Nghiên cứu tỷ lệ và đặc điểm hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính
Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thực hiện trên 120 bệnh nhân chẩn đoán xác định BTTMCBMT, điều trị tại Khoa Tim mạch - Bệnh viện Quân y 175 từ tháng 11/2016 đến tháng 12/2017. HCCH được xác định theo tiêu chuẩn NCEP-ATP III 2004.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu tỷ lệ và đặc điểm hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu tỷ lệ và đặc điểm hội chứng chuyển hóa ở bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 5 1 Bệnh viện Quân y 175 2 Bệnh viện Quân y 7A/QK7 Người phản hồi (Corresponding): Đặng Văn Tuấn (dangtuan1701@ygmail.com) Ngày nhận bài: 20/07/2018, ngày phản biện: 25/08/2018 Ngày bài báo được đăng: 30/9/2018 NGHIÊN CỨU TỶ LỆ VÀ ĐẶC ĐIỂM HỘI CHỨNG CHUYỂN HÓA Ở BỆNH NHÂN BỆNH TIM THIẾU MÁU CỤC BỘ MẠN TÍNH Đặng Văn Tuấn1, Trương Đình Cẩm1, Nguyễn Mạnh Kiên2 TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định tỷ lệ và đặc điểm hội chứng chuyển hóa (HCCH) ở bệnh nhân bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính (BTTMCBMT). Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thực hiện trên 120 bệnh nhân chẩn đoán xác định BTTMCBMT, điều trị tại Khoa Tim mạch - Bệnh viện Quân y 175 từ tháng 11/2016 đến tháng 12/2017. HCCH được xác định theo tiêu chuẩn NCEP- ATP III 2004. Kết quả: Tỷ lệ HCCH ở bệnh nhân BTTMCBMT là 56,7%; HCCH ở nữ (71,9%) cao hơn so với ở nam (51,1%). Các thành phần HCCH thường gặp là: giảm HDL-C, tăng glucose, tăng huyết áp, tăng triglyceride máu. Dạng HCCH kết hợp 3 thành phần chiếm 61,8%; 4 thành phần chiếm 27,9% và 5 thành phần chỉ chiếm 10,3%. Kết luận: HCCH ở bệnh nhân BTTMCBMT chiếm tỷ lệ cao, nữ cao hơn nam, dạng HCCH kết hợp 3 thành phần gặp phổ biến. *Từ khóa: Hội chứng chuyển hóa; Bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính STUDY THE RATE AND CHARACTERISTICS OF METABOLIC SYNDROME IN PATIENTS WITH CHRONIC ISCHEMIC HEART DISEASE ABSTRACT Objective: To determine the rate and characteristics of metabolic syndrome in patients with chronic ischemic heart disease Subjects and Method: A cross-sectional descriptive study was performed on 120 patients with chronic ischemic heart disease at Cardiovascular department of Military TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 6 Hospital 175, from November 2016 to December 2017. The metabolic syndrome was determined by the 2004 NCEP-ATP III standard. Results: The prevalence of metabolic syndrome in patients with chronic ischemic heart disease was 56,7%. The incidence of metabolic syndrome in women (71,9%) was higher than that of men (51,1%). Reduced high –density lipoprotein cholesterol (HDL- cholesterol) was the most frequently observed marker, followed by increased fasting blood glucose, blood pressure and triglyceride. Forms of metabolic syndrome with 3 components was 61,8%; 4 components was 27,9% and 5 components accounted for only 10,3%. Conclusion: Metabolic syndrome in patients with chronic ischemic heart disease accounted for a high proportion; metabolic syndrome rate in women is higher than men, Metabolic syndrome with 3-component combination was common. *Keywords: Metabolic syndrome, Chronic ischemic heart disease. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh tim thiếu máu cục bộ mạn tính (BTTMCBMT) hay bệnh mạch vành mạn đang ngày càng gia tăng và trở thành gánh nặng về bệnh tật, tử vong và chi phí y tế trong cộng đồng không chỉ ở các nước phát triển mà cả ở Việt Nam và các nước đang phát triển. Tại Mỹ năm 2015 có 16,8 triệu người mắc bệnh ĐMV, dự đoán đến năm 2035 số BN mắc BMV tăng thêm 7,2 triệu người. Chi phí y tế trực tiếp và gián tiếp cho điều trị BMV dự đoán năm 2035 khoảng 215 và 151 tỷ USD. Tại Việt Nam BTTMCB chiếm 3,5 % dân số. Tại Viện Tim mạch Việt Nam, khảo sát từ năm 2003 – 2007 cho thấy bệnh tim mạch nói chung bao gồm cả BTTMCB có xu hướng tăng từ 11,2 % năm 2003 lên 24% năm 2007. Sự gia tăng của bệnh lý tim mạch được lý giải bởi sự gia tăng của rất nhiều yếu tố nguy cơ như đái tháo đường, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, béo phì... Các yếu tố này thường kết hợp với nhau tạo thành một phức hợp yếu tố nguy cơ tim mạch gọi là hội chứng chuyển hóa (HCCH). Trên thế giới cũng như ở Việt nam đã có một số nghiên cứu về HCCH trên những đối tượng có nguy cơ cao bị bệnh mạch vành như tăng huyết áp, béo phì, rối loạn chuyển hóa lipidCác kết quả nghiên cứu cũng cho thấy bệnh nhân mắc HCCH sẽ có nguy cơ mắc bệnh mạch vành với tần suất cao hơn và mức độ bệnh trầm trọng hơn. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu: “Đánh giá tỷ lệ và đặc điểm HCCH theo tiêu chuẩn NCEP- ATP III ở bệnh nhân BTTMCBMT”. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu: Gồm 120 bệnh nhân được chẩn đoán BTTMCBMT điều trị tại khoa Tim mạch tại BVQY 175 từ tháng 11/2016 đến tháng 12/2017. - Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân Bệnh nhân được xác định có BTTMCBMT dựa trên các tiêu chuẩn lâm sàng, điện tim và chụp động mạch vành có CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 7 hẹp ≥ 50% đường kính lòng mạch ít nhất 1 nhánh chính động mạch vành. - Tiêu chuẩn loại trừ: Hội chứng vành cấp, hẹp ≤ 50% đường kính lòng mạch, bệnh van tim, bệnh tim bẩm sinh, viêm cơ tim, suy giáp, bệnh nội khoa nặng: nhiễm trùng nặng, suy gan, suy thận, bệnh nhân đã điều trị rối loạn lipid máu trên 1 tháng. 