Một số vấn đề cơ bản thời đương đại
Đương đại là một thời kỳ với nhiều chuyển biến mạnh mẽ và bất khả đoán trên nhiều phương diện. Bài viết nhận diện các đặc điểm tư tưởng của thời đương đại và đề cập đến một số vấn đề nổi bật mà nhân loại đang phải đối mặt từ nửa sau thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI như toàn cầu hóa kinh tế, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề cơ bản thời đương đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề cơ bản thời đương đại
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (253) 2019 17 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN THỜI ĐƯƠNG ĐẠI TRẦN THANH PHƯƠNG* Đương đại là một thời kỳ với nhiều chuyển biến mạnh mẽ và bất khả đoán trên nhiều phương diện. Bài viết nhận diện các đặc điểm tư tưởng của thời đương đại và đề cập đến một số vấn đề nổi bật mà nhân loại đang phải đối mặt từ nửa sau thế kỷ XX đến đầu thế kỷ XXI như toàn cầu hóa kinh tế, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, khủng hoảng môi trường ở cấp độ toàn cầu và sự phân tán quyền lực như một thách đố cho nền chính trị đương đại. Kết quả cho thấy các vấn đề thực tiễn đương đại có những điểm chung như sự đan xen và thâm nhập vào nhau giữa tính hiện đại và hậu hiện đại, giữa cái trung tâm và phi trung tâm, giữa cái duy lý và phi lý, mâu thuẫn, phức tạp, bất ổn và nhiều yếu tố khác. Từ khóa: đƣơng đại, toàn cầu hóa, cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ, khủng hoảng môi trƣờng, phân tán quyền lực chính trị Nhận bài ngày: 25/7/2019; đưa vào biên tập: 28/7/2019; phản biện: 1/8/2019; duyệt đăng: 4/9/2019 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghiên cứu về thời đƣơng đại là một trong những yêu cầu cấp bách của đời sống thực tiễn để nắm đƣợc tính phức tạp của những hiện tƣợng đang biến chuyển mau lẹ và nhận thức đƣợc mọi biến động của thời đại, đối diện với những rủi ro khó lƣờng. Trong khoa học xã hội ở Việt Nam hiện nay đã có những công trình nghiên cứu về thời kỳ này. Tuy nhiên, các công trình ấy hoặc là đƣa ra các nhận định dƣới dạng khái quát lý luận về các đặc tính bên trong, hoặc là tổng kết các biểu hiện của hoạt động thực tiễn - hoạt động vật chất ở bên ngoài (đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ thuật) nhằm chỉ ra thời cơ, thách thức và tƣ vấn chính sách. Bài viết nhằm làm rõ một số vấn đề trong thời đại ngày nay, trong bức tranh tổng thể đƣơng đại không nằm ngoài các nghiên cứu chung trƣớc đó. 2. NHẬN DIỆN MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THỜI ĐƯƠNG ĐẠI Về mặt thuật ngữ, chữ “đƣơng đại” ban đầu có nguồn gốc từ tiếng Latinh thời Trung cổ là “contemporarius” sau biến thể thành “contemporalis”, đƣợc ghép từ hai thành tố “con” có nghĩa là “cùng với” và “tempus/tempor” có nghĩa là “thời gian”, nhằm chỉ “cái gì đó hiện tồn, ngƣời đang sống, sự kiện đang xảy ra ở cùng thời điểm; thuộc về hoặc đang diễn ra ở thời điểm hiện tại” và trong tiếng Anh ngày nay là chữ * Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ. TRẦN THANH PHƢƠNG – MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN THỜI 18 “contemporary”(1). Ở góc độ lịch sử, theo Nguyễn Minh Quân (2012), thời kỳ đƣơng đại mà chúng ta đang sống là thời hậu hiện đại (post-modern era, post-modernity) bắt đầu từ giữa thế kỷ XX trở đi, trong khi đó thời kỳ hiện đại đã qua đánh dấu một kỷ nguyên tƣơng đối dài trong lịch sử thế giới, bắt đầu từ thời Phục hƣng, kéo dài gần một nửa thiên niên kỷ, cho đến giữa thế kỷ XX. Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn, ngay khái niệm “hiện đại” cũng khá nhập nhằng theo nhiều cách phân kỳ khác nhau: nó có thể bắt đầu từ giữa thế kỷ XV (với việc Châu Âu ra khỏi thời Trung cổ với các sự kiện lịch sử nhƣ khám phá Châu Mỹ, phát sinh ra máy in, hình thành chủ nghĩa tƣ bản) cho tới ngày nay. Nó cũng có thể đƣợc chia ra thành thời Cận đại từ thế kỷ XV đến Đại cách mạng Pháp và thời hiện đại từ Cách mạng Pháp đến ngày nay (Bùi Văn Nam Sơn, 2011). Một thời đại lịch sử không đơn thuần chỉ đƣợc nhận thức dựa vào các sự kiện có tính nhảy vọt nhƣ Đại cách mạng Pháp năm 1789 đã lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế hay Cách mạng tháng Mƣời Nga năm 1917 đã lật đổ chế độ tƣ bản chủ nghĩa, tức dựa vào sự thay thế lẫn nhau giữa các chế độ chính trị xã hội, mà còn nhất thiết phải dựa trên những đặc tính nhƣ cấu trúc văn hóa hay thái độ tƣ tƣởng của một xã hội nhất định thông qua các khuynh hƣớng triết lý, chính trị, tôn giáo, khoa học của nó. Tƣ tƣởng của thời hiện đại là sự theo đuổi tri thức khách quan, phƣơng pháp khoa học, các niềm tin phải dựa trên các sự kiện quan sát và kiểm tra đƣợc; nó “tin tƣởng vào sức mạnh của lý tính và tƣ duy phê phán, xem khoa học - chứ không phải tôn giáo - là nơi có thẩm quyền giải đáp những bí mật của đời sống” (Bùi Văn Nam Sơn, 2017: 185). Hơn nữa, thời kỳ này lý tính đƣợc sử dụng nhƣ một phƣơng tiện đầy quyền năng để hợp lý hóa mọi thứ nhằm tạo nên một trật tự từ những hỗn loạn và nó trở thành cƣơng lĩnh cho hành động: xây dựng một xã hội hợp lý có nghĩa là tạo nên một trật tự ổn định; xã hội ổn định chừng nào thì chức năng của nó càng hoạt động hữu hiệu chừng đó và càng hợp lý hơn (Nguyễn Minh Quân, 2012). Thời hậu hiện đại bắt đầu từ giữa thế kỷ XX nhƣ một cách phản ứng lại thời hiện đại, rằng lý trí và sự tinh khôn của con ngƣời không thể đạt đƣợc hạnh phúc mà chúng ta mong mỏi, trƣớc những thảm họa và hậu quả của các chiến lƣợc hiện đại hóa nhƣ tàn phá môi sinh, lịch sử đẫm máu của thế kỷ XX, sự nghèo đói, bất công lan tràn (Bùi Văn Nam Sơn, 2017: 186-187). Trong nghĩa thông thƣờng, cái hậu hiện đại phải đến sau cái hiện đại và nhƣ vậy hàm ý về sự chấm dứt của tính hiện đại (dẫn theo Nguyễn Xuân Nghĩa, 2014: 46). Nhƣng hậu hiện đại không chỉ là cái đến sau hiện đại mà nó còn ngầm ẩn cái gì đó mà không còn là hiện đại nữa, theo Appignanesi và Gattat (2006: 4) trong TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (253) 2019 19 cuốn Nhập môn chủ nghĩa hậu hiện đại, “nó chống lại và che mờ ý nghĩa của chủ nghĩa hiện đại, nó hàm ý một tri thức trọn vẹn về cái hiện đại đã bị vƣợt qua bởi một thời đại mới [] Mỗi thời đại, dù là thời đại nào đi nữa, đều đƣợc xác định thông qua bằng chứng là những thay đổi mang tính lịch sử trong cách chúng ta nhìn, nghĩ và tạo ra chúng”. Về mặt nội dung, “hậu - hiện đại” chủ yếu là “một loại hình tƣ tƣởng và