Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định

Trí tuệ cảm xúc được xem là nhân tố dự đoán sự thành công và là nhân tố mang lại hạnh phúc cho con người nên có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển của sinh viên đặc biệt là sinh viên điều dưỡng.

Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định trang 1

Trang 1

Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định trang 2

Trang 2

Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định trang 3

Trang 3

Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định trang 4

Trang 4

Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định trang 5

Trang 5

Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định trang 6

Trang 6

Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định trang 7

Trang 7

Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định trang 8

Trang 8

pdf 8 trang Danh Thịnh 13/01/2024 3020
Bạn đang xem tài liệu "Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định

Mức độ trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 225(04): 7 - 14 
 Email: jst@tnu.edu.vn 7 
MỨC ĐỘ TRÍ TUỆ CẢM XÚC CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG 
CHÍNH QUY TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH 
Lê Thị Huyền Trinh 
Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định 
TÓM TẮT 
Trí tuệ cảm xúc được xem là nhân tố dự đoán sự thành công và là nhân tố mang lại hạnh phúc cho 
con người nên có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển của sinh viên đặc biệt là sinh viên 
điều dưỡng. Bài báo đề cập đến mức độ trí tuệ cảm xúc và tìm hiểu một số nguyên nhân ảnh 
hưởng đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy Trường Đại 
học Điều dưỡng Nam Định. 420 sinh viên đại học điều dưỡng chính quy trường đại học điều 
dưỡng Nam Định được làm test trắc nghiệm EQ của Bar-On (1997). Phân tích kết quả cho thấy: 
Trí tuệ cảm xúc của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy đa số ở mức trung bình (78,1%), tỷ lệ 
kém (4,3%), mức cao (17,6%). N ng lực nhận thức và bày t cảm xúc của sinh viên tốt h n n ng 
lực thấu hiểu và quản lý cảm xúc bản thân. Các nguyên nhân được sinh viên đánh giá là có ảnh 
hưởng đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc: cao nhất là giáo dục của gia đình và nhu cầu, mong muốn 
nâng cao trí tuệ cảm xúc của bản thân; thấp nhất là nghề nghiệp của cha mẹ và di truyền từ cha mẹ. 
Kết quả này là tài liệu tham khảo cho sinh viên và nhà trường có kế hoạch phù hợp giúp sinh viên 
t ng cường n ng lực trí tuệ cảm xúc. 
Từ khóa: Trí tuệ; trí tuệ cảm xúc; EQ; trí tuệ cảm xúc sinh viên; sinh viên đại học điều dưỡng 
chính quy. 
Ngày nhận bài: 16/9/2019; Ngày hoàn thiện: 26/11/2019; Ngày đăng: 27/3/2020 
LEVEL OF EMOTIONAL INTELLIGENCE AMONG FULL-TIME 
STUDENTS AT NAM DINH UNIVERSITY OF NURSING 
Le Thi Huyen Trinh 
Nam Dinh University of Nursing 
ABSTRACT 
Emotional intelligence is considered as a predictor of success and a factor that brings happiness to 
