and takes too long to wait 79%, healthcare at home makes them feel more comfortable, safer, more thoroughly, take care upon demand by the nurse that satisfied 90% , do not have time to go to hospitals and more cost‐saving compared to prolonged admission 30% , cannot go to hospitals by themself 58% , do not want to admit to the hospital 76% , assist their family with appropriate knowledge to take care of them 95%, their family does not have time to take care of 50% . The relationship between education level, outpatient or inpatient and has been taken care by home care with needs of nursing care at home are statistically significant with p <0.05. Conclusion: Type 2 diabetic patients with complications have the needs for nursing care at home. To develop need for nursing home care and improve the efficiency of health care patients with type 2 diabetes, the health sector including the hospitals should be deploy serving in order to meet the legitimate needs and urgency of the patient. Keywords: type 2 diabetes with complications, nursing care at home ĐẶT VẤN ĐỀ Theo thống kê của Tổ chức y tế thế giới (WHO), bệnh đái tháo đường týp 2 chiếm vào khoảng 85‐95% tổng số người mắc bệnh đái tháo đường(7). Đái tháo đường được xem là dịch bệnh của toàn cầu. Theo CDC, ở Mỹ năm 2011 bệnh ĐTĐ có 25,8 triệu người mắc chiếm 8,3% dân số(2). Năm 2025 sẽ có 300‐330 triệu người mắc bệnh ĐTĐ, chiếm tỷ lệ 5,4% dân số toàn cầu. Ở Việt Nam, theo Tạ Văn Bình(16) năm 2006, tỷ lệ mắc bệnh ở các thành phố lớn gồm Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh là 4% . Ngày càng có nhiều lý do người ta lo ngại với bệnh đái tháo đường và các biến chứng của bệnh, hàng năm có 17 triệu người tử vong do các biến chứng tim mạch, mạch máu ngoại vi và đột quỵ, tỷ lệ bệnh ĐTĐ ở nước ta sẽ tăng nhanh, tăng cao gây ra gánh nặng cho nền kinh tế‐ xã hội. Các bệnh viện Trung ương tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hiện đang trong tình trạng quá tải trầm trọng(9), làm gia tăng nguy cơ nhiễm trùng bệnh viện, tăng chi phí điều trị và giảm chất lượng chăm sóc người bệnh. Hiện nay nhu cầu về chăm sóc y tế có chất lượng cao đang ngày càng gia tăng ở mọi quốc gia, sự gia tăng dân số người cao tuổi với các bệnh mạn tính làm tăng nhu cầu chăm sóc y tế đặc biệt là các quốc gia đang phát triển như ở Việt Nam. Ở Mỹ chăm sóc tại nhà có thể thay thế cho chăm sóc người bệnh tại bệnh viện và có thể giúp cho bệnh nhân được xuất viện sớm giảm chi phí điều trị, số bệnh nhân được chăm sóc tại nhà ở Mỹ năm 1998 là 6,4% tăng lên 9,9 % năm 2008(2). Tại Việt Nam năm 2010, theo nghiên cứu của Bùi Thùy Dương(1) bệnh nhân ... phức tạp và thời gian chờ khám lâu; Thái độ phục vụ của nhân viên y tế (NVYT) không hài lòng là 27%, người bệnh muốn đươc chăm sóc an toàn, thoải mái, riêng tư, được điều dưỡng hài lòng chăm sóc theo yêu cầu là 90%; không có thời gian đến bệnh viện và ít tốn kém hơn so với điều trị nội trú là 30%, không đi đến bệnh viện được 58%; không muốn nằm viện 76%; muốn hướng dẫn cho gia đình kiến thức để chăm sóc họ tốt hơn 95%; kinh tế gia đình đủ khả năng chi trả chi phí 58%; gia đình neo đơn không có người chăm sóc 50%. Mối liên quan đặc tính nhân khẩu