Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh lý khớp vai

Phẫu thuật nội soi (PTNS) khớp vai là một kỹ thuật khó và mới được thực hiện tại bệnh viện Trung ương Huế trong những năm gần đây. Chưa có một nghiên cứu đánh giá chung về kỹ thuật này.

Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh lý khớp vai trang 1

Trang 1

Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh lý khớp vai trang 2

Trang 2

Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh lý khớp vai trang 3

Trang 3

Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh lý khớp vai trang 4

Trang 4

Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh lý khớp vai trang 5

Trang 5

Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh lý khớp vai trang 6

Trang 6

Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh lý khớp vai trang 7

Trang 7

pdf 7 trang Danh Thịnh 13/01/2024 1520
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh lý khớp vai", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh lý khớp vai

Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số bệnh lý khớp vai
61
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Đình Khoa, email: khoahue2003@gmail.com
Ngày nhận bài: 12/10/2019; Ngày đồng ý đăng: 22/11/2019; Ngày xuất bản: 28/12/2019
Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị một số 
bệnh lý khớp vai
Nguyễn Đình Khoa1,2, Nguyễn Văn Hỷ2
(1) Nghiên cứu sinh Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(2) Trung tâm Chấn thương & Phẫu thuật tạo hình, Bệnh viện Trung ương Huế
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi (PTNS) khớp vai là một kỹ thuật khó và mới được thực hiện tại bệnh viện 
Trung ương Huế trong những năm gần đây. Chưa có một nghiên cứu đánh giá chung về kỹ thuật này. Mục 
tiêu: Nghiên cứu triệu chứng và đánh giá kết quả PTNS khớp vai tại Bệnh viện Trung ương Huế. Đối tượng 
và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu 38 bệnh nhân được PTNS khớp vai tại bệnh viện Trung ương 
Huế từ tháng 6/2016 đến 3/2019. Đánh giá kết quả sau 6 tháng. Kết quả: Bệnh nhân mất vững khớp vai 
chiếm 61,5%, rách chóp xoay 30,8% và hội chứng bắt chẹn 7,7%. Độ tuổi trung bình 43,8 nam nhiều hơn nữ 
(P<0,05). Triệu chứng đau 100% ở nhóm bệnh lý chóp xoay và 30,4% ở nhóm mất vững, MRI phát hiện tổn 
thương 30,4% ở nhóm mất vững và 100% ở nhóm bệnh lý chóp xoay. Rách sụn viền trước chiếm 95,7% ở 
nhóm mất vững và rách gân cơ trên gai chiếm 91,7% ở nhóm rách chóp xoay. Kết quả tốt và rất tốt ở nhóm 
mất vững là 85% và nhóm bệnh lý chóp xoay là 91,3%. Kết luận: Kết quả PTNS khớp vai tại bệnh viện Trung 
ương Huế có kết quả tốt và rất tốt chiếm tỉ lệ cao.
Từ khóa: phẫu thuật nội soi, mất vững, rách chóp xoay.
Abstract
Research appling arthroscopy in treatment of some shoulder’s diseases
Nguyen Dinh Khoa1,2, Nguyen Van Hy2
(1) PhD Student of Hue University of Medicine and Pharmacy, Hue University
(2) Center of Plastic & Orthopeadic Surgery, Hue Central Hospital