people, therefore it is important in the development process of students, especially nursing 
students. The article deals with the level of emotional intelligence and explores some of the causes 
affecting the emotional intelligence development of full time nursing students at Nam Dinh 
University of Nursing. 420 full time nursing students at Nam Dinh University of Nursing were 
tested using Bar-On EQ test (1997). The results showed that: EQ level of the students are mostly at 
average level (78.1%), low level (4.3%), high level (17.6%). Students’ ability to perceive and 
express their emotions is better than their ability to understand and manage their emotions. 
According to the students, the most influential factors influencing the development of their 
emotional intelligence is family education and their own need and desire to improve emotional 
intelligence; the least influential one is occupations of their parents and the biological inheritance. 
This result served as a reference for students and the university to have an appropriate plan for 
strengthening students’ emotional intelligence. 
Keywords: Intelligent; emotional intelligence; students’ emotional intelligence; EQ; full-time 
nursing students. 
Received: 16/9/2019; Revised: 26/11/2019; Published: 27/3/2020 
Email: huyentrinhdhdd@gmail.com
Lê Thị Huyền Trinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(04): 7 - 14 
 Email: jst@tnu.edu.vn 8 
1. Đặt vấn đề 
Trí tuệ cảm xúc là một thành tố trí tuệ mới 
được phát hiện và nghiên cứu trong khoảng 
gần ba thập kỷ trở lại đây. Nó nhanh chóng 
nhận được sự chú ý của các nhà chuyên môn, 
được xem là nhân tố dự đoán sự thành công 
và là nhân tố mang lại hạnh phúc cho con 
người [1], [2]. Về c bản, trí tuệ cảm xúc 
(TTCX) là một dạng trí thông minh thể hiện 
việc nhận thức đúng về tình cảm, điều khiển 
các cảm xúc của mình và của người khác. 
TTCX được hình thành trong những n m đầu 
của cuộc đời và tiếp tục phát triển cho đến khi 
trưởng thành. Khác với trí thông minh, n ng 
lực TTCX của mỗi cá nhân có thể dễ dàng 
thay đổi nhờ việc học tập và rèn luyện tích 
cực [1], vì vậy việc học h i để hiểu biết và 
phát triển những khả n ng về cảm xúc ở giai 
đoạn đang học tập về chuyên môn và nghiệp 
vụ của sinh viên sẽ giúp sinh viên tự tin và 
bản lĩnh trong nghề nghiệp tư ng lai [3]. 
Các nghiên cứu về TTCX trong nước tập 
trung chủ yếu ở đối tượng giáo viên tiểu học 
và sinh viên ngành sư phạm [3]-[7]; một số 
nghiên cứu trên đối tượng học sinh trung học 
phổ thông. Các nghiên cứu trên đối tượng 
sinh viên ngành Y đặc biệt là sinh viên điều 
dưỡng còn rất ít [8], [9]. Trong khi đó đặc 
trưng công việc của các điều dưỡng tư ng lai 
là hàng ngày ch m sóc đối tượng đặc biệt – 
những bệnh nhân, luôn đòi h i ở điều dưỡng 
sự kiên trì, nhiệt huyết, đặc biệt phải biết điều 
khiển cảm xúc cá nhân. Chính vì vậy chúng 
tôi tiến hành nghiên cứu về trí tuệ cảm xúc 
của sinh viên đại học điều dưỡng chính quy 
Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định với 
