Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019

Già hóa dân số là một trong những xu hướng quan trọng nhất của thế kỷ 21. Các bằng chứng cho thấy về sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh, nhập viện, tử vong, và suy giảm chức năng liên quan đến các rối loạn tâm thần phổ biến ở người cao tuổi, trong đó rối loạn trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến nhất.

Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019 trang 1

Trang 1

Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019 trang 2

Trang 2

Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019 trang 3

Trang 3

Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019 trang 4

Trang 4

Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019 trang 5

Trang 5

Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019 trang 6

Trang 6

Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019 trang 7

Trang 7

Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019 trang 8

Trang 8

Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019 trang 9

Trang 9

pdf 9 trang Danh Thịnh 13/01/2024 2360
Bạn đang xem tài liệu "Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019

Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019
14
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 04-2019)
Journal of Health and Development Studies (Vol.03, No.04-2019)
Nguyễn Hằng Nguyệt Vân và cộng sự
ĐẶT VẤN ĐỀ
Già hóa dân số đang đặt ra nhiều thách thức 
cho mỗi quốc gia trên các mặt xã hội, kinh tế 
và y tế. Các nghiên cứu cho thấy nhiều người 
già đang bị mất đi khả năng sống một cách 
độc lập vì họ bị hạn chế về vận động, yếu về 
thể chất hoặc các vấn đề về sức khỏe tâm thần 
khác mà đòi hỏi phải có sự chăm sóc lâu dài. 
Các bằng chứng trên thế giới cũng cho thấy 
sự gia tăng về tỷ lệ mắc bệnh, tử vong, nhập 
viện và suy giảm chức năng liên quan đến các 
rối loạn tâm thần phổ biến ở người cao tuổi 
(1), trong đó rối loạn trầm cảm là một trong 
những rối loạn tâm thần phổ biến nhất với tỷ 
lệ mắc từ 30% đến 86%, đặc biệt là tại các 
viện dưỡng lão (2-8). Trầm cảm hay gặp ở 
người cao tuổi nhưng thường bị coi nhẹ và 
không được điều trị, vì chúng xảy ra cùng lúc 
với các vấn đề khác hay gặp phải ở người cao 
tuổi (9). Tỷ lệ trầm cảm ở người cao tuổi có 
sự thay đổi đáng kể giữa các quốc gia và dân 
Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, 
Hà Nội, năm 2019
Nguyễn Hằng Nguyệt Vân1*, Nguyễn Thị Khánh Huyền2, Hà Ngọc Anh3, Vũ Thị Thanh Mai1, 
Phạm Quốc Thành1
BÀI BÁO NGHIÊN CỨU GỐC
TÓM TẮT 
Già hóa dân số là một trong những xu hướng quan trọng nhất của thế kỷ 21. Các bằng chứng cho thấy về 
sự gia tăng tỷ lệ mắc bệnh, nhập viện, tử vong, và suy giảm chức năng liên quan đến các rối loạn tâm thần 
phổ biến ở người cao tuổi, trong đó rối loạn trầm cảm là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến nhất.
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm mục đích 1) mô tả thực trạng trầm cảm và 2) xác định các yếu tố liên 
quan đến trầm cảm ở người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội năm 2019.
Phương pháp: Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang trên 376 người cao tuổi (từ 60 trở lên) được chọn 
ngẫu nhiên tại huyện Chương Mỹ, Hà Nội, năm 2019.
Kết quả: Tỷ lệ người cao tuổi được đánh giá trầm cảm là 26,1% (18,6% trầm cảm nhẹ, 6,1% trầm cảm 
vừa và 2,4% trầm cảm nặng). Nghiên cứu chỉ ra các yếu tố liên quan đến trầm cảm người cao tuổi như 
giới tính, trình độ học vấn, kinh tế gia đình, hoàn cảnh sống, công việc hiện tại, nhu cầu được hỗ trợ tâm 