Background: Shoulder athroscopy is a difficult procedure and have been appling in Hue Central Hospital 
in recent years. There was not any general research for this yet. Objective: To research symptoms and evalu-
ate the result of shoulder arthroscopy. Subject and methods: Following research 38 patients who underwent 
shoulder arthroscopy in Hue Central Hospital from 6/2016 to 3/2019, assess after 6 months. Results: Insta-
bility shoulder was 61.5%, rotator cuff tear was 30.8% and impingement was 7.7%. Mean age was 43.8 and 
male was higher than female (p<0.05). Pain symtom is 100% in rotator cuff disease and 30.4% in instability, 
MRI found out injury 30.4 and 100% in instability and rotator cuff group, respectively. Anterior labral tear 
was 95.7% in instability group and supraspinatus tendon tear was 91.7% in rotator cuff tear group. Good and 
excelent result were 85% and 91.3% after 6 month in instability and rotator cuff group, respectively. Conclu-
sion: Result of shoulder arthroscopy was good in Hue Central hospital.
Keywords: arthroscopy, instability, rotator cuff tear
DOI: 10.34071/jmp.2019.6_7.9
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự phát triển của PTNS khớp đã giúp ích trong 
việc tiếp cận, thay đổi chẩn đoán và điều trị các bệnh 
lý của khớp. Trong PTNS khớp, PTNS khớp vai là một 
kỹ phẫu thuật khó, đòi hỏi kỹ thuật và kinh nghiệm. Ở 
Việt Nam, PTNS khớp vai mới phát triển và phổ biến 
trong một thập kỷ qua [2],[4],[10]. Các bệnh lý khớp 
vai được phẫu thuật bằng nội soi phổ biến là mất 
vững khớp vai, rách chóp xoay, hội chứng bắt chẹn 
khoang dưới mỏm cùng vai, cứng khớp vaiVới các 
bệnh lý trên, phẫu thuật mở thường có nhiều hạn 
chế, hiệu quả thấp. PTNS khớp vai cho phép quan 
sát rõ khớp vai, đánh giá được tổn thương và xử lý 
ngay thông qua nội soi, ít gây thương tổn các cấu 
trúc kế cận, có nhiều ưu điểm về thẩm mỹ, rút ngắn 
thời gian nằm viện. Tuy nhiên, đòi hỏi phẫu thuật 
viên phải được đào tạo bài bản và dụng cụ, phương 
tiện đầy đủ Do đó chỉ có các cơ sở y tế chuyên sâu 
mới thực hiện được [12][15].
Tại bệnh viện Trung ương Huế, chưa có một ng-
hiên cứu nào để đánh giá việc ứng dụng PTNS khớp 
vai, do đó chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu 
ứng dụng PTNS trong điều trị một số bệnh lý khớp 
62
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
vai” nhằm mục tiêu: 1. Nghiên cứu các đặc điểm lâm 
sàng và cận lâm sàng của một số bệnh lý trong PTNS 
khớp vai. 2. Đánh giá kết quả điều trị bằng PTNS đối 
với một số bệnh lý khớp vai.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
Gồm 38 bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị 
phẫu thuật bằng kỹ thuật nội soi khớp vai tại Bệnh 
viện Trung ương Huế từ tháng 6 năm 2016 đến 
tháng 3 năm 2019.
Đối với bệnh lý mất vững khớp vai: Có một trong 
hai tiêu chuẩn trước phẫu thuật là: Có bệnh sử trật 
khớp vai tái diễn; hoặc được chẩn đoán mất vững 
khớp vai bằng đánh giá một trong các nghiệm pháp 
mất vững khớp vai dương tính
Đối với bệnh lý rách chóp xoay: Khám lâm sàng 