học và nhu cầu CSĐD tại nhà Bảng 4: Mối liên quan giữa đặc tính khẩu học và nhu cầu CSĐD tại nhà Đặc tính dân số học Có nhu cầu CSĐD tại nhà n (%) Giá trị p Tỷ số chênh (KTC 95%) Có Không Điều trị Nội trú 43 (56,6) 33 (43,4) <0,001 0,23 (0,06-0,75) Ngoại trú 5 (16,7) 25 (83,3) Học vấn Mù chữ 10 (71,4) 4 (28,6) 0,03 1 Tiểu học 22 (50) 22 (50) 0,69 (0,5-0,96) Phổ thông cơ sở 6 (31,6) 3 (68,4) 0,48 (0,25-0,94) Phổ thông trung học 5 (33,3) 10 (66,7) 0,34 (0,12-0,91) ≥Trung cấp 5 (35,7) 9 (64,3) 0,24 (0,06-0,88) Đã từng được CSĐD tại nhà Có 26 (66,7) 13 (33,3) <0,001 4,09 (1,63-10,36) Không 22 (32,8) 45 (67,2) Nhận xét: Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 186 ‐ Liên quan giữa người bệnh điều trị nội trú và ngoại trú với nhu cầu chăm sóc điều dưỡng tại nhà có ý nghĩa thống kê với p <0,001. ‐ Liên quan giữa học vấn với nhu cầu chăm sóc điều dưỡng tại nhà có ý nghĩa thống kê với p=0,03. ‐ Liên quan giữa người bệnh ĐTĐ đã từng chăm sóc điều dưỡng tại nhà trước đây với nhu cầu chăm sóc điều dưỡng tại nhà hiện tại có ý nghĩa thống kê với p<0,001 BÀN LUẬN Nhu cầu chăm sóc điều dưỡng tại nhà của người bệnh ĐTĐ Nhóm đối tượng ĐTĐ týp 2 có biến chứng đang điều trị tại bệnh viện phần lớn là 60‐69 tuổi chiếm 36,79%, nữ nhiều hơn nam tỷ lệ 2/1và trình độ học vấn thấp, tiểu học chiếm tỷ lệ cao nhất 41,5% Nhu cầu CSĐD tại nhà của người bệnh ĐTĐ týp 2 có biến chứng là 45,3%, vì vậy việc triển khai dịch vụ y tế tại nhà là cần thiết đối với các bệnh mạn tính. Đây thực sự là vấn đề mà ngành y tế cần quan tâm, vừa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc nâng cao sức khỏe cho người dân, vừa tận dụng được sức lao động trong ngành đồng thời cải thiện đời sống của cán bộ y tế, đặc biệt là điều dưỡng. Theo Fraser(5), trong tương lai khi dân số có tuổi thọ ngày một tăng cao, thì nhu cầu sử dụng chăm sóc tại nhà sẽ tăng theo để cung cấp dịch vụ chăm sóc người bệnh hiệu quả. Khi người bệnh khó khăn về tài chính, giường bệnh tại bệnh viện bị giảm thì việc chăm sóc sẽ được chuyển từ môi trường bệnh viện ra ngoài nhà của người bệnh(3), điều đó đặt ra cho ngành y tế ngoài việc cần phải nâng cao chất lượng phục vụ thì cần phải đa dạng hoá các loại hình về chăm sóc điều dưỡng cho người bệnh. Trong các nhu cầu về chăm sóc điều dưỡng tại nhà thì nhu cầu về kiểm tra huyết áp là nhiều nhất do phần lớn người bệnh có tăng huyết áp. Người bệnh có ý thức cao về tình trạng bệnh và việc kiểm tra huyết áp thường xuyên giúp phát hiện sớm các biến chứng tim mạch để có hướng tự chăm sóc bản thân. Theo nghiên cứu về nhu cầu chăm sóc điều dưỡng bệnh đái tháo đường ở nhà và theo hướng dẫn của Bang Argyll và Clude ở Anh thì kiểm tra huyết áp ít nhất trung bình một lần một tháng là cần thiết và phổ biến chiếm 73% (6). Kết quả các loại hình chăm sóc mà người bệnh cần tại nhà trong của nghiên cứu chúng tôi phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị Ly(13) là trên 50% người dân có nhu cầu thay băng, truyền dịch, đo huyết áp, tiêm thuốc, khám và tư vấn sức khỏe tại nhà. Theo hiệp hội Y khoa của Mỹ (JAMA)(14) chăm sóc tại nhà giúp phát hiện các vấn đề về y tế, và qua chăm sóc, điều dưỡng hiểu người bệnh hơn về sự tuân thủ dùng thuốc