lý và có tham gia các hoạt động xã hội (p<0,05).
Kết luận: Việc nhận biết trầm cảm ở người cao tuổi là quan trọng để thiết kế các chương trình y tế công 
cộng giúp sàng lọc bệnh trầm cảm sớm, tăng cường các hỗ trợ xã hội để cải thiện đời sống tinh thần của 
người cao tuổi.
Từ khoá: trầm cảm, người cao tuổi, PHQ-9.
*Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Hằng Nguyệt Vân
Email: nhnv@huph.edu.vn
1Trường Đại học Y tế công cộng
2Viện Dân số sức khoẻ và phát triển
3Vụ Sức khoẻ Bà mẹ- Trẻ em, Bộ Y tế
Ngày nhận bài: 14/11/2019
Ngày phản biện: 02/12/2019
Ngày đăng bài: 31/12/2019
15
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 04-2019)
Journal of Health and Development Studies (Vol.03, No.04-2019)
Nguyễn Hằng Nguyệt Vân và cộng sự
số cao tuổi khác nhau, nhưng phần lớn các 
nghiên cứu chỉ ra rằng trầm cảm ở người cao 
tuổi có liên quan nhiều đến tình trạng người 
cao tuổi bị rối loạn giấc ngủ (10), và có nhận 
thức kém hơn (11), hay đang gặp phải các vấn 
đề sức khoẻ khác (2, 12-15). Tại Việt Nam, 
trầm cảm cũng là một trong những bệnh lý 
tâm thần phổ biến ở người cao tuổi, tỷ lệ bệnh 
này gia tăng theo độ tuổi (16). Một nghiên 
cứu gần đây về thực trạng trầm cảm ở người 
cao tuổi sống ở Hà Nội cho kết quả là 66,9% 
người bị trầm cảm (trong đó 32,8% ở mức 
độ nhẹ, 30,4% ở mức độ trung bình và 3,7% 
ở mức độ nặng) (17). Tuy nhiên, sức khỏe 
tâm thần của người cao tuổi tại Việt Nam nói 
chung và vấn đề trầm cảm ở người già vẫn 
chưa được quan tâm đúng mức khi không có 
nhiều nghiên cứu về vấn đề này.
Nghiên cứu này được thực hiện trên nhóm 
đối tượng người cao tuổi tại Chương Mỹ, một 
huyện ngoại thành Hà Nội, với mục tiêu: 1) 
Mô tả thực trạng trầm cảm ở người cao tuổi 
và 2) Xác định một số yếu tố liên quan đến 
thực trạng trầm cảm ở người cao tuổi huyện 
Chương Mỹ, năm 2019.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu: Từ 
tháng 07/2019-10/2019 tại huyện Chương 
Mỹ, Hà Nội
Đối tượng nghiên cứu
Người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) đang sinh 
sống tại khu vực nghiên cứu và đồng ý tham 
gia nghiên cứu. Loại trừ những người cao tuổi 
không đủ sức khỏe (bệnh nặng) hoặc có khó 
khăn trong giao tiếp (khiếm thính, khiếm thị) 
không thể tham gia phỏng vấn.
Cỡ mẫu, chọn mẫu và phương pháp thu 
thập số liệu
Áp dụng công thức ước tính một tỷ lệ, tính 
toán cỡ mẫu tối thiểu là 340, dự phòng 10%, 
nên số mẫu phỏng vấn là 376. Nghiên cứu 
chọn mẫu theo 2 giai đoạn: Giai đoạn 1 nhóm 
nghiên cứu chọn ngẫu nhiên 2 xã trong đó sẽ 
có 1 xã nằm trong nhóm xã có kinh tế phát 
triển nhất trong huyện và 1 xã nằm trong nhóm 
xã có kinh tế phát triển thấp hơn trong huyện. 
Giai đoạn 2, tại mỗi xã, chúng tôi sẽ chọn ngẫu 
nhiên 190 người cao tuổi để gửi giấy mời tham 
gia nghiên cứu. Tỷ lệ người cao tuổi tham gia 
đạt 98,9%. Sau đó, các điều tra viên đã được 
tập huấn đã phỏng vấn trực tiếp người cao tuổi 
để đánh giá tâm trạng của họ bằng bảng hỏi.
Biến số nghiên cứu và tiêu chí đánh giá
Các biến số chính được thu thập trong bảng 
hỏi phỏng vấn bao gồm: thông tin chung của 
đối tượng nghiên cứu (tuổi, giới, trình độ học 
vấn, điều kiện sống ), đánh giá về tâm trạng 
của người cao tuổi theo thang đo trầm cảm 
The patient Health Questionare (PHQ-9), 
gồm 9 câu hỏi về cảm nhận của người cao 
tuổi trong 2 tuần qua. Để đánh giá có bị trầm 
cảm hay không và trầm cảm ở mức độ nào 
cần cộng điểm của tất cả các câu từ 1 đến 9, 
tổng điểm cao nhất sẽ là 27 điểm. Kết quả 
đánh giá về mức độ trầm cảm theo tổng điểm 