có một trong các nghiệm pháp chóp xoay dương 
tính, MRI (Magnetic resonance imaging) có rách 
chóp xoay, điều trị bảo tồn 3 tháng không cải thiện/
hoặc chẩn đoán và khâu chóp xoay trong nội soi.
Đối với bệnh lý bắt chẹn khoang dưới mỏm cùng 
vai: Được chẩn đoán hội chứng bắt chẹn, điều trị bảo 
tồn trên 6 tháng không cải thiện, điều trị bằng PTNS 
và trong phẫu thuật không ghi nhận tổn thương rách 
chóp xoay
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Mất xương ổ chảo trên 25% đối với các trường 
hợp mất vững. 
Bệnh nhân được thực hiện cả mổ mở kết hợp 
với nội soi.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu theo phương pháp theo dõi dọc.
Thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng, can thiệp 
phẫu thuật, theo dõi, tái khám. Sử dụng các thang 
điểm Rowe và thang điểm UCLA (University of Cali-
fornia, Los Angeles) để đánh giá. 
Nghiên cứu các đặc điểm chung, các bệnh lý 
khớp vai được điều trị bằng PTNS, các triệu chứng 
lâm sàng và cận lâm sàng, các thương tổn trong 
phẫu thuật, các kỹ thuật-phương tiện được sử d ... chiếm 7,7%, 23 bệnh nhân mất vững khớp 
vai chiếm 61,5%, và 11 bệnh nhân rách chóp xoay 
chiếm 30,8%. Trong các bệnh nhân mất vững khớp 
vai, 22/23 bệnh nhân là mất vững phía trước do tổn 
thương Bankart, một bệnh nhân tổn thương SLAP. 
Một số nghiên cứu cho thấy tỉ lệ trật khớp vai là 
0,08/1000 người, trong khi đó tỉ lệ rách chóp xoay 
không triệu chứng ở người dưới 40 tuổi là 4%, ở 
người trên 60 tuổi là 54% và 50% số người bị rách 
chóp xoay không triệu chứng sẽ trở thành có triệu 
chứng trong vòng 3 năm.
4.3. Các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
4.3.1. Triệu chứng cơ năng
Đối với bệnh lý chóp xoay, 100% bệnh nhân đều 
có triệu chứng đau, đây là triệu chứng điển hình của 
hội chứng chóp xoay. Đối với 4 bệnh nhân có hội 
chứng bắt chẹn, 100% bệnh nhân đều có hạn chế 
vận động và hạn chế sinh hoạt. Đau, hạn chế vận 
động và hạn chế sinh hoạt là nguyên nhân chính để 
các bệnh nhân bị hội chứng bắt chẹn đến khám bác 
sĩ chấn thương chỉnh hình. Đối với nhóm rách chóp 
xoay, 10/11 bệnh nhân (chiếm 90,9%) bị hạn chế vận 
động và hạn chế sinh hoạt.
4.3.2. Triệu chứng thực thể
100% bệnh nhân có nghiệm pháp Neer dương 
tính. Nghiệm pháp Jobe dương tính chiếm 93,3% 
các trường hợp rách chóp xoay phù hợp với tỉ lệ 
bệnh nhân bị rách gân cơ trên gai. Đối với nhóm mất 
vững, các nghiệm pháp đánh giá mất vững khớp vai 
đều có tỉ lệ dương tính cao, phù hợp với tỉ lệ cao 
của trật tái phát nhiều lần và phù hợp với cơ chế 
mất vững.
4.3.3. Triệu chứng cận lâm sàng
Hình ảnh MRI trong nhóm bệnh nhân tổn 
thương mất vững, chỉ có 7/23 bệnh nhân được ghi 
nhân tổn thương sụn viền. Theo nghiên cứu trên xác 
của Kreiter và cộng sự, độ nhạy của MRI khảo sát 
sụn viền chỉ 30% [1]. Đối với hội chứng bắt chẹn, 
1/4 trường hợp MRI ghi nhận rách gân cơ trên gai, 
nhưng trong phẫu thuật chỉ ghi nhận được thoái hóa 
gân cơ trên gai. Đối với các trường hợp rách chóp 
xoay, tỉ lệ ghi nhân có tổn thương rách gân cơ trên 
