Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà Nội

Bệnh tim mạch đang là nguyên nhân tử vong hàng đầu trên thế giới. Đánh giá nguy cơ tim mạch là một bước quan trọng trong dự phòng và điều trị bệnh. Chính vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đánh giá nguy cơ tim mạch 10 năm theo thang điểm Framingham 2008 trên 306 đối tượng cán bộ văn phòng người Việt Nam tại Hà Nội thu mẫu từ 2016-2017.

Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà Nội trang 1

Trang 1

Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà Nội trang 2

Trang 2

Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà Nội trang 3

Trang 3

Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà Nội trang 4

Trang 4

Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà Nội trang 5

Trang 5

Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà Nội trang 6

Trang 6

Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà Nội trang 7

Trang 7

Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà Nội trang 8

Trang 8

Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà Nội trang 9

Trang 9

pdf 9 trang Danh Thịnh 13/01/2024 3140
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà Nội

Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà Nội
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
128 
Original Article 
Applying Framingham Risk Score 2008 to Predict the 10-Year 
Risk of Cardiovascular Disease in a Group of Office Workers 
in Hanoi, Vietnam 
Do Thi Quynh, Vu Van Nga, Le Thi Hoa, Le Thi Diem Hong, Vu Thi Thom* 
VNU School of Medicine and Pharmacy, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
 Received 02 May 2019 
Revised 07 May 2019; Accepted 21 June 2019 
Abstract: Cardiovascular disease is the leading cause of death in the world. Cardiovascular risk 
assessment is an important step in preventing and treating the disease. The current study assesses 
the 10-year risk of cardiovascular disease in 306 VNU’s office workers in 2016-2017 based on the 
2008 Framingham Risk Score. The study results show that the average risk score was 4.05 ± 4.76%; 
low risk was 90.52%; moderate risk: 7.85 %; and high to very high risk was 1.63%. Men have a 
higher risk score than women (p <0.001). The ten-year cardiovascular risk score shows that age and 
systolic blood pressure correlated with the risk at a medium level, and cholesterol and HDL 
correlated with it at a low level. 
Keywords: Framingham Risk Score 2008, 10-year cardiovascular risk score, hypertension, blood 
cholesterol, blood HDL. 
________ 
 Corresponding author. 
 Email address: thomtbk5@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4164 
VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
129 
Nghiên cứu ứng dụng mô hình theo thang điểm Framingham 
dự đoán nguy cơ mắc bệnh tim mạch 10 năm trên nhóm 
nhân viên văn phòng tại Hà Nội 
Đỗ Thị Quỳnh, Vũ Vân Nga, Lê Thị Hòa, Lê Thị Diễm Hồng, Vũ Thị Thơm* 
