Nghiên cứu phát hiện một số dị nguyên ở bệnh nhân viêm da dị ứng bằng test lẩy da
Xác định tỷ lệ test lẩy da dương tính với một số dị nguyên thường gặp và số lượng bạch cầu ái toan ở bệnh nhân viêm da dị ứng. Khảo sát mối liên quan giữa tỷ lệ test lẩy da dương tính với một số đặc điểm chung và số lượng bạch cầu ái toan.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu phát hiện một số dị nguyên ở bệnh nhân viêm da dị ứng bằng test lẩy da", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu phát hiện một số dị nguyên ở bệnh nhân viêm da dị ứng bằng test lẩy da
SỐ 6 (53) - Tháng 11-12/2019 Website: yhoccongdong.vn 27 VI N S C K H E C NG NG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NGHIÊN CỨU PHÁT HIỆN MỘT SỐ DỊ NGUYÊN Ở BỆNH NHÂN VIÊM DA DỊ ỨNG BẰNG TEST LẨY DA Phan Cẩm Ly1, Trần Thị Minh Diễm2 TÓM TẮT Mục tiêu: Xác định tỷ lệ test lẩy da dương tính với một số dị nguyên thường gặp và số lượng bạch cầu ái toan ở bệnh nhân viêm da dị ứng. Khảo sát mối liên quan giữa tỷ lệ test lẩy da dương tính với một số đặc điểm chung và số lượng bạch cầu ái toan. Phương pháp: Test lẩy da được thực hiện với 18 loại dị nguyên tiêu hóa và hô hấp. Test lẩy da được thực hiện khi dị nguyên đặc hiệu được lẩy vào da, dị nguyên sẽ kết hợp với IgE đặc hiệu trên bề mặt tế bào mast. Sự kết hợp này làm tế bào mast bị phân hủy giải phóng ra một số hóa chất trung gian như histamine, seroronin... Dựa vào mức độ sẩn và ban đỏ trên da để đánh giá kết quả phản ứng thông qua so sánh với chứng âm và chứng dương, kết quả có được sau 15 – 20 phút. Kết quả: Nghiên cứu trên 117 bệnh nhân viêm da dị ứng nhận thấy có 58,1% bệnh nhân có tiền sử bản thân bị các bệnh dị ứng khác như mày đay(23,1%), hen phế quản (20,5%), viêm mũi dị ứng(18,8%) và 59,8% bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc các bệnh cơ địa. Tỷ lệ test lẩy da dương tính với ít nhất một loại dị nguyên chiếm 83,8%. Các dị nguyên gây dị ứng phổ biến nhất là gián (58%), mạt nhà (42%), nấm mốc (42%), bụi nhà (35,2%). Tỷ lệ bệnh nhân viêm da dị ứng có số lượng bạch cầu ái toan tăng cao chiếm 27,4%. Kết luận: Có mối liên quan giữa kết quả test lẩy da và tiền sử bản thân có bệnh lý dị ứng kèm theo, nhóm tuổi. Không có mối liên quan giữa kết quả test lẩy da và số lượng bạch cầu ái toan. Từ khóa: Dị nguyên; viêm da dị ứng; test da. ABSTRACT: DETECTING ALLERGENS IN ATOPIC DERMATITIS WITH SKIN PRICK TEST Objective: To determine the rate of positive skin prick test with some common allergens and the number of eosinophils in atopic dermatitis patients and the relationship between the rate of positive skin prick test with a number of common features and the number of eosinophils. Methods: Skin prick test was done using 18 allergens including food allergens and aeroallergens. Skin prick test is a bioassay that detects the presence of allergen specific IgE on patient’s mast cells. When allergen is introduced into the skin of a patient, allergen binds to IgE receptors on mast cells, histamine and other chemicals are released, these mediators include histamine, serotonin Skin reactions were evaluated according to the diameter of edema and erythema and compared with positive and negative control reactions after 15-20 minutes. Results: A total of 117 patients diagnosis of atopic dermatitis were examined