2. Phương pháp nghiên cứu + Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, chọn mẫu thuận tiện. + Thu thập số liệu: khai thác tiền sử, bệnh sử, đo huyết áp, vòng bụng, chiều cao, cân nặng bệnh nhân lúc nhập viện. Lấy máu xét nghiệm sinh hóa: buổi sáng lúc đói (sau bữa ăn cuối ít nhất 6-12h ). Các xét nghiệm cận lâm sàng: Huyết học, sinh hóa, điện tâm đồ, chụp động mạch vành qua da. + Tiêu chuẩn chẩn đoán BTTMCBMT: theo ACC/AHA (1999). + Đánh giá tổn thương động mạch vành (mức độ hẹp, số nhánh hẹp) qua kết quả chụp mạch vành: theo ACC/AHA (1999) và Khuyến cáo của Hội tim mạch học Việt Nam (2008). + Chẩn đoán HCCH: theo NCEP - ATP III (2004) áp dụng cho người Châu Á. + Xử lý và phân tích số liệu: Sử dụng phần mềm phân tích thống kê y sinh học: phần mềm SPSS for window 22.0 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 1. Đặc điểm của đối tương nghiên cứu Bảng 1. Đặc điểm về tuổi và giới tính Đặc điểm Nam Nữ Số lượng, (%) 88 (73,3%) 32 (26,7%) Tuổi trung bình 61 ± 10* (34 – 80) 67 ± 9* (47 – 86) Tuổi TB chung 62 ± 10 (34 – 86) Nhóm nghiên cứu có 120 bệnh nhân, nam giới chiếm đa số (73,3%), tuổi trung bình là 62, ... nh nhân HCCH (+) Dạng HCCH phối hợp 3 thành phần Số lượng (n = 42) Tỷ lệ (%) Tăng HA+Tăng Glucose+Tăng TG 3 7,1 Tăng HA+Tăng Glucose+Giảm HDL-C 8 19,0 Tăng HA+Tăng Glucose+Tăng vòng bụng 3 7,1 Tăng HA+Tăng TG+Giảm HDL-C 6 14,3 Tăng HA+Tăng TG +Tăng vòng bụng 2 4,8 Tăng HA+Giảm HDL-C+Tăng vòng bụng 1 2,4 Tăng Glucose+Tăng TG+Giảm HDL-C 10 23,8 Tăng Glucose+Tăng TG+Tăng vòng bụng 2 4,8 Tăng Glucose+Giảm HDL-C+Tăng vòng bụng 3 7,1 Tăng TG+Giảm HDL-C+Tăng vòng bụng 4 9,5 Trong số bệnh nhân BTTMCBMT mắc HCCH dạng rối loạn phối hợp 3 thành phần chiếm tỷ lệ cao là: tăng Glucose + tăng TG + giảm HDL-C (23,8%), tăng HA + tăng Glucose + giảm HDL-C (19%) và tăng HA + tăng TG + giảm HDL-C (14,3%). TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 10 Bảng 8. Tỷ lệ các dạng rối loạn phối hợp 4 thành phần ở bệnh nhân HCCH (+) Dạng HCCH phối hợp 4 thành phần Số lượng (n = 19) Tỷ lệ (%) Tăng HA+Tăng Glucose +Tăng TG+Giảm HDL-C 11 57,9 Tăng HA+Tăng TG+Giảm HDL-C+Tăng vòng bụng 1 5,3 Tăng HA+Tăng Glucose+Giảm HDL-C+Tăng vòng bụng 2 10,5 Tăng HA+ Tăng Glu+Tăng TG+Tăng vòng bụng 1 5,3 Tăng Glucose+Tăng TG+Giảm HDL-C+Tăng vòng bụng 4 21,1 Các dạng HCCH rối loạn phối hợp 4 thành phần có tỷ lệ cao là: tăng HA + tăng Glucose + tăng TG + giảm HDL-C với 57,9% và tăng Glucose + tăng TG + giảm HDL-C + tăng vòng bụng với 21,1%. BÀN LUẬN 1. Về đặc điểm của đối tượng nghiên cứu 1.1. Đặc điểm về tuổi và giới Kết quả thống kê về tuổi trung bình của chúng tôi cũng tương tự với kết quả nghiên cứu trước đây về tuổi bệnh nhân BTTMCBMT của các tác giả trong nước. Nguyễn Quốc Thái (2017) ghi nhận tuổi trung bình của bệnh nhân là 60,52 ± 10,18 tuổi; Đỗ Thị Thu Hà (2008) là 59 ± 12 tuổi và Nguyễn Trọng Nghĩa (2014) là 65 ± 9 tuổi [3]. Nghiên cứu của Solymoss BC (2003) cũng ghi nhận tuổi trung bình của bệnh nhân BTTMCBMT là 59 ± 10 tuổi [7]. Tỷ lệ bệnh nhân ở độ tuổi từ 50 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ cao (90%; 108/120 BN) (Bảng 2). Kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu về tỷ lệ bệnh nhân BTTMCB ở độ tuổi ≥ 50 của một số tác giả như Nguyễn Trọng Nghĩa là 95,94%, Trần Diệp Khoa là 89,74% và