Khoa Y Dược, Đại học Quốc Gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 02 tháng 5 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 07 tháng 5 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 21 tháng 6 năm 2019 
Tóm tắt: Bệnh tim mạch đang là nguyên nhân tử vong hàng đầu trên thế giới. Đánh giá nguy cơ tim 
mạch là một bước quan trọng trong dự phòng và điều trị bệnh. Chính vì thế, chúng tôi tiến hành 
nghiên cứu đánh giá nguy cơ tim mạch 10 năm theo thang điểm Framingham 2008 trên 306 đối 
tượng cán bộ văn phòng người Việt Nam tại Hà Nội thu mẫu từ 2016-2017. Kết quả thu được: Điểm 
nguy cơ trung bình của các đối tượng là: 4,05 ± 4,76 % (thuộc mức nguy cơ thấp) trong đó tỷ lệ đối 
tượng mắc nguy cơ thấp là 90,52%, nguy cơ trung bình là 7,85%, nguy cơ cao và rất cao là 1,63 %. 
Nam giới có điểm nguy cơ cao hơn nữ giới (p<0,001). Trong các yếu tố nguy cơ tim mạch, nghiên 
cứu cho thấy yếu tố tuổi và huyết áp có tương quan trung bình, cholesterol và HDL có tương quan 
yếu với điểm nguy cơ tim mạch 10 năm. 
Từ khóa: Thang điểm Framingham 2008, điểm nguy cơ tim mạch 10 năm, tăng huyết áp, cholesterol 
máu, HDL máu. 
1. Đặt vấn đề 
Hiện nay, bệnh tim mạch (BTM) đang là 
nguyên nhân tử vong hàng đầu trên thế giới. 
Năm 2015, theo thống kê của Tổ chức y tế thế 
giới ước tính có khoảng 17,7 triệu người trên 
toàn cầu chết vì BTM, ¾ trong số đó thuộc các 
nước có mức thu nhập thấp và trung bình, tăng 
khoảng 5,1 triệu người chỉ trong vòng 25 năm [1, 
2]. Bệnh tim mạch không chỉ là nguyên nhân số 
________ 
 Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: thomtbk5@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1132/vnumps.4164 
một gây tử vong mà còn để lại di chứng nặng nề 
ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của người 
bệnh, là gánh nặng cho gia đình và xã hội. 
Nghiên cứu của Gresham thấy rằng có tới 71% 
bệnh nhân giảm chức năng lao động, 62% giảm 
năng lực giao tiếp xã hội sau đột quỵ [3]. Các 
hướng dẫn dự phòng BTM của Mỹ và Châu Âu 
đưa ra khuyến cáo rằng đánh giá nguy cơ mắc 
bệnh là một bước quan trọng trong quản lý và 
giảm nguy cơ hình thành bệnh [4, 5]. Dựa vào 
D.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
130 
các yếu tố nguy cơ (YTNC) bệnh tim mạch đã 
được xác nhận trong nghiên cứu Framingham, 
các thang điểm dự đoán nguy cơ bệnh đã được 
xây dựng nhằm dự phòng và kiểm soát bệnh lý 
này [6]. Trong số các thang điểm này, thang 
điểm dự báo nguy cơ tim mạch 10 năm 
Framingham là thang điểm phổ biến trên thế giới 
và được ngoại kiểm bởi rất nhiều các nhà nghiên 
cứu độc lập, áp dụng trên các quần thể khác nhau 
như Châu Á, Âu, Úc [7-10]. Tại Việt Nam, nhiều 
nghiên cứu đã áp dụng thang điểm Framingham 
dự báo nguy cơ 10 năm cho bệnh mạch vành và 
chủ yếu trên nhóm đối tượng bệnh nhân đang 
điều trị hoặc đến khám vì tình trạng bệnh lý tại 
các cơ sở y tế. Hạn chế của các nghiên cứu này 
là chưa thể đánh giá được nguy cơ tim mạch 
chung của bệnh nhân hay xác định được nguy cơ 
tim mạch cho các đối tượng ở giai đoạn sớm [11-