mục tiêu: Khảo sát mức độ trí tuệ cảm xúc và 
tìm hiểu một số nguyên nhân ảnh hưởng đến 
sự phát triển TTCX của sinh viên đại học điều 
dưỡng chính quy Trường Đại học Điều dưỡng 
(ĐHĐD) Nam Định. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
2.1. Đối tượng, thời gian, địa điểm nghiên cứu 
Nghiên cứu tiến hành trên sinh viên đại học 
điều dưỡng chính quy n m 1, 2, 3, 4 của Trường 
Đại học Điều dưỡng Nam Định. Nghiên cứu 
được thực hiện từ tháng 1/2018 đến tháng 
12/2018, thu thập số liệu tháng 6/2018. 
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. 
2.3. Cỡ mẫu và chọn mẫu nghiên cứu 
2.3.1. Cỡ mẫu 
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho nghiên 
cứu mô tả 1 tỷ lệ trong cộng đồng: 
2
2/1
2 )1(
d
pp
Zn
Trong đó: 
Z1-a/2: Giá trị Z thu được từ bảng Z tư ng 
ứng với giá trị a; lấy Z = 1,96 với a = 0,05. 
p: ước lượng tỷ lệ biến nghiên cứu chính 
trong quần thể, trong nghiên cứu này chọn p 
= 0,27. Giá trị p trong nghiên cứu này tính 
dựa theo kết quả nghiên cứu của tác giả Trần 
Thị Thu Mai. Theo đó tỷ lệ sinh vi ... i sinh viên (SV) học các ngành khác như 
ngành Sư phạm, kết quả của chúng tôi cao h n 
nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Quỳnh Dao n m 
2012: đa số sinh viên ngành sư phạm Trường 
Đại học Sài Gòn (ĐHSG) có TTCX ở mức 
trung bình và trên trung bình (TB), chiếm tỉ lệ 
(71,5%); TTCX ở mức độ cao (3,9%). Tuy 
nhiên, có 24,8% sinh viên ngành sư phạm 
Trường ĐHSG có TTCX k m [4]. Kết quả của 
chúng tôi cũng cao h n nghiên cứu của Trần 
Thị Thu Mai trên sinh viên Sư phạm Đại học 
thành phố Hồ Chí Minh, TTCX mức trung bình 
68,8% ở mức cao là 26,7%, ở mức thấp chiếm 
4,5% [3]. Kết quả của chúng tôi cũng cao h n 
nghiên cứu của Phan Trọng Nam trên sinh viên 
Sư phạm Đồng Tháp n m 2007, TTCX mức 
trung bình 61,25% ở mức cao là 11,25%, ở 
mức thấp chiếm 27,5% [5]. 
So với kết quả đo lường TTCX của giáo viên và 
người lao động trẻ Việt Nam, từ n m 2002 – 
2006 (theo nghiên cứu của đề tài KX 05 – 05) 
[7], EQ của giáo viên Việt Nam ở mức trung 
bình và trên trung bình chiếm tỉ lệ (78,3%); ở 
mức độ cao (7,2%); mức k m (14,5%). EQ của 
lao động trẻ Việt Nam ở mức trung bình và trên 
trung bình chiếm tỉ lệ (67,9%); ở mức độ cao 
(6,3%); mức k m (25,8%) [7]. Như vậy, kết quả 
nghiên cứu EQ sinh viên Điều dưỡng Nam 
Định tư ng tự EQ của giáo viên Việt Nam, cao 
h n EQ của lao động trẻ. 
Khi phân loại EQ theo khóa học, bảng 3 và 4 
cho thấy giá trị trung bình EQ của sinh viên 
n m 1-4 từ 16,1 đến 17,8. EQ của nhóm n m 
thứ tư là 17,8 cao nhất và cao h n EQ trung 
bình chung của nghiên cứu đồng thời trong 
nhóm này EQ mức k m chiếm tỷ lệ thấp nhất 
1,1%, mức cao chiếm tỷ lệ tư ng đối cao 
23,1%. Sự khác biệt về EQ giữa các nhóm có 
ý nghĩa thống kê với p = 0,013. Tuy nhiên, 
điểm EQ giữa các khóa của sinh viên không 
thể hiện xu hướng phát triển t ng hay giảm 
dần theo khóa học mà phân bố không theo 
quy luật. So sánh với kết quả nghiên cứu của 
Trần Thị Thu Mai: TTCX ở mức TB của SV 