của Lê Thị Bích Thuận là 86,5% [3]. Các kết quả trên góp phần minh chứng tuổi là một yếu tố nguy cơ độc lập, có liên quan chặt chẽ với sự phát triển bệnh lý tim mạch nói chung và của BTTMCBMT nói riêng. Sự phát triển của xơ vữa động mạch gia tăng đáng kể theo độ tuổi từ 50 đến khoảng 65 tuổi, không phụ thuộc vào giới tính và chủng tộc. Kết quả thống kê tỷ lệ giới tính ở nhóm bệnh nhân BTTMCB cho thấy nam gặp nhiều hơn nữ. Nghiên cứu của Đỗ Thị Thu trên 146 bệnh nhân BTTMCB điều trị tại Bệnh viện Chợ Rẫy cho thấy, tỷ lệ này ở nam là 75,3% và nữ là 34,7%; tỷ lệ nam/nữ là 110/36 = 3,06. Nghiên cứu của Solymoss BC (2003) trên 1008 bệnh nhân bệnh động mạch vành cũng cho thấy, nam chiếm 78,7% và nữ chiếm 21,3%; tỷ lệ nam/nữ là 793/ 315 = 2,52 [7]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân nữ là: 67 ± 9 tuổi, cao hơn so với nhóm bệnh nhân nam (61 ± 10 tuổi), khác biệt có ý thống kê với p < 0,001 (Bảng 1). Tỷ lệ bệnh nhân BTTMCB mạn tính cao nhất ở độ tuổi 60-69 tuổi ở cả nam và nữ, đặc biệt ở độ tuổi từ 60 tuổi trở lên tỷ lệ này ở nữ cao hơn ở nam. Điều này cho thấy nam giới nguy cơ mắc BTTMCB có độ tuổi trẻ hơn so với nữ, và xu hướng mắc bệnh tăng dần theo độ tuổi ở cả nam và nữ. Kết quả CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 11 này phù hợp với kết luận được nêu trong y văn về nguy cơ mắc BTTMCB mạn tính theo tuổi và giới tính. Với nam từ 45 tuổi trở lên và nữ từ 55 tuổi trở lên được coi là có nguy cơ cao mắc bệnh và gia tăng tỷ lệ biến chứng của bệnh động mạch vành. Phụ nữ < 50 tuổi nguy cơ bệnh mạch vành thấp hơn do được bảo vệ bởi Oestrogen. Tuy nhiên, ở độ tuổi mãn kinh nồng độ của hormon này giảm sút, dẫn đến có sự rối loạn chức năng nội mạc, tạo điều kiện cho sự hình thành mảng xơ vữa và là nguyên nhân góp phần gia tăng tỷ lệ mắc BTTMCB. Nghiên cứu của Michos và cộng sự (2006) nhận thấy ở phụ nữ bị cắt buồng trứng trước mãn kinh có tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành cao hơn so với nam giới cùng độ tuổi. Khảo sát về các nguy cơ tim mạch, kết quả bảng 3 cho thấy yếu tố thường gặp là tiến sử tăng huyết áp với 83,3%, tăng glucose máu 53,3%, ít gặp hơn là tình trạng tăng huyết áp tại thời điểm nghiên cứu với 45,8% và tăng chỉ số vòng bụng (35%). Nghiên cứu của Cao Đình Hưng (2011) cho thấy tỷ lệ bệnh nhân BTTMCB mạn tính có THA là 89,8% [2], Phạm Tú Quỳnh (2006) thì tỷ lệ này là 88,3 % [4], Gorter PM (2004) ghi nhận tỷ lệ tăng huyết áp là 61%. Tuy nhiên, tỷ lệ bệnh nhân có tăng glucose máu trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi là 53,3%, cao hơn so với tác giả Đỗ Thị Thu Hà 45,2%, Phạm Tú Quỳnh 27,3% nhưng thấp hơn của Phạm Văn Cuộc là 80,2% [1]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, số bệnh nhân có giảm HDL-C và tăng triglyceride chiếm tỷ lệ khá cao (69,2% và 63,3%). Kết quả này tương tự Đỗ Thị Thu Hà (62,3%), cao hơn Nguyễn Trọng Nghĩa (44,71%), Phạm Văn Cuộc (38,8%) [1][2] [3] Nghiên cứu của Gorter PM cũng cho thấy tỷ lệ tăng triglycerid là 46,0% và giảm HDL-C là 51,0% [6]. 