14]. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên 
cứu “Ứng dụng mô hình theo thang điểm 
Framingham dự đoán nguy cơ tim mạch 10 
năm trên nhóm nhân viên văn phòng tại Hà 
Nội” để cung cấp thông tin nguy cơ tim mạch 
chung trên nhóm đối tượng chưa mắc các bệnh 
lý tim mạch và có những đặc điểm đặc thù như 
lối sống tĩnh tại, chủ yếu lao động trí óc. Mục 
tiêu của nghiên cứu là đánh giá nguy cơ tim 
mạch 10 năm theo thang điểm Framingham, 
đồng thời tìm hiểu mối liên quan giữa các yếu tố: 
tuổi, huyết áp tối đa, cholesterol, HDL với điểm 
nguy cơ tim mạch theo thang điểm trên. 
2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu: Hồ sơ khám sức 
khỏe định kỳ (SKĐK) của nhân văn phòng thuộc 
một trường đại học tại Hà Nội trong năm 2016 - 
2017 tại phòng khám 182 Lương Thế Vinh – 
Bệnh viện Đại học Quốc gia Hà Nội 
Tiêu chuẩn lựa chọn: Các hồ sơ khám 
SKĐK có đầy đủ các thông tin cá nhân (cơ quan 
công tác, tuổi, giới, nghề nghiệp, tiền sử bản 
thân, gia đình liên quan đến BTM), kết quả khám 
lâm sàng (Chiều cao, cân nặng, chỉ số BMI, 
huyết áp), kết quả cận lâm sàng (Cholesterol 
toàn phần, HDL, LDL, Triglycerid). 
Tiêu chuẩn  ...  
rõ rệt khi cholesterol máu tăng (Biểu đồ 4). Cụ 
thể, ĐNCTM của nhóm cholesterol máu bình 
thường là 3,35%, con số này tăng lên gấp xấp xỉ 
1,6 lần ở nhóm tiền tăng và gấp 2 lần ở nhóm 
tăng cao. Đối với HDL thì khi HDL tăng thì 
ĐNCTM giảm. Sự khác biệt giữa các nhóm có ý 
nghĩa thống kê với p<0,001. Kết quả nghiên cứu 
này tương đồng với nhiều nghiên cứu trên thế 
giới. Nghiên cứu tiến cứu kéo dài 24 năm của 
Sugimana D báo cáo rằng nguy cơ tim mạch ở 
nhóm có nồng độ cholesterol > 5,69 mmol/L cao 
gấp 1,55 lần so với nhóm còn lại, khi nồng độ 
cholesterol tăng trên 6,2 mmol/L, nguy cơ tim 
mạch tăng lên 1,79 lần [26]. Đặc biệt trong một 
nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng của Law M.R 
và cs. thấy rằng, trên đối tượng 40 tuổi, giảm 0,6 
mmol/L cholesterol máu giúp giảm 50% nguy cơ 
mắc bệnh thiếu máu cơ tim [27]. Mối liên hệ giữa 
cholesterol, HDL với ĐNCTM 10 năm theo 
Framingham 2008 còn được thể hiện rõ hơn khi 
chúng tôi xây dựng hàm tương quan tuyến tính 
giữa cholesterol, HDL với điểm NCTM. Kết quả 
thu được cho thấy cholesterol và điểm NCTM 
tương quan tuyến tính thuận theo hàm số y = 
1,51x - 2,9, hệ số tương quan r = 0,257. Trong 
khi đó, HDL có mối tương quan nghịch với 
ĐNCTM theo hàm số y = -2,59 x + 7,84 với hệ 
số tương quan r = - 0,297 (p<0,001). Mặc dù mức 
độ tương quan đạt ý nghĩa thông kê, tuy nhiên hệ 
số tương quan thấp. Hiện nay, tỷ lệ người mắc 
RLMM là khá cao. Năm 2014, tại Ấn Độ tỷ lệ 
người mắc rối loạn mỡ máu lên tới 79%, trong 
khi tỷ lệ này ở Iran là 51,8%, Thái Lan là 66,5% 
[28-30]. Tại Việt Nam, theo nghiên cứu của 
Nguyễn Quang Ngọc và cs. năm 2008, có tới 
62,8 % nam giới, 52,4 % nữ giới mắc RLMM 
[18]. Nghiên cứu của Trịnh Xuân Thắng năm 
2013 tại 2 quận huyện của Hà Nội cho kết quả tỷ 