khi ở nhà, cung cấp các thông tin quan trọng giúp tổng hợp các vấn đề về sức khỏe của người bệnh và các điều kiện khác của như tình trạng tự vệ sinh cá nhân, dinh dưỡng, sự hỗ trợ người thân và khả năng lạm dụng thuốc của người lớn tuổi. Vì vậy vai trò của người điều dưỡng ngày càng có có tầm quan trọng trong các dịch vụ chăm sóc tại nhà, và cũng chính là người có trách nhiệm trong quá trình chăm sóc và giáo dục cho người bệnh(6). Ý kiến về lý do lựa chọn CSĐD tại nhà của bệnh nhân Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 79,2% người bệnh cho rằng lý do họ lựa chọn CSSK tại nhà là do bệnh viện có thủ tục hành chính phức tạp và chờ khám quá lâu. Đi khám bệnh phải đi từ sáng sớm lúc 4‐ 5h đến để chờ đợi bốc số chờ đến lượt khám, và phải nhịn ăn để chờ khám nên cảm thấy rất mệt mỏi với việc chờ đợi quá lâu đến lượt mình và phải qua nhiều khâu nhiều cửa để hoàn thành thủ tục thanh toán. Trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Cư(12), cho thấy tình trạng quá tải bệnh nhân tại phòng khám ngoại trú vượt chỉ tiêu từ 14,4% đến 145%, và sử dụng giường bệnh vượt công suất từ 107% đến 130% do đó gây nên tình trạng chờ khám của bệnh nhân quá lâu vì quá tải. Vì vậy, theo Bùi Thùy Dương(1), bệnh viện có thể giải quyết tình trạng này bằng cách tăng thời gian khám bệnh ngoài Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 187 giờ, kể cả khám vào thứ bảy và chủ nhật. Việc triển khai khám bệnh tại nhà, nhất là khám và điều trị các bệnh thông thường cũng như chăm sóc điều dưỡng đối với các bệnh mạn tính là giải pháp có thể giúp giảm bớt tình trạng quá tải cho các bệnh viện tuyến trên như hiện nay. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ người bệnh không tự đi đến bệnh viện được là 58%, số người bệnh còn lại lựa chọn chăm sóc tại nhà vì tiện lợi và phù hợp với tình trạng bệnh của họ. Theo tạp chí Y khoa của Mỹ (JAMA), chăm sóc tại nhà thích hợp cho bệnh nhân có khó khăn đến phòng khám của bác sĩ và bệnh viện, đặc biệt những người có biến chứng về mắt, về vận động, và có khó khăn về khả năng di chuyển bằng xe cộ(8). Bên cạnh đó, tỷ lệ người bệnh không muốn nhập viện là 76% nên lựa chọn chăm sóc điều dưỡng tại nhà sẽ giúp phục hồi bệnh nhanh hơn, người bệnh cảm thấy an toàn, thỏa mái hơn, và muốn được chăm sóc riêng trên 95%. Theo tạp chí Y khoa của Mỹ(8) chăm sóc tại nhà, bệnh nhân và gia đình họ thường dễ chịu, thoải mái hơn, nhân viên y tế lịch sự, dễ chịu hơn khi ở bệnh viện nên họ cảm thấy thỏa mái hơn. Liên quan đến chi phí chăm sóc tại nhà, 35,4% người bệnh cho rằng ít tốn kém hơn so với nằm viện phù hợp với nghiên cứu của Elliott(4) và Raphael(15). Hầu hết người bệnh lớn tuổi, sống phụ thuộc vào người thân nên gia đình rất quan trọng đến quyết định việc họ có nhu cầu hay không. Kết quả cho thấy tỷ lệ người bệnh muốn người nhà họ có kiến thức đúng để chăm sóc họ và gia đình mong muốn cho người bệnh được chăm sóc tốt, an toàn, thỏa mái hơn là 94%. Theo nghiên cứu của Magdalena(11) ở Thụy Điển, gia đình người bệnh hỗ trợ rất nhiều trong chăm sóc như tiêm Insulin, kiểm tra đường huyết, thay băng vết thương cho người bệnh. Điều dưỡng có trách nhiệm giáo dục bệnh nhân, thân nhân người bệnh và