2. Tỷ lệ và đặc điểm HCCH ở bệnh nhân BTTMCBMT 2.1. Tỷ lệ và phân bố HCCH theo nhóm tuổi và giới tính Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận tỷ lệ bệnh nhân BTTMCBMT mắc HCCH theo tiêu chuẩn NCEP-ATP III 2004 là khá cao (56,7%) (Bảng 4). Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu trong nước như Phạm Văn Cuộc 2014 là 58,6%, Đỗ Thị Thu Hà 2008 là 57,5% và Cao Đình Hưng 2011 là 65,28%. Nghiên cứu của Farzaneh M (2016) cho thấy tỷ lệ HCCH ở bệnh nhân bệnh ĐMV là 49,5% [6], Tariq Ashraf (2011) tỷ lệ này là 54,95%. Các kết quả nghiên cứu trên đều nhận định tỷ lệ khá cao mắc HCCH ở bệnh nhân BTTMCBMT [8]. Bên cạnh đó, kết quả thống kê về tỷ lệ bệnh nhân có HCCH theo độ tuổi và giới tính ở nhóm bệnh nhân BTTMCB trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy (Bảng 4): - Tỷ lệ bệnh nhân có HCCH cao nhất ở độ tuổi 60-69 tuổi chiếm 63,0% (29/46 BN), có xu hướng tăng dần theo độ tuổi. Tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê. - Tỷ lệ bệnh nhân có HCCH ở nữ chiếm 71,9%, cao hơn so với tỷ lệ này ở nam là 51,1% (p = 0,011). Nghiên cứu của Lê Nguyễn Trung Đức Sơn (2010) cho thấy tỷ lệ bệnh nhân TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 12 bệnh ĐMV có HCCH cao nhất ở nhóm tuổi 60-69 tuổi (25,8%) và tăng dần theo độ tuổi. Tuổi trung bình của bệnh nhân có HCCH trong nghiên cứu của Solymoss BC là 58 ± 10, của Faraneh M là 58,4 ± 9,7 [5], của Nguyễn Trọng Nghĩa là 65 ± 9 tuổi và của Phạm Văn Cuộc là 66 ± 10 tuổi [1]. Điều này theo nhận định của các tác giả là do quá trình tiến triển của đề kháng Insulin song hành với độ tuổi, tuổi càng cao thì sự tích lũy các yếu tố cấu thành HCCH càng tăng. Độ tuổi của người bệnh có mối liên quan chặt chẽ với sự đề kháng Insulin, tăng vòng bụng, rối loạn chuyển hóa glucose, lipid và tăng HA. Nghiên cứu của Cao Đình Hưng (2011) ghi nhận tỷ lệ HCCH trên bệnh nhân bệnh ĐMV ở nữ là 85%, cao hơn so với nam là 57,69% (p<0,05) [2]; Phạm Tú Quỳnh (2006) cũng thấy HCCH trên bệnh nhân bệnh ĐMV ở nữ là 70,34% cao hơn ở nam là 36,44 % (p<0,001) [4]; Farzaneh Montazerifar nhận thấy HCCH ở nữ là 55,9%, ở nam là 40,2% và Gorter PM cũng ghi nhận tỷ lệ HCCH ở nữ là 60%, ở nam là 37% [5]. 2.2. Đặc điểm HCCH ở bệnh nhân BTTMCBMT Kết quả thống kê về tỷ lệ rối loạn các thành phần trong HCCH ở nhóm 68 bệnh nhân BTTMCB mạn tính có HCCH cho thấy: - Các thành phần của HCCH ở nhóm bệnh nhân BTTMCBMT đều có tỷ lệ rối loạn cao, cao nhất là giảm HDL-C (86,8%); thấp nhất là tăng vòng bụng (45,6%). - Tỷ lệ rối loạn các thành phần: tăng huyết áp, tăng glucose máu và tăng triglycerid máu, lần lượt theo thứ tự là: 61,8%, 77,9% và 75,0%. Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu của các tác giả nước ngoài: Solymoss BC (2003), ghi nhận bệnh nhân bệnh mạch vành có HCCH có vòng eo, mức huyết áp, glucose máu lúc đói và triglycerid cao hơn và HDL-C thấp hơn so với nhóm bệnh nhân không có HCCH; Gorter PM (2004) cũng thấy tỷ lệ tăng HA là 61%, giảm HDL-C là 51% và tăng TG là 46%, Farzaneh Montazerifar thấy giảm HDL-C là 84,8%, tăng đường máu lúc đói là 77,8% và tăng vòng bụng là 75,8% [5]. Về dạng kết hợp các thành phần của HCCH ở 68 bệnh nhân BTTMCBMT mắc HCCH trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy: tỷ lệ bệnh nhân có HCCH rối loạn 3 thành phần chiếm đa số (61,8%), rối loạn 4 thành phần là 27,9% và 5 thành phần chỉ chiếm 10,3% (Bảng 6). Kết quả này phù hợp với một số nghiên cứu trước đây trong và ngoài nước. Đỗ Thị Thu Hà (2008) ghi nhận trong số 84 bệnh nhân bệnh ĐMV có HCCH, có 50% số bệnh nhân có rối loạn 3 thành phần, 4 thành phần là 36,9% và 5 thành phần là 13,1%. Nghiên cứu của Phạm Tú Quỳnh (2006) trong số 192 bệnh nhân bệnh ĐMV có HCCH, nhóm có rối loạn 3 thành phần chiếm tỷ lệ là 53,65%, 4 thành phần 35,42% và 5 thành phần là 10,93%. Nghiên cứu của Birhan Yilmaz M (2005) ghi nhận trong số 150 bệnh nhân bệnh ĐMV có HCCH, dạng có rối loạn 3 thành phần chiếm tỷ lệ 29,7%, kế đến là 4 thành phần chiếm 17,0% và ít gặp nhất là 5 thành phần chỉ chiếm 2,3%. Bên cạnh đó, kết quả phân tích các dạng HCCH rối loạn phối hợp 3 thành phần chiếm tỷ lệ cao trong nghiên cứu của chúng tôi là: tăng glucose + tăng triglycerid CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 13 + giảm HDL-C (23,8%); tăng HA + tăng glucose + giảm HDL-C (19,0%) và tăng HA + tăng triglycerid + giảm HDL-C (14,3%) (Bảng 7). Tác giả Đỗ Thị Thu Hà (2008) cho thấy, dạng HCCH “tăng HA+tăng glucose máu+giảm HDL-C” chiếm tỷ lệ 23,8%; “tăng HA + tăng vòng bụng + tăng triglycerid” (19,04%). Kết quả nghiên cứu của Trần Diệp Khoa (2005), cũng cho thấy tỷ lệ dạng HCCH: “tăng HA+tăng glucose máu+giảm HDL-C” và “tăng HA+tăng vòng bụng +tăng triglycerid” lần lượt là 27,8% và 16,7% [18]. Girman CJ (2004) khảo sát HCCH và nguy cơ xảy ra các biến cố mạch vành từ thử nghiệm 4S (Scandinavian Simvastatin Survival Study). Tác giả nghiên cứu 1.991 bệnh nhân có tiền sử cơn đau thắt ngực hoặc NMCT, nhưng không có đái tháo đường. Kết quả cho thấy: hai dạng phối hợp thường gặp trong HCCH là “tăng HA + tăng TG + giảm HDL-C” chiếm tỷ lệ 28,3% và “tăng HA + tăng glucose máu + tăng TG” chiếm tỷ lệ 12,4%. Phân tích các dạng HCCH rối loạn phối hợp 4 thành phần trong nghiên cứu này cho thấy, các dạng: “tăng huyết áp + tăng glucose + tăng triglycerid + giảm HDL-C”, “tăng glucose + tăng triglycerid + giảm HDL-C + tăng vòng bụng” và “tăng HA + tăng glucose + giảm HDL-C+tăng vòng bụng” chiếm tỷ lệ cao, lần lượt là: 57,9%; 21,1% và 10,5% (Bảng 8). Kết quả của chúng tôi phù hợp với Đỗ Thị Thu Hà (2008), cho thấy dạng HCCH 4 thành phần “tăng glucose + tăng triglycerid + giảm HDL-C + tăng vòng bụng” chiếm tỷ lệ 29,03%. Tác giả Trần Diệp Khoa (2005) ghi nhận