lệ mắc RLMM là 49,5% [20]. Trong khi đó, hậu 
quả của RLMM là rõ ràng như trong nghiên cứu 
tiến cứu tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương 
đã cho thấy tăng 1mmol/L cholesterol toàn phần 
làm tăng 42% nguy cơ mắc bệnh mạch vành và 
31% nguy cơ nhồi máu não [31]. Tuy nhiên tác 
động của RLMM lại diễn ra âm thầm, triệu 
chứng không cấp tính và ít đặc hiệu, nên việc 
phát hiện và điều trị sớm là khó khăn, nhất là 
những cơ sở không có xét nghiệm máu. Chính vì 
thế việc phòng bệnh phải được chú trọng và tiến 
hành càng sớm càng tốt. 
Biểu đồ 5. Điểm Framingham phân bố theo tình 
trạng huyết áp. 
Tăng huyết áp là bệnh tim mạch, đồng thời 
là yếu tố quan trọng thúc đẩy hình thành các 
BTM khác như đột quỵ, suy tim, bệnh mạch 
vành. Trong nghiên cứu của chúng tôi, ở nhóm 
THA độ 2, điểm NCTM cao gấp 6 lần so với 
nhóm có huyết áp bình thường, gấp gần 1,5 lần 
0
5
10
15
20
Bình thườngTiền THA THA Độ 1 THA Độ 2
Đ
iể
m
 n
g
u
y
 c
ơ
ti
m
 m
ạ
ch
 1
0
 n
ă
m
D.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
134 
so với nhóm THA độ 1, gấp xấp xỉ 3 lần so với 
nhóm tiền THA (Biểu đồ 5). Xu hướng trên được 
xác nhận trong khá nhiều nghiên cứu trên thế 
giới. Theo phân tích tổng hợp của Lewington từ 
61 nghiên cứu khác nhau thấy rằng, ở độ tuổi 40-
69, mỗi khi tăng huyết áp tâm thu lên 20mmHg 
hoặc huyết áp tâm trương lên 10mmHg thì nguy 
cơ tử vong vì đột quỵ, thiếu máu cơ tim tăng lên 
gấp đôi [32]. 
Biều đồ 6. Hàm tương quan tuyến tính giữa HA tối 
đa và điểm Framingham. 
Hiện nay ở Việt Nam, tỷ lệ mắc THA đã gia 
tăng đáng kể. Năm 1960, tỷ lệ THA ở người 
trưởng thành tại miền bắc Việt nam là 1%. 30 
năm sau (1992) tỷ lệ này tăng lên hơn 11 lần 
(11,2%). Đến năm 2008, tỷ lệ THA ở người độ 
tuổi 25-64 là 25,1%. Trong báo cáo gần đây tại 
Hội nghị THA toàn quốc lần 2, gần 48% dân số 
trưởng thành ở nước ta mắc THA [33, 34]. 
Kết quả trên được củng cố vững chắc hơn khi 
chúng tôi phân tính hàm tương quan tuyến tính 
giữa điểm nguy cơ tim mạch 10 năm và huyết áp 
tối đa của các đối tượng. Như biểu đồ 6 thể hiện, 
HA tối đa và điểm Framingham có hàm tương 
quan thuận theo hàm số: y = 0,17x - 16,04 với hệ 
số tương quan trung bình r = 0,567 (p<0,001). 
Tác động phối hợp các yếu tố nguy cơ tim 
mạch lên ĐNCTM theo thang điểm Framingham 
Trong nghiên cứu của chúng tôi, khi số 
YTNC mà đối tượng mắc phải tăng lên thì điểm 
NCTM cũng tăng lên. Đối tượng mắc cả 3 
YTNC: RLMM, THA, Béo phì có điểm nguy cơ 
là 10,34 %, cao gấp 5 lần so với nhóm không mắc 
YTNC nào (ĐNCTM: 2,14%) (Biểu đồ 7). 
Biểu đồ 7. Điểm Framingham phân bố theo số 
YTNC mà đối tượng mắc phải. 
Xu hướng trên gặp trong nghiên cứu mô hình 
YTNC của Nguyễn Quang Ngọc tại 2 tỉnh của 
Việt Nam, theo đó, ở nữ giới, đối tượng mắc từ 
6 YTNC trở lên có điểm nguy cơ cao gấp xấp xỉ 
7 lần đối tượng chỉ mắc 1 YTNC, tương tự với 
nam giới là xấp xỉ 3 lần [18]. Theo nghiên cứu 
EPOCH-JAPAN, đối tượng có HA tâm thu ≥ 160 
mmHg và cholesterol ≥ 5,69 mmol/L nguy cơ tử 