gai chiếm 90,9. MRI là phương tiện chẩn đoán khá 
chính xác trong rách chóp xoay và giúp cho phẫu 
thuật viên ra quyết định phẫu thuật [18]. Trong rách 
chóp xoay các nghiên cứu cho thấy MRI có độ nhạy 
đến 91% và độ đặc hiệu đến 97% đối với trường hợp 
rách toàn phần chóp xoay, đối với rách bán phần các 
tỉ lệ này thấp hơn nhiều [7].
4.4. Đánh giá trong phẫu thuật
4.4.1. Đánh giá các tổn thương trong nội soi
Trong 10 trường hợp rách gân cơ trên gai, có 
1 trường hợp rách hình chữ L và một trường hợp 
rách hình chữ V, còn lại rách ngang hoàn toàn. Có 
3 trường hợp tổn thương gân cơ nhị đầu, trong đó 
một trường hợp đứt hoàn toàn và 2 trường hợp đứt 
bán phần.
Đối với 4 trường hợp hội chứng bắt chẹn, trong 
phẫu thuật ghi nhận đều có viêm dày thoái hóa 
bao hoạt dịch khoang dưới mỏm cùng vai, không 
phát hiện tổn thương rách chóp xoay hoặc các tổn 
thương khác.
Với 23 trường hợp mất vững khớp vai, chiếm tỉ 
lệ cao nhất là rách sụn viền trước chiếm tỉ lệ 95,7%, 
Trong nghiên cứu của Nguyễn Trọng Anh, tỉ lệ rách 
sụn viền trước đơn thuần cũng chiếm 73,8%, tuy 
nhiên tổn thương Hill-Sachs chiếm tỉ lệ đến 40,47%, 
ngoài ra, Nguyễn Trọng Anh còn ghi nhận các tổn 
thương phối hợp khác như vỡ xương, mất sụn, giãn 
bao khớpVới tỉ lệ các tổn thương phối hợp cao, 
khả năng phục hồi cơ năng sau phẫu thuật sẽ giảm 
xuống [1].
Với 11 trường hợp tổn thương rách chóp xoay, có 
10 bệnh nhân (91,7%) ghi nhận rách gân cơ trên gai, 
trong đó có 3 trường hợp rách gân cơ nhị đầu phối 
hợp. 1/11 trường hợp (8,3%) rách đơn thuần gân cơ 
dưới gai. Trong rách chóp xoay, tổn thương thường 
gặp là rách gân cơ trên gai. Đây là vị trí thường gặp 
và thường được phát hiện trên lâm sàng rõ bằng 
nghiệm pháp Jobe. Nghiên cứu của Tăng Hà Nam 
Anh thì tổn thương phối hợp rách sụn viền SLAP là 
21/199 bệnh nhân (10,6%), rách gân cơ nhị đầu là 
15/199 bệnh nhân (12,6%).
Trong 10 trường hợp rách gân cơ trên gai, có 2 
trường hợp rách hình chữ L, còn lại rách ngang hoàn 
toàn. Với các trường hợp rách gân cơ chóp xoay 
phức tạp, khả năng phục hồi thấp và bệnh nhân 
thường đau nhiều sau phẫu thuật.
4.4.2. Các kỹ thuật, phương tiện được sử dụng 
trong phẫu thuật
Với các trường hợp mất vững, bệnh nhân được 
xử lý các tổn thương ghi nhận được. Ngoài 1 trường 
hợp tổn thương SLAP được khâu lại, các trường 
hợp còn lại đều được khâu lại sụn viền trước. Có 
1 trường tổn thương sụn viền sau được khâu phối 
hợp bằng 1 vít neo phía sau, 3 trường hợp tổn 
66
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
thương SLAP phối hợp được khâu lại, 4/22 (18,2 %) 
trường hợp được khâu bao khớp phối hợp, không 
có trường hợp nào cắt gân cơ nhị đầu. Nghiên cứu 
của Nguyễn Trọng Anh chỉ có 7,14% có khâu chồng 
bao khớp nhưng có 21,42% khâu lại khoảng gian 
chóp xoay. Trong 4 bệnh nhân bị hội chứng bắt chẹn 
đều được phẫu thuật bằng cách tạo hình khoang 
dưới mỏm cùng vai, không có bệnh nhân nào có cắt 
xương đòn phối hợp.
Đối với các trường hợp rách chóp xoay, có 2 
trường hợp sử dụng kỹ thuật 2 hàng chiếm tỉ lệ 