n m 2 cao h n mức độ TTCX ở mức TB của 
SV n m 4, sự khác biệt có ý nghĩa giữa các 
khối lớp n m 2 và n m 4 về mức độ TTCX 
của SV (P = 0,000) [3]. Theo nghiên cứu của 
Phan Thị Sư ng trên sinh viên Điều dưỡng 
Đại học Duy Tân, sinh viên n m 1 có mức độ 
chỉ số cảm xúc cao h n sinh viên n m 3, tuy 
nhiên sự khác biệt về chỉ số cảm xúc giữa các 
khối lớp chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05) 
[9]. Như vậy có thể thấy, mức độ EQ của sinh 
viên ở các khóa học có sự khác nhau nhưng 
không thể hiện xu hướng chung nào, có thể sự 
khác biệt là mang tính ngẫu nhiêu và do yếu 
tố khách quan mang lại. 
Bảng 5 phân loại EQ theo thành tố cảm xúc 
cho kết quả: N ng lực nhận thức cảm xúc và 
bày t cảm xúc hợp lý trong các hoàn cảnh 
khác nhau của sinh viên điều dưỡng có điểm 
trung bình là 13,1. Điểm thấp nhất là 5, cao 
nhất 19 với độ sai số 2,62. Khả n ng thấu 
hiểu cảm xúc bản thân, quản lý cảm xúc và 
hành động có hiệu quả của sinh viên điều 
dưỡng có điểm trung bình là 4. Điểm thấp 
nhất là 0, cao nhất 8 với độ sai số 1,77. Với 
điểm trung bình của thành tố 1 tư ng đối cao 
này thể hiện sinh viên điều dưỡng có sự hiểu 
biết chính mình (n ng lực tự nhận biết mình, 
n ng lực tự kh ng định, quyết đoán và n ng 
lực đánh giá mình một cách lạc quan), quan 
hệ với người khác (n ng lực đồng cảm, n ng 
lực thực hiện các trắc nghiệm x hội) khá tốt. 
Tuy nhiên, khả n ng kiểm soát quản lý stress 
(kỹ n ng giải quyết vấn đề, kỹ n ng đánh giá 
đúng thực tiễn), kỹ n ng thích ứng (kỹ n ng 
chịu stress, n ng lực kiểm soát xung tính), 
biểu hiện tâm trạng (khả n ng giữ tâm trạng 
lạc quan, hạnh phúc) lại chưa tốt, cá biệt có 
những bạn điểm EQ phần này là 0 chứng t 
sự kiểm soát và thể hiện cảm xúc rất k m. Mà 
điều này rất quan trọng với công việc nghề 
nghiệp sau này. Đây cũng là tình trạng chung 
của sinh viên khi chưa được rèn luyện trong 
môi trường làm việc. Nghiên cứu của Trần 
Thị Thu Mai [3], Nguyễn Ngọc Quỳnh Dao 
[4] cũng cho kết quả tư ng tự n ng lực nhận 
biết cảm xúc, hiểu biết cảm xúc, cảm xúc hóa 
tư duy xếp cao h n n ng lực điều khiển, quản 
lí cảm xúc của SV. 
4.3. Các nguyên nhân ảnh hưởng đến chỉ số EQ 
Chúng tôi đưa ra 15 nguyên nhân ảnh hưởng 
Lê Thị Huyền Trinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(04): 7 - 14 
 Email: jst@tnu.edu.vn 13 
đến chỉ số EQ để sinh viên lựa chọn theo 5 
mức độ ảnh hưởng: rất nhiều, nhiều, trung 
bình, ít và không ảnh hưởng được chấm điểm 
tư ng ứng từ 1 đến 5. Theo đó, mức điểm từ 1 
– 2,5 là mức cao; 2,6 đến 3,5 là mức trung 
bình; 3,6 – 5 là mức thấp. 
Trong 15 nguyên nhân đưa ra thì các nguyên 
nhân có thứ tự từ 1 đến 7 là những nguyên 
nhân chủ quan bao gồm: chưa biết phư ng 
pháp tập luyện để nâng cao trí tuệ cảm xúc; 
tích cực, chủ động tham gia các hoạt động ở 
trường, x hội; nhu cầu, mong muốn nâng cao 
trí tuệ cảm xúc; chưa nhận thức được vai trò 
của trí tuệ cảm xúc trong hoạt động sống, 
công việc; chưa có tri thức, hiểu biết về trí tuệ 
cảm xúc; phạm vi mối quan hệ còn bó hẹp 