vong do BTM tăng lên 4,4 lần so với nhóm có 
HA< 120 mmHg và cholesterol < 14,71 mmol/L, 
trong khi nếu chỉ có cholesterol > 5,69 mmol/L, 
nguy cơ tử vong chỉ tăng 1,55 lần [35]. Chính vì 
sự kết nối của các YTNC mà vai trò của việc 
đánh giá tổng quát đối tượng, xác định được 
nguy cơ tim mạch chung là hết sức quan trọng. 
Áp dụng thang điểm đánh giá nguy cơ tim 
mạch cho từng đối tượng với các chỉ số quan 
trọng như tuổi, giới, HA, cholesterol, HDL là 
thực sự cần thiết. 
Kết luận 
Điểm nguy cơ tim mạch trung bình của các đối 
tượng nghiên cứu là 4,05 ± 4,76, thuộc mức thấp. 
Trong đó, tỷ lệ đối tượng có điểm nguy cơ tim 
mạch thuộc mức thấp, mức trung bình, mức cao và 
rất cao lần lượt là 90,52 %, 7,85% và 1,63 %. 
Các yếu tố nguy cơ như tuổi và huyết áp có 
mối tương quan trung bình; cholesterol và HDL 
có mối tương quan yếu với điểm nguy cơ tim 
mạch 10 năm tính theo thang điểm Framingham 
0
5
10
15
20
0 YTNC 1 YTNC 2 YTNC 3 YTNC
Đ
iể
m
 n
g
u
y
 c
ơ
 t
im
m
ạ
ch
D.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
135 
2008. Trong đó, huyết áp tâm thu và tuổi là 2 yếu 
tố có hệ số tương quan cao nhất. 
Lời cảm ơn 
Chúng tôi trân trọng cảm ơn sự tài trợ của 
Đại học Quốc gia Hà Nội cho đề tài “Nghiên cứu 
một số yếu tố liên quan đến bệnh tim mạch của 
cán bộ Đại học Quốc gia Hà Nội” - mã số 
CS.17.04, cùng với các cán bộ môn YDHCS, 
Khoa Y Dược, ĐHQGHN đã tạo điều kiện cho 
nghiên cứu này. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Cardiovasculardiseases, 
/cardiovascular diseases-(cvds), (truy cập ngày 
22/03/2019). 
[2] A.R. Gregory et al, Global, regional, and national 
burden of cardiovascular diseases for 10 Causes, 
1990 to 2015, Journal of the American college of 
cardiology. 70(1) (2017) 1–25. 
[3] E. Gresham, T.E. Fitzpatrick, P.A. Wolf et al, 
Residual disability in survivors of stroke--the 
Framingham study, N Engl J Med. 293(19) (1975) 
954–956. 
[4] T.A. Pearson, S.N. Blair, S.R. Danielset et al, AHA 
guidelines for primary prevention of 
cardiovascular disease and stroke: 2002 update: 
consensus panel guide to comprehensive risk 
reduction for adult patients without coronary or 
other atherosclerotic vascular diseases, American 
heart association science advisory and coordinating 
committee, Circulation. 106(3) (2002) 388–391. 
[5] I. Graham, D. Atar, K. B. Johnsen et al, European 
guidelines on cardiovascular disease prevention in 
clinical practice: full text - Fourth joint task force 
of the European society of cardiology and other 
societies on cardiovascular disease prevention in 
clinical practice constituted by representatives of 
nine societies and by invited experts, Euro heart J. 
28(19) (2007) 2375-2414. 
[6] S.S. Mahmood, D. Levy, R.S. Vasanet et al, The 
Framingham heart study and the epidemiology of 
cardiovascular diseases: a historical perspective, 
Lancet. 383(9921) (2014) 999–1008. 
[7] J.A.A.G. Damen, L. Hooft, E. Schuit et al, 
Prediction models for cardiovascular disease risk in 