with 58,1% of the study population had a previous history of allergic diseases such as urticaria (23,1%), asthma (20,5%), allergic rhinitis (18,8%) and 59,8 % had a positive previous family history of allergy. Positive skin prick test to at least one allergen was 83,8%. The percentage of patients have increased eosinophilia is 27,4%. Conclusion: There was correlation between skin prick test results and age group, allergenic history. There wasn’t correlation between skin prick test results and eosinophilia. Key words: Allergen; atopic dermatitic; skin prick test. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Ở Việt Nam, số người mắc bệnh dị ứng tăng nhanh trong những năm gần đây, do nhiều nguyên nhân khác nhau như thuốc, thực phẩm, hóa chất, bụi nhà, vi khuẩn, virus, nấm Các bệnh dị ứng phổ biến là viêm mũi, viêm xoang, hen phế quản, mày đay, viêm da dị ứng, dị ứng nghề nghiệp Bệnh viêm da dị ứng (VDDƯ) chiếm tỷ lệ khá cao và khác nhau từng quốc gia. Ở Mỹ và một số nước Tây Âu, có khoảng 10 – 20% trẻ em và 1- 3% người lớn bị bệnh này [1]. Ở Việt Nam hiện nay, chưa có nghiên cứu đầy đủ về tỷ lệ hiện mắc VDDƯ. Theo báo cáo của phòng khám Viện Da liễu Quốc gia, VDDƯ chiếm khoảng 20% số bệnh nhân đến khám tại phòng khám [3]. Mặc dù bệnh VDDƯ có thể khỏi theo thời gian nhưng nhiều bệnh nhân có yếu tố cơ địa vẫn tiến triển và có những đợt tái phát và kéo dài suốt đời. Trong những năm gần đây, lâm sàng phối Ngày nhận bài: 12/09/2019 Ngày phản biện: 18/09/2019 Ngày duyệt đăng: 28/09/2019 1. Trường Đại học Kỹ thuật Y – Dược Đà Nẵng 2. Trường Đại học Y Dược Huế SỐ 6 (53) - Tháng 11-12/2019 Website: yhoccongdong.vn28 JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE 2019 hợp giữa các chuyên khoa (miễn dịch, huyết học, sinh hóa, vi sinh) trong nghiên cứu VDDƯ đã mang lại những thành công không những về chẩn đoán mà còn định hướng cho điều trị. Khai thác tiền sử dị ứng, khám lâm sàng và làm các test dị ứng in vivo và in vitro là những bước cần thiết trong chẩn đoán. Dựa trên những hiểu biết về cơ chế bệnh sinh, triệu chứng và biến chứng của bệnh VDDƯ, cho thấy việc xác định được loại dị nguyên (DN) gây ra phản ứng miễn dịch trên bệnh nhân có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là cơ sở để lên kế hoạch dự phòng, chăm sóc cũng như điều trị cho bệnh nhân. Mục tiêu nghiên cứu: - Xác định tỷ lệ test da dương tính với một số dị nguyên hô hấp, tiêu hóa và số lượng bạch cầu ái toan ở bệnh nhân viêm da dị ứng. - Khảo sát mối liên quan giữa tỷ lệ test da dương tính với một số đặc điểm chung và số lượng bạch cầu ái toan. II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu 117 bệnh nhân đến khám tại phòng khám da liễu, được lâm sàng chẩn đoán VDDƯ và được chỉ định làm xét nghiệm test da tại Khoa Miễn dịch, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế. Bệnh nhân được chẩn đoán VDDƯ theo bộ tiêu chuẩn chẩn đoán của Hanifin và Raika đề xuất năm 1980 [1], [10]. - Tiêu chuẩn loại trừ Bệnh nhân đang sử dụng Corticoid (7 ngày) hoặc uống thuốc kháng Histamin (3 ngày). Bệnh nhân đang trong cơn dị ứng cấp tính, lao, thấp khớp đang tiến triển, người bệnh tâm thần đang ở thời kỳ kịch phát, người bệnh tim, gan, thận ở giai đoạn không còn bù trừ, người b
File đính kèm:
- nghien_cuu_phat_hien_mot_so_di_nguyen_o_benh_nhan_viem_da_di.pdf