chủ yếu trong nhà trường; ít tiếp xúc, va 
chạm, trải nghiệm với cuộc sống x hội. Các 
nguyên nhân có thứ tự từ 8 đến 15 là những 
nguyên nhân khách quan bao gồm: ảnh hưởng 
của nhóm bạn thân; di truyền từ cha mẹ; nội 
dung các môn học trong nhà trường; phong 
cách dạy và giao tiếp của giáo viên; nghề 
nghiệp của cha mẹ; các hoạt động tập thể 
trong nhà trường; giáo dục gia đình: cách cư 
xử, thể hiện tình cảm; hoàn cảnh sống. 
Kết quả bảng 6 cho thấy: 
- Nhóm các nguyên nhân được đánh giá có 
ảnh hưởng nhất đến sự phát triển trí tuệ cảm 
xúc của sinh viên là giáo dục gia đình. Có đến 
32,1% và 47,8% sinh viên cho r ng nguyên 
nhân này ảnh hưởng ở mức rất nhiều và nhiều 
đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc của các em. 
Chỉ có 6,4% sinh viên cho r ng nguyên nhân 
này ảnh hưởng ở mức độ ít hoặc không ảnh 
hưởng đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc của 
các em. Gia đình là yếu tố rất quan trọng ảnh 
hưởng đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc của 
mỗi cá nhân bởi lẽ hầu như tất cả những cách 
cư xử, giao tiếp, cách thể hiện bản thân, cách 
sống hòa đồng với người khác đều được 
lĩnh hội từ trong giáo dục gia đình, và ngay từ 
khi còn rất nh , nó như đ n sâu vào trong 
tiềm thức của các em. Sự giáo dục của gia 
đình và nhà trường là hai yếu tố ảnh hưởng 
trực tiếp đến việc bồi dưỡng, hình thành và 
phát triển trí tuệ cảm xúc. Nghiên cứu của 
Trư ng Thị Khánh Hà cũng chứng minh: trí 
tuệ cảm xúc có mối tư ng quan thuận và khá 
chặt chẽ với cảm nhận về quan hệ gia đình và 
quan hệ bạn bè (r = 0,33 và r = 0,47, với p < 
0,001). Điều này chứng t trẻ có trí tuệ cảm 
xúc càng cao thì mối quan hệ gia đình và 
quan hệ bạn bè càng tốt đẹp và ngược lại [14]. 
Tuy nhiên, đối với sinh viên, sự giáo dục từ 
gia đình là yếu tố ảnh hưởng quá khứ, bởi các 
em đa phần hiện sống tách biệt gia đình vì 
vậy để nâng EQ của sinh viên phải tìm các 
nguyên nhân yếu tố khác. 
- Xếp vị trí thứ hai là nguyên nhân nhu cầu, 
mong muốn nâng cao trí tuệ cảm xúc, trong đó 
có 24,8% và 48,4% sinh viên đánh giá nguyên 
nhân này ảnh hưởng ở mức độ rất nhiều và 
nhiều; chỉ có 4,6% và 1,5% sinh viên nhận 
định nguyên nhân này ảnh hưởng ở mức độ ít 
và không ảnh hưởng. Điều này cho thấy muốn 
nâng cao trí tuệ cảm xúc của sinh viên thì 
trước tiên phải tác động vào nhu cầu, mong 
muốn của các em, tạo sự hứng thú, tạo động c 
thôi thúc để các em có thể tự rèn luyện và phát 
triển trí tuệ cảm xúc cho bản thân. 
- Xếp vị trí nguyên nhân ảnh hưởng thứ 3 đến 
sự phát triển trí tuệ là sự tích cực, chủ động 
tham gia các hoạt động có tính tập thể ở 
trường, x hội. Cùng với nhu cầu mong muốn 
nâng cao EQ của bản thân thì tính tích cực 
hoạt động của chính cá nhân là yếu tố quyết 
định trực tiếp sự phát triển trí tuệ cảm xúc của 
cá nhân đó. Những tiềm n ng trí tuệ của cá 
nhân có được phát huy hay không là tùy thuộc 
vào tính chất hoạt động, khai thác của cá nhân 
đó. Trí tuệ cảm xúc cao hay thấp chủ yếu do 
hoạt động và giao lưu của cá nhân với môi 