the general population: systematic review, BMJ. 
353(2016) 1-10. 
[8] L.Q.H. Goh, T.A. Welborn, S.S. Dhaliwal, 
Independent external validation of cardiovascular 
disease mortality in women utilising Framingham 
and SCORE risk models: a mortality follow-up 
study, BMC women health. 14 (2014) 118-129. 
[9] L.M. A. Rodenas, J.A. C. Herencia, J.A. D. Garrote et 
al, Framingham risk score for prediction of 
cardiovascular diseases: a population-based study 
from southern Europe, PLoS One. 8(9) (2013) 1-10. 
[10] G.M. Park, Y.H. Kim, Model for predicting 
cardiovascular disease: insights from a Korean 
cardiovascular risk model, Pulse (Basel). 3(2) 
(2015) 153–157. 
[11] Trần Kim Trang, Nguy cơ 10 năm của bệnh tim 
mạch ở nữ giới tăng huyết áp, Y học thành phố Hồ 
Chí Minh. 16(1) (2012) 181-185. 
[12] Trương Thanh Sơn, Nguyễn Văn Trí, Trương 
Quang Bình, Nghiên cứu áp dụng thang điểm 
Framingham nhằm định nguy cơ bệnh động mạch 
vành trong 10 năm tới tại bệnh viện đa khóa Bình 
Dương, Y học thành phố Hồ Chí Minh. 15(1) 
(2011) 207-212. 
[13] Nguyễn Thị Kim Thủy, Dự báo nguy cơ mắc bệnh 
động mạch vành trong 10 năm theo thang điểm 
Frammingham ở bệnh nhân tăng huyết áp nguyên 
phát, Y học thực hành. 802(1) (2012) 27-29. 
[14] Nguyễn Hồng Huệ, Nguyễn Đức Công, Nghiên 
cứu ước tính nguy cơ bệnh động mạch vành trong 
10 năm tới theo thang điểm Framingham qua 500 
trường hợp, Y học thành phố Hồ Chí Minh. 15(2) 
(2011) 38-44. 
[15] C.V. Aram et al, The seventh report of the joint 
national committee on prevention, detection, 
evaluation, and treatment of high blood 
pressure, National heart, lung and blood institute - 
National institutes of health, NIH publication no. 
04-5230, US, (2014), pp 13. 
[16] National Heart, Lung and Blood Institute, Third 
Report of the national cholesterol education program 
(NCEP) expert panel on detection, evaluation, and 
treatment of high blood cholesterol in adults (Adult 
treatment panel III) Final report, National institutes of 
health, part II, US, (2002), pp 5-10. 
[17] World Health Organization, The Asia-Pacific 
perspective: redefining obesity and its 
treatment, Geneva: World health organization 
western pacific regional office, (2000), 18-19. 
[18] N.Q. Nguyen, S.T. Pham, L.D. Do et al, 
Cardiovascular disease risk factor patterns and their 
implications for intervention strategies in Vietnam, Int 
J Hypertens, ID. 560397, (2012), 1-11. 
[19] M. Nakhaie, B. Koor, S. Salehiet al, Prediction of 
cardiovascular disease risk using framingham risk 
D.T. Quynh et al. / VNU Journal of Science: Medical and Pharmaceutical Sciences, Vol. 35, No. 1 (2019) 128-136 
136 
score among office workers, Iran, 2017, Saudi 
journal of kidney diseases and transplantation. 
29(3) (2018) 608-614. 
[20] Trịnh Xuân Thắng, Nghiên cứu các yếu tố nguy 
cơ bệnh tim mạch ở người >25 tuổi tại 2 quận 
huyện Hà Nội, Luận văn thạc sỹ, Đại học Y Hà 
Nội, (2013). 
[21] Nguyễn Hoàng Liên, Văn Thế Trung, Xác định 