lối sống” (Bùi Văn Nam Sơn, 2011). Vậy, đặc tính của thời hậu hiện đại cũng chính là tính hậu hiện đại (postmodernity), là thời đại của những “phân mảnh, thất thƣ ... ạo (AI) đóng vai trò tích cực; 3) tích hợp các kỹ thuật và các lĩnh vực khác nhau; 4) cải thiện chất lƣợng cuộc sống; 5) cuộc sống đƣợc kết nối dễ dàng. Bên cạnh những yếu tố tích cực, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ còn mang trong lòng những thách thức. Tình trạng thất nghiệp ngày càng trầm trọng, thị trƣờng lao động bị phá vỡ. Tự động hóa bởi robot sẽ thay thế lao động trong toàn bộ nền kinh tế là nguyên nhân của nạn thất nghiệp và làm cho nguồn lực lao động có trình độ tay nghề cao trở nên khan hiếm. Nhận thức đƣợc điều đó, tại diễn đàn kinh doanh toàn cầu Bloomberg, CEO của Apple Tim Cook đã nhận xét: “Nếu tôi là một nguyên thủ quốc gia, mục tiêu của tôi sẽ là độc quyền tài năng của thế giới” (Leswing, 2017). Công cuộc tìm kiếm nguồn lao động chất lƣợng cao sẽ tạo ra một thị trƣờng việc làm ngày càng tăng thêm sự cách biệt giữa việc làm có tay nghề thấp và thay vào đó là robot và số hóa Điều này nếu đƣợc nhân đôi có thể sẽ dẫn đến những căng thẳng xã hội (Wolf, 2015). Trong một kỷ nguyên với sự trỗi dậy của trí tuệ nhân tạo, mặc dù robot trở nên thông minh hơn và có nhiều tính năng hơn nhƣng chúng vẫn thiếu một tính năng thiết yếu - năng lực lý luận đạo đức. Chúng không thể nào biết hoặc đƣa ra các phán quyết thế nào là tốt hoặc có đạo đức trong nhiều tình huống phức tạp, đây chính là giới hạn năng lực của công nghệ. Một điều khó nữa, các giá trị đạo đức khác nhau đến từ nhiều cá nhân khác nhau, các quốc gia, các tôn giáo và các biên giới ý thức hệ khác nhau, do đó chúng ta không biết sẽ lấy chuẩn mực đạo đức nào làm hệ quy chiếu để gán cho hệ thống nhân tạo (Al- Rodhan, 2015). Bên cạnh các vấn đề trên, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ còn tạo ra những thách thức khác nhƣ an ninh mạng, hiểm họa hacker, chiến tranh điện tử, bảo mật thông tin cá nhân Schwab (2015) cho rằng: “Chúng ta đang đứng trƣớc bờ vực của một cuộc cách mạng công nghệ sẽ thay đổi căn bản cách chúng ta sống, làm việc và quan hệ với nhau. Trong quy mô, phạm vi và tính phức tạp của nó, sự biến đổi sẽ không giống bất kỳ thứ gì mà nhân loại đã từng trải nghiệm trƣớc đây. Chúng ta chƣa biết nó sẽ diễn ra nhƣ thế nào, nhƣng rõ một điều: sự phản ứng lại TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (253) 2019 23 nó phải thống nhất và toàn diện, gồm các bên liên quan của chính thể toàn cầu, từ khu vực công đến tƣ nhân, từ học thuật đến xã hội dân sự”. Những tác động tích cực lẫn tiêu cực của cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ đã và đang diễn ra một cách hoặc hiển hiện hoặc âm thầm, nhƣng sự tác động của nó đến môi trƣờng sống của con ngƣời là điều không thể phủ nhận. 3.3. Sự phân tán quyền lực chính trị Quyền lực luôn là một chủ đề đƣợc sự quan tâm của nhiều nhà tƣ tƣởng trong nhiều thập kỷ, thậm chí là hàng thế kỷ và đã đƣợc nhắc đến từ cách đây rất lâu, bởi Aristotle, Plato và Machiavelli. Ngày nay, quyền lực vẫn là cuộc tranh luận chƣa hồi kết về định nghĩa cũng nhƣ các tính năng, dẫn đến sự phức tạp và mơ hồ về