trường x hội. Vì vậy ngay với môi trường 
tập thể tốt, mỗi sinh viên vẫn cần tích cực chủ 
động tham gia các hoạt động thì EQ bản thân 
mới được nâng cao. 
Như vậy, theo đánh giá của sinh viên đại học 
điều dưỡng chính quy thì trong nhóm các 
nguyên nhân có ảnh hưởng đến sự phát triển 
trí tuệ cảm xúc của các em ở mức cao thì 
nguyên nhân từ gia đình là quan trọng nhất, 
kế đến là từ bản thân. 
- Nguyên nhân được cho là ảnh hưởng ít nhất 
đến sự phát triển trí tuệ cảm xúc của sinh viên 
đại học điều dưỡng chính quy là nghề nghiệp 
của cha mẹ, kế đến là nguyên nhân di truyền 
từ cha mẹ. Chỉ có 18% sinh viên cho r ng 
nghề nghiệp của cha mẹ ảnh hưởng đến sự 
phát triển trí tuệ cảm xúc của các em ở mức 
nhiều và rất nhiều. 
- Khi xem x t ở góc độ các nguyên nhân chủ 
quan (từ nguyên nhân số 1 đến 7) và các 
nguyên nhân khách quan (từ nguyên nhân số 
Lê Thị Huyền Trinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(04): 7 - 14 
 Email: jst@tnu.edu.vn 14 
8 đến 15), chúng tôi thấy r ng các nguyên 
nhân này có mức độ ảnh hưởng gần tư ng 
đư ng nhau, đan xen lẫn nhau khi xếp vị trí 
thứ bậc. Như vậy, đối với sinh viên Đại học 
Điều dưỡng Nam Định, hầu như các nguyên 
nhân chủ quan và khách quan đều có tác động 
đến sự phát triển TTCX của các em ở mức độ 
tư ng đư ng nhau. Bởi lẽ để sinh viên thực 
hiện hoạt động học tập và nghiên cứu nghề 
nghiệp nh m kh ng định và hoàn thiện bản 
thân, thì cần có sự định hướng và chỉ dẫn từ 
nhà trường và gia đình. 
So sánh với kết quả nghiên cứu của Trần Thị 
Thu Mai ở sinh viên Đại học Sư phạm thành 
phố Hồ Chí Minh với bộ câu h i như trên, cũng 
cho kết quả tư ng tự như nghiên cứu của chúng 
tôi: nhóm các nguyên nhân được đánh giá là có 
ảnh hưởng đến sự phát triển TTCX của các em 
ở mức cao nhất là giáo dục gia đình; xếp vị trí 
thứ 2 là nguyên nhân từ nhu cầu, mong muốn 
nâng cao TTCX; xếp vị trí thứ 3 là sự ảnh 
hưởng từ hoàn cảnh sống. Nguyên nhân ảnh 
hưởng đến sự phát triển TTCX của SV ĐHSP 
TPHCM thì nghề nghiệp của cha mẹ là có ảnh 
hưởng ở mức thấp nhất [3]. 
5. Kết luận 
 - Điểm EQ trung bình của sinh viên đại học 
chính quy trường đại học điều dưỡng Nam 
Định là 17,3 với độ sai lệch chuẩn là 3,73. 
Phân loại EQ mức trung bình chiếm 78,1%; 
tỷ lệ k m chiếm 4,3%, mức cao chiếm 17,6%. 
- Phân loại EQ theo khóa: Giá trị trung bình 
EQ của sinh viên n m 1-4 từ 16,1 đến 17,8 
điểm. EQ của nhóm sinh viên n m thứ tư cao 
nhất (17,8) và thấp nhất là nhóm sinh viên 
n m ba (16,1). Sự khác biệt về EQ giữa các 
n m có ý nghĩa thống kê với p = 0,013. 
- Phân loại EQ theo thành tố cảm xúc: N ng 
lực nhận thức và bày t cảm xúc (điểm trung 
bình 13,1) tốt h n n ng lực thấu hiểu và quản 
lý cảm xúc bản thân (điểm trung bình 4). 
- Các nguyên nhân được đánh giá là có ảnh 
hưởng đến sự phát triển TTCX của sinh viên ở 
mức cao nhất là giáo dục gia đình; xếp vị trí 
thứ 2 là nguyên nhân từ nhu cầu, mong muốn 
nâng cao TTCX; xếp vị trí thứ 3 là tích cực, 
chủ động tham gia các hoạt động có tính tập 
thể ở trường, x hội. Nguyên nhân được cho là 