(18,2%). Nhiều nghiên cứu cho thấy kết quả khâu 
2 hàng tốt hơn 1 hàng chỉ trong trường hợp tổn 
thương rách chóp xoay 30mm trở lên. Tuy nhiên 
nghiên cứu của Lauren Wessel và cộng sự cho thấy 
không có sự khác biệt về kết quả giữa hai kỹ thuật 
này ngay cả với các tổn thương rách chóp xoay kích 
thước lớn [19]. Có 2/11 bệnh nhân được cắt gân cơ 
nhị đầu phối hợp. Nghiên cứu của Tăng Hà Nam Anh 
có tỉ lệ cắt gân cơ nhị đầu là (15,3%). Nghiên cứu 
thống kê của Vinesh Agarwalla và cs tại Trung tâm 
Y khoa Đại học Rush, Chicago Hoa Kỳ, từ năm 2010 
đến 2015 cho thấy tỉ lệ xử lý đồng thời gân cơ nhị 
đầu tăng lên so với trước đó [5][8].
4.5. Tai biến trong phẫu thuật
Không có bệnh nhân nào có tai biến trong lúc 
phẫu thuật.
4.6. Biến chứng sớm sau phẫu thuật
Chỉ có một bệnh nhân rỉ dịch kéo dài 10 ngày sau 
phẫu thuật. Biến chứng sau phẫu thuật có thể gặp là 
nhiễm trùng, nếu gặp phải, đầy một biến chứng gây 
phức tạp trong PTNS khớp vai. Tỉ lệ này là 0,07% nếu 
tuân thủ các điều kiện an toàn về phòng phẫu thuật, 
phẫu thuật và dụng cụ. Biến chứng hay gặp nữa là 
biến chứng thần kinh – mạch máu, biến chứng tê 
liệt hay tổn thương đứt thần kinh với tỉ lệ khoảng 
1/2.000 ca. Thường xảy ra là triệu chứng tê sau phẫu 
thuật, đa số do thời gian phẫu thuật kéo dài hoặc 
đụng chạm thần kinh gần đó, hoặc tổn thương do 
phẫu thuật, thường tự hồi phục sau 4-6 tháng 
[17]. Theo Stephen C. Weber tỉ lệ biến chứng chung 
sau PTNS khớp vai là 3,3% [17].
4.7. Đánh giá kết quả sau 6 tháng
4.7.1. Các biến chứng muộn
Không ghi nhận trường hợp nào có biến chứng 
muộn. Nghiên cứu của Nguyễn Trọng Anh chỉ có 
2/42 bệnh nhân (4,8%) bị tê cánh tay do kéo tạ.
4.7.2. Đánh giá đau sau phẫu thuật
Theo dõi sau 6 tháng, bệnh nhân chỉ còn đau 
nhẹ ở mức độ 3 trở xuống, thang điểm 0 chiếm tỉ 
lệ cao nhất là 18/32 bệnh nhân (56,25%), vẫn còn 5 
bệnh nhân cảm thấy đau nhẹ thường xuyên. Kết quả 
nghiên cứu của Nguyễn Trọng Anh, có 2/42 bệnh 
nhân được theo dõi sau 9 tháng vẫn còn đau nhẹ. 
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi là 30,7% cao hơn 
nghiên cứu của Nguyễn Trọng Anh (p<0,05).
4.7.3. Đánh giá sự vững của khớp vai
Không có bệnh nhân nào ở nhóm mất vững bị 
trật lại. Không có bệnh nhân nào dương tính với 
các nghiệm pháp mất vững khớp vai. Tuy nhiên, 
nhiều bệnh nhân tâm lý e sợ không dám vận động 
vai quá mức vì sợ trật lại như trước khi chưa phẫu 
thuật. Nghiên cứu của Weeler cho thấy có đến 22% 
trật lại khớp sau PTNS điều trị mất vững và của 
Roberto Yukio Ikemoto là 6,5% [9],[11]. Nghiên cứu 
của Alexandre Almeida và cs, mất vững chiếm 7,6% 
và trật lại chiếm đến 15,3% [18]. Trong nghiên cứu 
của Nguyễn Trọng Anh, có 1/42 bệnh nhân (2,3%) 
bị trật lại và 3/42 bệnh nhân (7,1%) có cảm giác sợ 
trật lại [1].
4.7.4. Đánh giá biên độ vận động
Có 19/32 bệnh nhân chiếm tỉ lệ 59,4% có biên 
độ vận động đạt trên 90% so với bên đối diện. Trong 
nhóm bệnh nhân bị giới hạn vận động, hầu hết bệnh 
nhân không dám thực hiện biên độ vận động quá 
mức do e sợ trật lại khớp, một số bệnh nhân bị giới 