nguy cơ tim mạch theo thang điểm Framingham 
trên bệnh nhân vẩy nến tại bệnh viện da liễu TP. 
Hồ Chí Minh, Y Học TP. Hồ Chí Minh, 18(1), 
(2014), 79-85. 
[22] R. Gupta, V. Kaul, A. Agrawalet et al, Cardiovascular 
risk according to educational status in India, 
Preventive medicine. 51(5) (2010) 408–411. 
[23] C.A. Jones, L. Ross, N. Suraniet al, Framingham 
ten-year general cardiovascular disease risk: 
agreement between BMI-based and cholesterol-
based estimates in a South Asian convenience 
sample, PLOS ONE. 10(3) (2015) e0119183. 
[24] K.S. Tyrrell, H.C. Lassila, E. Meilahn et al, Carotid 
atherosclerosis in premenopausal and 
postmenopausal women and its association with 
risk factors measured after menopause, Stroke. 
29(6) (1998) 1116–1121. 
[25] Margaret Kelly Hayes et al, Influence of age and 
health behaviors on stroke risk: lessons from 
longitudinal studies, J Am Geriatr Soc. 58(2) 
(2010) 325–328. 
[26] D. Sugiyama, T. Okamura, M. Watanabe et al, Risk 
of hypercholesterolemia for cardiovascular disease 
and the population attributable fraction in a 24-year 
Japanese cohort study, J Atheroscler Thromb. 
22(1) (2015) 95–107. 
[27] M.R. Law, N.J. Wald, S.G. Thompson, By how 
much and how quickly does reduction in serum 
cholesterol concentration lower risk of ischaemic 
heart disease, BMJ. 308(6925) (1994) 367–372. 
[28] Abolfazl Mohammadbeigi et al, Dyslipidemia 
prevalence in Iranian adult men: the impact of 
population-based screening on the detection of 
undiagnosed patients, World J men health. 33(3) 
(2015) 167-173. 
[29] R.S. Joshi et al, Prevalence of dyslipidemia in 
urban and rural India: The ICMR–INDIAB Study, 
PloS ONE. 9(5) (2014) 1-9. 
[30] Wichai Aekplakorn et al, Prevalence of 
dyslipidemia and management in the Thai 
population: national health examination survey IV, 
2009, Journal of lipids. (2014) 1-13. 
[31] Asia Pacific, Cohort Studies Collaboration, 
cholesterol, diabetes and major cardiovascular 
diseases in the Asia-pacific region, Diabetologia. 
50(11) (2003) 2289-2297. 
[32] S. Lewington, R. Clarke, N. Qizilbash, R. Peto, R. 
Collins et al, Age-specific relevance of usual blood 
pressure to vascular mortality: a meta-analysis of 
individual data for one million adults in 61 
prospective studies, Lancet. 360(9349) (2002) 
1903–1913. 
[33] Viet Nam national STEPS Survey 2015, 
https://www.who.int/ncds/un-task-force/steps-
survey-vietnam2015.pdf, (2015), (truy cập ngày 
09/03/2019). 
[34] Nguyễn Lân Việt, Kết quả mới nhất điều tra tăng 
huyết áp toàn quốc năm 2015 – 2016, Hội tim mạch 
Việt Nam, 
nthuii_d3378.aspx, (2016) (truy cập ngày 
11/02/2019). 
[35] M. Satoh, et al, Combined effect of blood pressure and 
total cholesterol levels on long-term risks of subtypes 
of cardiovascular death: evidence for cardiovascular 
prevention from observational cohorts in Japan, 
hypertension. 65(3) (2015) 517–524.

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_ung_dung_mo_hinh_theo_thang_diem_framingham_du_do.pdf