là 27 điểm (0-4 điểm: Không trầm cảm; 5-9 
điểm: Triệu chứng tối thiểu, có nguy cơ; 10-
14 điểm: Trầm cảm nhẹ; ... 
19
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 04-2019)
Journal of Health and Development Studies (Vol.03, No.04-2019)
Phân tích hồi quy logistic đơn biến (mức ý nghĩa 
α=0,05) được tiến hành với biến phụ thuộc là 
có trầm cảm, biến độc lập là các biến yếu tố cá 
nhân và các hành vi liên quan đến cá nhân. Kết 
quả phân tích hồi quy đơn biến cho thấy có 08 
yếu tố liên quan đến tình trạng trầm cảm như 
trình bày ở bảng 3 đã được đưa vào mô hình hồi 
quy đa biến. Yếu tố công việc hiện tại sau khi 
đưa vào mô hình hồi quy logistic đa biến không 
còn ý nghĩa thống kê do ảnh hưởng của yếu 
tố nhiễu toàn phần. Do mô hình đã kiểm soát 
các biến gây nhiễm nên cũng thay đổi OR hiệu 
chỉnh của các yếu tố thực sự có tác động đến 
có trầm cảm. Cụ thể, về yếu tố cá nhân, nữ có 
nguy cơ trầm cảm cao hơn 2,05 lần nam (1,58-
5,03). Tỷ lệ trầm cảm ở người cao tuổi có trình 
độ học vấn dưới THPT cao hơn so với nhóm 
người cao tuổi có trình độ học vấn từ THPT trở 
lên với OR=3,03 (1,48-10,2). Tỷ lệ trầm cảm 
trong nhóm người cao tuổi nghèo/cận nghèo 
cao gấp 3,4 lần so với nhóm người cao tuổi có 
kinh tế gia đình không nghèo. Đặc biệt, về hoàn 
cảnh sống, tỷ lệ trầm cảm ở nhóm người cao 
tuổi sống một mình cao gấp 6,8 lần so với nhóm 
người cao tuổi sống cùng gia đình/người thân. 
Về hành vi liên quan đến cá nhân: Tỷ lệ trầm 
cảm ở nhóm người cao tuổi đã thăm khám và 
điều trị sức khoẻ trong 12 tháng qua cao hơn 
gấp 4,03 lần so với nhóm còn lại. Những người 
cao tuổi đang mong muốn được hỗ trợ tâm 
lý có tỷ lệ trầm cảm hơn so với nhóm còn lại 
với OR=2,37 (1,4-4,01). Nhóm người cao tuổi 
không tham gia hoạt động xã hội tại địa phương 
có tỷ lệ trầm cảm cao so với nhóm đang tham 
gia với OR=1,74 (1,02-2,97). 
BÀN LUẬN
Thực trạng trầm cảm ở người cao tuổi 
huyện Chương Mỹ, Hà Nội
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ người cao 
tuổi tại huyện Chương Mỹ được đánh giá trầm 
cảm tại là 26,1% (trong đó 18,6% trầm cảm 
nhẹ, 6,1% trầm cảm vừa và 2,4% trầm cảm 
nặng). Tuy nhiên, nếu bao gồm cả tỷ lệ người 
cao tuổi có các triệu chứng tối thiểu, có nguy 
cơ trầm cảm, thì con số này lên tới 66,2%. Kết 
quả này tương đối tương đồng tỷ lệ người cao 
tuổi được sàng lọc trầm cảm bằng bộ công cụ 
Zung SDS tại phường Trung Tự, Đống Đa, 
Hà Nội năm 2018 (66,9%). Tỷ lệ người cao 
tuổi được xác định trầm cảm trong nghiên 
cứu của chúng tôi cũng nằm trong khoảng tỷ 
lệ mắc từ 30% đến 86% của các nghiên cứu 
gần đây trên thế giới (2-8). 
Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm ở 
người cao tuổi huyện Chương Mỹ, Hà Nội
Tỷ lệ người cao tuổi là nữ được sàng lọc là 
trầm cảm cao hơn hẳn so với nam giới, sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê trong nghiên 
cứu này, hoàn toàn tương đồng với nghiên 
cứu về sự khác biệt giới về mức độ trầm cảm 
ở người cao tuổi tại Kiến Xương, Thái Bình, 
năm 2013 (18). Các yếu tố về giới tính (nam 
giới), nhóm tuổi trẻ hơn, có thu nhập cao hơn, 
và không mắc các bệnh mạn tính khiến người 
cao tuổi có sức khoẻ tầm thần tốt hơn cũng 
được chứng minh ở nhóm người cao tuổi tại 
Nam Phi (7).
Nghiên cứu ở Trung Quốc đã chỉ ra rằng 
nhóm người già sống cùng vợ chồng/người 
thân có khả năng hoạt động xã hội và chỉ 
số cảm xúc và tinh thần cao hơn hẳn so với 
nhóm người già sống một mình (19). Nghiên 
cứu của chúng tôi cũng tìm ra mối liên quan 
có ý nghĩa thống kê giữa việc trầm cảm và 
hoàn cảnh sống của người cao tuổi. Như vậy 