hạn rõ mất biên độ vận động và một số bệnh nhân 
giới hạn biên độ vận động do đau. Biên độ vận động 
và chức năng khớp vai sau phẫu thuật liên quan rất 
nhiều đến phục hồi chức năng. Quan điểm phục hồi 
chức năng hiện đại là phải tập phục hồi chức năng 
phối hợp cả 3 cơ quan đó là thần kinh, cơ bắp và 
khớp [14]. Nghiên cứu của Roberto Yukio Ikemoto 
và cs cho thấy 100% bệnh nhân có giới hạn vận động 
các hướng sau mổ ngoại trừ nâng tay và xoay ngoài 
ở tư thế cánh tay dạng 900 [11].
4.7.5. Đánh giá chức năng khớp vai
Tỉ lệ bệnh nhân trở lại sinh hoạt và vận động 
bình thường như trước khi chấn thương chiếm tỉ 
lệ cao nhất 39,5%, có một bệnh nhân (2,6%) bị hạn 
chế trong sinh hoạt hằng ngày. Kết quả của Nguyễn 
Trọng Anh là hầu hết bệnh nhân đều có thể trở lại 
công việc trước khi chấn thương.
4.7.6. Đánh giá kết quả bằng các thang điểm
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Trọng Anh, tỉ lệ 
tốt và rất tốt chiếm tỉ lệ 88% tương đương với kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi (p>0,05), tuy nhiên tỉ 
lệ rất tốt chiếm tỉ lệ cao hơn là 73,8% so với nhóm 
tốt là 14,2%. Nghiên cứu của Roberto Yukio Ikemoto 
theo thang điểm Rowe tốt và rất tốt chiếm 89,4%, 
theo thang điểm UCLA là tốt và rất tốt chiếm 97,4% 
[11]. Kết quả nghiên cứu của Tăng Hà Nam Anh, 
nhóm tốt và rất tốt chiếm tỉ lệ 93,06% trong đó hai 
nhóm tốt và rất tốt có tỉ lệ tương đương là cùng 
46,53%. Kết quả nghiên cứu của Kevin D. Plancher 
đối với kết quả khâu chóp xoay bị rách cũng có kết 
67
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 9, số 6+7, tháng 12/2019
quả tương tự, tốt và rất tốt chiếm tỉ lệ 94% trong đó 
rất tốt chiếm 52%, tốt chiếm 42% [1],[13].
5. KẾT LUẬN
Các bệnh lý được PTNS khớp vai chủ yếu là mất 
vững khớp vai chiếm 61,5%, rách chóp xoay chiếm 
30,8% và hội chứng bắt chẹn là 7,7%. Độ tuổi trung 
bình là 43,8, nam (76,9%) cao hơn nữ (23,1%).
Triệu chứng đau chiếm 100%, 100% và 30,4%, 
hạn chế vận động chiếm 100%, 90,9% và 24,8% 
tương ứng với hội chứng bắt chẹn, rách chóp xoay 
và mất vững. Nghiệm pháp e sợ, kéo đẩy, ngăn kéo 
dương tính chiếm tỉ lệ tương ứng là 86,9%, 91,3% và 
91,3% đối với trường hợp mất vững. Nghiệm pháp 
Jobe và Neer dương tính chiếm tỉ lệ tương ứng là 
93,3 và 100% ở nhóm bệnh lý chóp xoay. MRI phát 
hiện 30,4% trường hợp tổn thương sụn viền ở nhóm 
mất vững và 100% trường hợp rách tổn thương 
chóp xoay ở nhóm bệnh lý chóp xoay.
Kết quả sau 6 tháng, bệnh nhân hoàn toàn 
không đau chiếm 65,3%. Không có bệnh nhân nào 
bị trật khớp lại. Biên độ vận động trên 80% so với 
bên đối diện chiếm tỉ lệ 81,3%. Chức năng khớp vai 
trở lại bình thường chiếm 39,5% và chỉ hạn chế vận 
động mạnh chiếm 36,8%. Kết quả tốt và rất tốt sau 
6 tháng được đánh giá bằng thang điểm Rowe cho 
nhóm mất vững khớp vai là 85% và và UCLA cho 
nhóm bệnh lý chóp xoay là 91,3%.
1. Nguyễn Trọng Anh (2007), Điều trị mất vững 
trước khớp vai do tổn thương Bankart qua nội soi, Luận 
án chuyên khoa II, Trường Đại học Y Dược thành phố 
Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Trọng Anh, Nguyễn Văn Thái, Hoàng 
Mạnh Cường (2008), “Ứng dụng nội soi khớp vai trong 
chẩn đoán và điều trị mất vững khớp vai”, Tạp chí Y học 
thành phố Hồ Chí Minh, tập 12, 303-309.
3. Tăng Hà Nam Anh (2014), Kết quả điều trị rách 
chóp xoay qua nội soi, Luận án Tiến sĩ Y học, Trường Đại 
Học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.
4. Lê Thế Trung (2002), “Lịch sử phát triển của ngoại 
khoa”, Bài giảng Bệnh học ngoại khoa sau đại học, tập 1, 
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 13-19.
5. Agarwalla A., Cvetanovich G. T., Gowd A. K. et al 
(2019), “Epidemiological analysis of changes in clinical 
practice for full-thickness rotator cuff tears from 2010 to 
2015”, The Orthopaedic Journal of Sports Medicine.
6. Bedi A. and Richard K. N. R (2009), “The Treatment 
of Primary Anterior Shoulder Disloction”, AAOS Instruc-
tional Course Lectures, Volume 58, 293-304.
7. BMJ best practice (2018), Rotator cuff injury, BMJ 
publishing Group Ltd.
8. Field L. (2011), “Biceps Instability and Subscapularis 
Tear”, Masters Experience Shoulder Arthroscopy Course, 
AANA, 239-247.
9. Galvin J., Ernat J., Waterman B. et al (2017), “The 
epidemiology and natural history of anterior shoulder in-
stability”, Curr Rev Musculoskele Med, Cross Mark, 411-
424.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
10. Hantes M. and Raoulis V. (2016), “Arthroscopic 
findings in Anterior shoulder instability”, The Open Or-
thropaedics Journal, Cross Mark,119-129.
11. Ikemoto B., Murachovsky J., Nascimento L. et al 
(2016), “Evaluation of surgery treatment of patients with 
shoulder instability”, Acta Ortop Bras, 266-269.
12. Phillips B. (2013), “General principles of arthros-
copy”, Campell’s operative orthopedics, 12
 th 
edition, 
Elsevier, 2364-2375.
13. Plancher K. (2011), “Arthroscopic rotator cuff re-
pair: Basic technique & making the transition”, Masters 
Experience Shoulder Arthroscopy Course, AANA, 203-213.
14. Sciascia A.and Monaco M. (2016), “When is the 
patient truly “ready to return”, a.k.a. Kinetic chain homeo-
stasis”, Elite techniques in shoulder Arthroscopy, Springer, 
317-325.
15. Shoulder Arhtroscopy https://orthoinfo.aaos.org/
en/treatment/shoulder-arthroscopy, accessed 13/9/2019.
16. Srinivasan S. and Pandey R. (2017), “Current con-
cepts in the Management of shoulder instability”, Indian 
Journal of Orthopaedis, 524-528.
17. Weber S. (2011), “Shoulder arthroscopy: Compli-
cations and avoidance”, Masters Experience Shoulder Ar-
throscopy Course, AANA, 123-129.
18. Westermann R., and Wolf B. (2016), “Indications 
for repair: Who really needs surgery”, Elite techniques in 
shoulder Arthroscopy, Springer, 181-189.
19. Wessel L., Sykes J., Anari J. (2016), “Indications and 
techniques for Double-Row fixation”, Elite techniques in 
shoulder Arthroscopy, Springer, 211-223.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ung_dung_phau_thuat_noi_soi_trong_dieu_tri_mot_so.pdf