dạng HCCH 4 thành phần “tăng HA+tăng glucose + tăng triglycerid + giảm HDL-C” chiếm tỷ lệ cao (45,46%). KẾT LUẬN Qua nghiên cứu tỷ lệ và đặc điểm HCCH ở 120 bệnh nhân BTTMCBMT, điều trị tại Bệnh viện Quân y 175 từ tháng 11/2016 đến tháng 12/2017, chúng tôi rút ra kết luận sau: - Tỷ lệ mắc HCCH ở BTTMCBMT (theo tiêu chuẩn NCEP ATP III, 2004, áp dụng cho người Châu Á) là 56,7%; cao nhất ở độ tuổi 60-69 (63,0%). Tỷ lệ mắc HCCH ở nữ cao hơn so với nam giới (71,9% vs 51,1%; p = 0,011). - Tỷ lệ rối loạn các thành phần trong HCCH lần lượt là: giảm HDL-C máu là 86,8%, tăng Glucose máu: 77,9%, tăng Triglycerid máu 75,0%, tăng huyết áp là 61,8% và tăng vòng bụng là 45,6%. - Tỷ lệ HCCH rối loạn 3 thành phần chiếm 61,8% (42/68 BN), rối loạn 4 thành phần chiếm 27,9% và 5 thành phần chỉ chiếm 10,47%. - Dạng HCCH phối hợp 3 thành phần thường gặp là: “tăng glucose + tăng triglycerid + giảm HDL-C” (23,8%) và “tăng HA + tăng glucose + giảm HDL-C” (19,0%). Dạng HCCH phối hợp 4 thành phần thường gặp là “tăng huyết áp + tăng glucose + tăng triglycerid + giảm HDL-C” (57,9%) và “tăng glucose + tăng triglycerid + giảm HDL-C + tăng vòng bụng” (21,1%). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phạm Văn Cuộc, Lê Thị Ngọc Hân, Nguyễn Duy Toàn, et al. (2014), “Nghiên cứu đặc điểm HCCH theo NCEP ATP III ở bệnh nhân BTTMCB mạn tính “, Tạp chí dược học quân sự, 3/2014, tr. 77 - 84. TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 15 - 9/2018 14 2. Cao Đình Hưng, Hồ Thượng Dũng (2011), “Nghiên cứu một số đặc điểm HCCH trên bệnh nhân mắc bệnh mạch vành mạn”, Y Học Tp Hồ Chí Minh, Phụ bản số 1 (tập 15), tr. 148-154. 3. Nguyễn Trọng Nghĩa, Lê Thị Bích Thuận (2014), “Nghiên cứu đặc điểm HCCH ở bệnh nhân BTTMCB “, Tạp chí y dược học - trường Đại học y dược Huế, số 21, tr. 29-38. 4. Phạm Tú Quỳnh, Châu Ngọc Hoa (2010), “Sự liên quan giữa HCCH và mức độ tổn thương động mạch vành”, Tạp chí Tim mạch học. 5. Farzaneh Montazerifar et al (2016), “The Prevalence of Metabolic Syndrome in Coronary artery disease patients”, Cardiol Res, 7(6), pp. 202-208. 6. Fruchart J.C, Nierman M.C, Stroes E.S.G, et al. (2004), “New risk factors for atherosclerosis and patient risk assessment”, Circulation, 109 (suppl 3), pp. 15-19. 7. Solymoss BC, MG Bourassa (2003), “Incidence and clinical characteristics of the metabolic syndrome in patients with coronary artery disease”, Coronary Artery Disease, 14 (3), pp. 207- 212. 8. Tariq Ashraf, Muhammad AM, MS Talpur (2011), “Frequence of metabolic syndrome in patients with ischaemic heart disease”, JPMA, 61, pp. 729-732. 9. Varun S, Anith KM, C’ Yoganathan, et al. (2017), “Prevalence of metabolic syndrome in patients with premature coronary artery disease proven by coronary angiogram”, International Journal of Research in Medical Science, 5 (11), pp. 5021-24.
File đính kèm:
- nghien_cuu_ty_le_va_dac_diem_hoi_chung_chuyen_hoa_o_benh_nha.pdf