có thể thấy các tương tác trong gia đình có thể 
thúc đẩy giá trị của người cao tuổi và có vai 
trò bảo vệ đối với các đầu ra về sức khỏe tâm 
thần ở nhóm người cao tuổi. Báo cáo gần đây 
tại Ấn Độ trên 3083 người trên 60 tuổi năm 
2018 cũng chỉ ra môi trường sống có mối liên 
Nguyễn Hằng Nguyệt Vân và cộng sự
20
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 04-2019)
Journal of Health and Development Studies (Vol.03, No.04-2019)
quan đến sức khỏe tâm thần của nhóm người 
cao tuổi, tỷ lệ trầm cảm cao hơn ở phụ nữ và 
gia đình neo đơn (20).
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người 
có lịch sử trầm cảm và tiền sử lo âu có mối 
liên quan đến nhu cầu được hỗ trợ về tâm lý. 
Các mức độ trầm cảm cũng liên quan đến sức 
khoẻ thể chất kém và các rối loạn lo âu, đặc 
biệt là khi các triệu chứng nhiều hơn sẽ thúc 
đẩy các cá nhân có nhu cầu được chăm sóc 
sức khoẻ tâm thần (21-23). Điều này hoàn 
toàn phù hợp với nghiên cứu của chúng tôi, 
khi mà nhóm người cao tuổi mong muốn 
được trợ giúp về tâm lý và đã thăm khám và 
điều trị sức khoẻ trong 12 tháng qua có tỷ lệ 
sàng lọc là trầm cảm cao hơn so với nhóm còn 
lại được chỉ ra là có ý nghĩa thống kê. 
Bên cạnh đó, việc tham gia các hoạt động xã 
hội ý nghĩa góp phần tạo nên tuổi già khoẻ 
mạnh. Người cao tuổi tích cực tham gia các 
hoạt động xã hội và tương tác xã hội sẽ cải 
thiện sức khoẻ thể chất và tâm thần, ít có khả 
năng bị trầm cảm hơn (17, 24). Nghiên cứu 
này cũng một lần nữa khẳng định, người cao 
tuổi hiện không làm việc và không tham gia 
vào các hoạt động xã hội có tỷ lệ trầm cảm 
cao hơn so với nhóm còn lại. Như vậy tương 
tác xã hội và tham gia các hoạt động xã hội 
mang lại lợi ích về sức khoẻ tâm thần và sự 
hài lòng về cuộc sống cho người cao tuổi.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ người cao tuổi tại huyện Chương Mỹ 
được đánh giá trầm cảm là 26,1% (trong đó 
18,6% trầm cảm nhẹ, 6,1% trầm cảm vừa và 
2,4% trầm cảm nặng). Dựa trên những yếu 
tố liên quan đã tìm hiểu được trong nghiên 
cứu này, chúng tôi đề xuất những khuyến 
nghị cụ thể như sau: Người cao tuổi nên 
sống cùng gia đình/người thân, tích cực 
tham gia các hoạt động xã hội và làm việc 
để tăng các tương tác xã hội để cải thiện sức 
khoẻ tâm thần. Ngoài ra, cũng cần có các 
chương trình can thiệp phù hợp để tác động 
làm thay đổi nhận thức, thái độ của người 
cao tuổi, hướng đến thực hiện hành vi tích 
cực; qua đó góp phần giảm thiểu gánh nặng 
trầm cảm ở người cao tuổi tại địa phương. 
Những yếu tố liên quan như giới tính, trình 
độ học vấn, kinh tế gia đình, đã thăm khám 
và điều trị sức khỏe trong 12 tháng qua, đây 
sẽ là các chỉ báo để các cơ quan chức năng 
(trung tâm y tế, Hội người cao tuổi, y tế địa 
phương) quan tâm theo dõi, thăm hộ gia đình 
và tiến hành sàng lọc sớm bằng cách sử dụng 
các bộ câu hỏi sàng lọc cho người già trong 
cộng đồng (PHQ-9) một cách thường xuyên, 
để phát hiện sớm trầm cảm thay vì chẩn đoán 
ở giai đoạn muộn, để giảm gánh nặng bệnh 
tật cho gia đình và xã hội. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Parkar SR. Elderly Mental Health: Needs. 
Mens Sana Monogr [Internet]. 2015 [cited 10 
December 2018];13(1):91–9. Available at: 
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/
PMC4381326/
2. Sarokhani D, Parvareh M, Hasanpour Dehkordi 
A, Sayehmiri K, Moghimbeigi A. Prevalence of 
Depression among Iranian Elderly: Systematic 
Review and Meta-Analysis. Iran J Psychiatry. 
Jan 2018;13(1):55–64. 
3. Nakulan A, Sumesh TP, Kumar S, Rejani PP, 