phối hợp trong chăm sóc bệnh nhân(6). Một trong những lý do quan trọng mà người bệnh cần chăm sóc điều dưỡng tại nhà là 50% người bệnh cho rằng do gia đình neo đơn, nếu họ phải nằm viện thì không có ai chăm sóc con cái, nhà cửa, phải nằm bệnh viện một mình, người thân không có và khi nằm viện không ai chăm sóc. Khi được chăm sóc tại nhà họ sẽ giải tỏa được nỗi lo này mà vẫn điều trị được bệnh tốt. Liên quan giữa đặc điểm nhân khẩu, xã hội học, đặc điểm lâm sàng và nhu cầu CSĐD tại nhà Trong nghiên cứu của chúng tôi, người bệnh nội trú có nhu cầu chăm sóc tại nhà bằng 0,23 lần cao hơn so với người bệnh ngoại trú (KTC 95%: 0,06‐0,75). Liên quan giữa người bệnh điều trị nội trú và ngoại trú với nhu cầu CSĐD có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Điều đó cho thấy có thể do người bệnh nội trú đang nằm viện nên họ thấy được tầm quan trọng của việc chăm sóc điều dưỡng tại nhà của nhân viên y tế sẽ hiệu quả hơn. Liên quan giữa trình độ học vấn và nhu cầu CSĐD tại nhà khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0,03. Như vậy khi bệnh nhân trình độ học vấn càng thấp thì có nhu cầu CSĐD tại nhà càng tăng và gấp 0,69 lần so với người có trình độ cao hơn (KTC 95%: 0,5‐0,96). Như vậy đối với những bệnh nhân có trình độ thấp thì khả năng hiểu biết về bệnh của họ cũng thấp, do đó người điều dưỡng khi chăm sóc phải chú ý giải thích, tư vấn cho người bệnh nhiều hơn để giảm các biến chứng xảy ra đồng thời chúng ta phải xây dựng chương trình giáo dục sức khỏe cho người bệnh có trình độ thấp để hướng dẫn cho phù hợp. Liên quan giữa người bệnh đã từng được chăm sóc tại nhà với nhu cầu CSĐD tại nhà có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Người bệnh ĐTĐ đã từng sử dụng dịch vụ CSĐD tại nhà có nhu cầu chăm sóc cao gấp 4,09 lần so với người chưa từng sử dụng dịch vụ (KTC 95%:1,63‐10,3). Khi bệnh viện chưa triển khai CSĐD tại nhà thì có 36,8% người bị bệnh ĐTĐ đã từng yêu cầu và sử dụng dịch vụ chăm sóc tại nhà của nhân viên y tế. Trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Ly(13), có 40,3% những người được hỏi đã và đang sử Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 4 * 2013 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 188 dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà cho thấy nhu cầu CSĐD tại nhà hiện nay của người bệnh là tương đối cao. KẾT LUẬN Bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có biến chứng đang điều trị tại bệnh viện có nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc điều dưỡng tại nhà. Để phát triển các nhu cầu chăm sóc điều dưỡng tại nhà và nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh của bệnh nhân ĐTĐ týp 2, ngành y tế trong đó có các bệnh viện nên triển khai phục vụ nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng và cấp thiết của người bệnh Việc xây dựng chương trình giáo dục cho người bệnh ĐTĐ tự chăm sóc cũng như khuyến khích người bệnh tìm hiểu về chăm sóc điều dưỡng tại nhà sẽ mang lại hiệu quả cao và tiết kiệm về chi phí hơn so với chăm sóc tại bệnh viện. Vì vậy cần phát triển mạng lưới điều dưỡng cộng đồng để hỗ trợ chăm sóc cho người bệnh mạn tính tại nhà. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Thùy Dương (2010). Khảo sát nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngoài giờ và tại nhà của bệnh nhân và người nhà bệnh nhân đến khám bệnh tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội Luận văn tốt nghiệp bác sĩ đa khoa, Đại học Y Hà Nội, tr.1‐88. 2. Centers for Disease Control and Prevention‐CDC (2011). National diabetes fact sheet: national estimates and general information on diabetes and prediabetes in the United States, accessed on 15 May 2013. 3. Department of Health (2003). Care homes for older people, national minimum standards and the care homes regulations. 4. Elliott RA, Thornton J, Webb AK, Dodd M, Tully MP (2005). Comparing costs of home‐ versus hospital‐based treatment of infections in adults in a specialist cystic fibrosis center. International Journal of Technology assessment in health care financing review, 21 (4), pp.506‐510. 5. Fraser KD (2003). Are home care programs cost‐ effective? A systematic review of the literature. Care Management Journals 4(4), pp.198‐201. 6. International Council of Nurses (2000). Position statement: assistive or support nursing personnel. 7. International Diabetes Federation (2008). The example of diabetic foot care shows that investing in early detection and early intervention is cost effective, ‐ wpr‐bangkok, accessed on 5 Feb 2013. 8. Denson KM (2003). Home care. The Journal of the American Medical Association (JAMA), pp.1‐3. 9. Khương Anh Tuấn và cộng sự (2008). Đánh giá tình hình quá tải của một số bệnh viện tại Hà Nội & thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất giải pháp khắc phục. Viện chiến lược và chính sách y tế, tr.1‐3. 10. Frank LR (2012). Is home health care a substitute for hospital care?. Home health care services quarterly, 31 (1), 84‐1094. 11. Gershater MA, Pilhammar E, and Roijer CA (2010). Documentation of diabetes care in home nursing sservice in a Swedish municipality: a cross‐sectional stusy on nurses documentation. Scandinavian Journal of Caring Sciences, 25, pp.220‐226. 12. Nguyễn Văn Cư (2010). Xác định vì sao nhiều bệnh nhân đến khám tại các bệnh viện chuyên khoa thành phố Hồ Chí Minh. Y học thành phố Hồ Chí Minh, 14, tr.212‐217. 13. Nguyễn Thị Ly (2009). Khảo sát nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc y tế tại nhà của nhân dân trên địa bàn thành phố Hải Dương. Kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học điều dưỡng, 4, tr.78‐84. 14. Limekiln PL (2003). Home health care and diabetes assessment, care, and education, lifestyle and behavior. Diabetes spectrum 16, pp.4. 15. Raphael R, Yves D, Giselle C, Magali M, Odile C M (2005). Cancer treatment at home or in the hospital: What are the costs for French public health insurance? Findings of a comprehensive‐cancer centreʺ. Health Policy 72 (2), pp.141‐ 148. 16. Tạ Văn Bình (2006). Thực trạng bệnh đái tháo đường và những nguy cơ tại 4 thành phố lớn Việt Nam ‐ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nhà xuất bản y học, Hà Nội. Ngày nhận bài 27/07/2013. Ngày phản biện nhận xét bài báo 04/09/2013. Ngày bài báo được đăng: 18/10/2013
File đính kèm:
- nhucauchamsocdieuduongtainhacuabenhnhan_daithaoduongtyp2cobi.pdf