ảnh hưởng ít nhất đến sự phát triển trí tuệ cảm 
xúc của sinh viên là nghề nghiệp của cha mẹ, 
kế đến là nguyên nhân di truyền từ cha mẹ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/REFERENCES 
[1]. D. Goleman (P. T., M. P., P. L. translate), 
Emotional intelligence applied at work, 
Knowledge, Hanoi, 2007. 
[2]. T. B. Berry, and J. Greaves (X. V. Uong, D. 
K. Tran translate), Intelligent emotions 2.0 
(Improve EQ for happiness and success), 
Women's Publishing House, Hanoi, 2012. 
[3]. T. T. M. Tran, "Surveying emotional intelligence 
of students at Ho Chi Minh City University of 
Education,” Journal of Science - HCMC 
University of Education, vol. 48, pp. 76-86, 2013. 
[4]. N. Q. D. Nguyen, "Surveying emotional 
intelligence of students of Education at Saigon 
University through MSCEIT test,” Journal of 
Saigon University, vol. 12, pp. 86-94, 2012. 
[5]. T. N. Phan, "The level of intelligence and 
emotional intelligence of students of Dong 
Thap University of Education,” Journal of 
Psychology, vol. 4, no. 97, pp. 38-45, 2007. 
[6]. T. H. Y. Duong, Emotional intelligence of 
Primary teachers, M.S. thesis in psychology, 
Institute of Psychology - Vietnam Academy of 
Social Sciences, 2010. 
[7]. K. Tran et al, Research develop intelligence 
(IQ, EQ, CQ) of students and young workers 
to meet the requirements of industrialization 
and modernization, Report on research results 
of the State-level Science and Technology 
project MS KX05-06, 2004. 
[8]. T. H. Nguyen, Situation of personality and 
emotional intelligence of Dentistry students, 
Preventive medicine at Hai Phong University 
of Medicine and Pharmacy in 2014, Public 
health, Hai Phong University of Medicine and 
Pharmacy, 2014. 
[9]. T. S. Phan, Surveying EQ emotion index and 
the relationship with the learning outcomes of 
Nursing students at Duy Tan University, The 
19th Conference of Youth Science and 
Technology at Universities, Colleges of 
Medicine and Pharmacy in Vietnam, 2018. 
[10]. T. T. H. Nguyen, Some high neurological 
activity indicators of students of Quang Minh 
High School in Me Linh District, Hanoi City, 
M.S. thesis in biology, Hanoi Padagogical 
University 2, 2013. 
[11]. R. Bar-On, "The Bar-On model of Emotional 
Social Intelligence (ESI),” Psicothema, vol. 18, 
pp. 13-25, 2006. 
[12]. J. Mayer, D. R. Caruso and P. Salovey, What is 
emotional intelligence? Emotional development 
and emotional intelligence, Educational 
implications, Basic Book, New York, 1997. 
[13]. H. A. Ibrahim et al, "Relationship Between 
Nursing Students’ Emotional Intelligence and 
Their Clinical Performance During Obstetrics 
and Gynaecologic Nursing Practical 
Training,” American Journal of Nursing 
Science, vol. 5, no. 6, pp. 240-250, 2016. 
[14]. T. K. H. Truong, and T. T. V. Nguyen, 
"Emotional intelligence and relationships,” VNU 
Journal of Science, vol. 31, no. 1, pp. 20-28, 2015. 

File đính kèm:

  • pdfmuc_do_tri_tue_cam_xuc_cua_sinh_vien_dai_hoc_dieu_duong_chin.pdf