Shaji KS. Prevalence and risk factors for 
depression among community resident older 
people in Kerala. Indian J Psychiatry [Internet]. 
2015 [cited 19 Jan 2019];57(3):262–6. 
Available at: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/
pmc/articles/PMC4623644/
4. Nazemi L, Skoog I, Karlsson I, Hosseini S, 
Hosseini M, Hosseinzadeh Mj, et al. Depression, 
Prevalence and Some Risk Factors in Elderly 
Nursing Homes in Tehran, Iran. Iran J Public 
Health [Internet]. 1 June 2013 [cited 19 Jan 
2019];42(6):559–69. Available at: https://www.
ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC3744252/
Nguyễn Hằng Nguyệt Vân và cộng sự
21
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 04-2019)
Journal of Health and Development Studies (Vol.03, No.04-2019)
5. Ma X, Xiang Y-T, Li S-R, Xiang Y-Q, 
Guo H-L, Hou Y-Z, et al. Prevalence and 
sociodemographic correlates of depression 
in an elderly population living with family 
members in Beijing, China. Psychol Med. 
December 2008;38(12):1723–30. 
6. Imran A, Azidah AK, Asrenee AR, Rosediani 
M. Prevalence of depression and its associated 
factors among elderly patients in outpatient 
clinic of Universiti Sains Malaysia Hospital. 
Med J Malaysia. June 2009;64(2):134–9. 
7. Peltzer K, Phaswana-Mafuya N. Depression and 
associated factors in older adults in South Africa. 
Glob Health Action [Internet]. 1 June 2013 [cited 
11 December 2018];6(s6):18871. Available at: 
https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.3402/
gha.v6i0.18871%40zgha20.2013.6.issue-s6
8. Kitchen KA, McKibbin CL, Wykes TL, Lee 
AA, Carrico CP, McConnell KA. Depression 
Treatment Among Rural Older Adults: 
Preferences and Factors Inuencing Future 
Service Use. Clin Gerontol [Internet]. 2013 
[cited 19 Jan 2019];36(3). Available at: 
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/
PMC3881270/
9. Yasamy MT, Dua T, Harper M, Saxena S. 
Mental Health of the Elderly.6. 
10. Press Y, Punchik B, Freud T. The association 
between subjectively impaired sleep and 
symptoms of depression and anxiety in a frail 
elderly population. Aging Clin Exp Res. July 
2018;30(7):755–65. 
11. Baiyewu O, Smith-Gamble V, Lane KA, Gureje 
O, Gao S, Ogunniyi A, và c.s. Prevalence 
estimates of depression in elderly community-
dwelling African Americans in Indianapolis and 
Yoruba in Ibadan, Nigeria. Int Psychogeriatr. 
Aug 2007;19(4):679–89. 
12. Hornsten C, Molander L, Gustafson Y. The 
prevalence of stroke and the association 
between stroke and depression among a very 
old population. Arch Gerontol Geriatr. Dec 
2012;55(3):555–9. 
13. Liguori I, Russo G, Curcio F, Sasso G, Della-
Morte D, Gargiulo G, et al. Depression 
and chronic heart failure in the elderly: an 
intriguing relationship. J Geriatr Cardiol JGC. 
June 2018;15(6):451–9. 
14. Zhang Y, Chen Y, Ma L. Depression and 
cardiovascular disease in elderly: Current 
understanding. J Clin Neurosci Off J Neurosurg 
Soc Australas. Jan 2018;47:1–5. 
15. Bauer H, Emeny RT, Baumert J, Ladwig K-H. 
Resilience moderates the association between 
chronic pain and depressive symptoms in the 
elderly. Eur J Pain Lond Engl. 2016;20(8):1253–
65. 
16. General Ofce for Population Family Planning. 
Overview report on the care policies for the 
aged adapt changing age structure in Vietnam. 
2009. 
17. Dao ATM, Nguyen VT, Nguyen HV, Nguyen 
LTK. Factors Associated with Depression 
among the Elderly Living in Urban Vietnam. 
BioMed Res Int. 2018;2018:2370284. 
18. Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Văn Huy. Sự khác 
biệt giới và một số yéu tố ảnh hưởng đến trầm 
cảm ở người cao tuổi tại 3 xã thuộc huyện Kiến 
Xương, tỉnh Thái Bình, năm 2013. Tạp chí Y 
học cộng đồng. Tháng Ba 2014;05:19–23. 
19. Chao J, Li Y, Xu H, Yu Q, Wang Y, Liu P. 
Health status and associated factors among the 
community-dwelling elderly in China. Arch 
Gerontol Geriatr [Internet]. 2013 [cited 11 
Dec 2018];56(1):199–204. Available at: http://
europepmc.org/abstract/med/23102740
20. Sengupta P, Benjamin AI. Prevalence of 
depression and associated risk factors among 
the elderly in urban and rural eld practice areas 
of a tertiary care institution in Ludhiana. Indian 
Journal Public Health. Mar 2015;59(1):3–8. 
21. Burns BJ, Ryan Wagner H, Gaynes BN, 
Wells KB, Schulberg HC. General medical 
and specialty mental health service use for 
major depression. Int Journal Psychiatry Med. 
2000;30(2):127–43. 
22. Ronalds C, Kapur N, Stone K, Webb S, 
Tomenson B, Creed F. Determinants of 
consultation rate in patients with anxiety and 
depressive disorders in primary care. Fam 
Pract. Feb 2002;19(1):23–8. 
23. Van Voorhees BW, Fogel J, Houston TK, 
Cooper LA, Wang N-Y, Ford DE. Attitudes and 
illness factors associated with low perceived 
need for depression treatment among young 
adults. Soc Psychiatry Psychiatr Epidemiol. 
Sep 2006;41(9):746–54. 
24. Chiao C, Weng L-J, Botticello AL. Social 
participation reduces depressive symptoms 
among older adults: an 18-year longitudinal 
analysis in Taiwan. BMC Public Health. 10 
May 2011;11:292. 
Nguyễn Hằng Nguyệt Vân và cộng sự
22
Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển (Tập 03, Số 04-2019)
Journal of Health and Development Studies (Vol.03, No.04-2019)
Factors associated with depression among the elderly living in Chuong My 
district, Hanoi, 2019
Nguyen Hang Nguyet Van1*, Nguyen Thi Khanh Huyen2, Ha Ngoc Anh3,
Vu Thị Thanh Mai1, Pham Quoc Thanh1
1Hanoi University of Public Health
2The Institute of Population, Health and Development
3Maternal and Child Health Department, Ministry of Health
Background: Population aging is one of the most important trends of the 21st century. Evidence 
shows an increase in morbidity, hospitalization, mortality, and functional impairment associated 
with mental disorders in the elderly, in which depressive disorder is one of the most common 
mental disorders. Objectives: This study aims to 1) describe the situation of depression and 2) 
analyze some related factors in the elderly with depression in Chuong My district, Hanoi, 2019. 
Methods: A cross-sectional study was conducted on 376 elderly people (aged 60 and older) 
who were randomly selected in Chuong My District, Hanoi, 2019. Results: The results showed 
that the proportion of elderly people with depression was 26.1% (18.6% of minor depression, 
6.1% of moderate depression and 2.4% of major depression). Factors related to depression in 
the elderly such as gender, education, family economy, living arrangement, current jog, the 
need for psychological support and participation in social activities were statistically signicant 
(p<0.05). Conclusions: Recognizing depression among the elderly – which is individual and 
social – helps us design public health programs. Screening for early depression, encourage and 
increase acesssing the mental health services to improve mental life of the elderly.
Key words: depression, elderly people, PHQ-9.
Nguyễn Hằng Nguyệt Vân và cộng sự

File đính kèm:

  • pdfmot_so_yeu_to_lien_quan_den_tram_cam_o_nguoi_cao_tuoi_huyen.pdf