chủ đề này. Hannah Arendt (1970: 44) định nghĩa quyền lực nhƣ là tài sản của một cá nhân nhƣng đúng hơn, nó thuộc về một nhóm và còn tồn tại chừng nào nhóm ấy vẫn còn tồn tại. Trong khi đó Dahl (1957) đề xuất gọi các chủ thể trong mối quan hệ với quyền lực là các chính khách (actors). Thuật ngữ chính khách bao gồm các cá nhân, nhóm, cơ quan, chính phủ, nhà nƣớc - quốc gia, hay những tập đoàn ngƣời. Một trong những định nghĩa về quyền lực có ảnh hƣởng nhất trong lĩnh vực khoa học xã hội là của Max Weber (1964). Ông cho rằng nó là tính khả thi của một chính khách bên trong một quan hệ xã hội để đƣợc ở trong một vị trí nhất định nhằm thực hiện ý chí của mình bất chấp sự kháng cự. Theo Weber, quyền lực là một trò chơi có tổng bằng không và là một thuộc tính xuất phát từ phẩm chất, nguồn lực và năng lực của chủ thể. Joseph Nye (2009) đã phát triển khái niệm quyền lực của Max Weber lên một cấp độ mới, rằng quyền lực là “khả năng tác động đến ngƣời khác để đạt đƣợc kết quả mà mình mong muốn”. Nye đã đƣa ra ba loại quyền lực: Quyền lực cứng (hard power) là khả năng thúc đẩy ngƣời khác dựa vào vũ lực, thƣởng, phạt và thiết lập nghị trình dựa trên các hành vi này (quyền lực kinh tế và quân sự). Còn quyền lực mềm (soft power) là khả năng lôi kéo ngƣời khác qua việc chiêu dụ gồm định khung nghị trình, thuyết phục và khơi gợi hành vi thu hút tích cực để đạt đƣợc kết quả mong muốn (quyền lực văn hóa). Quyền lực thông minh (smart power) là khả năng tác động đến ngƣời khác thông qua việc kết hợp các tài nguyên quyền lực cứng và quyền lực mềm thành các chiến lƣợc hiệu quả để đạt đƣợc kết quả mong muốn. Nói một cách khác, quyền lực thông minh là khả năng sử dụng một cách duy lý các tài nguyên quyền lực cứng và quyền lực mềm để tạo ra những chiến lƣợc, chính sách, những đƣờng lối hành động nhằm đạt kết quả mong muốn (dẫn theo Lê Ngọc Hùng, 2017). Dù định nghĩa quyền lực theo cách nào thì vấn đề quyền lực ngày nay là một trong những vấn đề trung tâm của khoa học chính trị và không khó để nhận ra rằng cả ba hình thức TRẦN THANH PHƢƠNG – MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN THỜI 24 quyền lực (quyền lực cứng, quyền lực mềm và quyền lực thông minh) đều tập trung về một chủ thể đó chính là nhà nƣớc, chỉ có nhà nƣớc mới là chủ thể có đủ thẩm quyền để thực thi các loại quyền lực này. Nhƣng từ những năm cuối thế kỷ XX đầu XXI quyền lực bị phân tán từ nhà nƣớc sang các thiết chế phi nhà nƣớc ngày càng hiện rõ và nằm ngoài sự kiểm soát kể cả những quốc gia hùng mạnh nhất. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và thông tin trong dòng chảy của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ, sự ra đời của internet và mạng xã hội làm xuất hiện thêm một loại quyền lực mới: quyền lực thông tin (informational power). Chủ thể sở hữu loại hình quyền lực này không còn thuộc về nhà nƣớc - ngƣời quản lý và điều hành xã hội, điều đó có nghĩa quyền lực nhà nƣớc đã bị chia sẻ hay phân tán bởi những lực lƣợng nắm trong tay sức mạnh công nghệ và thông tin. “Trong xã hội thông tin ngày nay, tính bất cân xứng của thông tin có thể dẫn đến bất cân xứng to lớn về quyền lực, bởi bất kỳ ai có kiến thức sử dụng công nghệ cũng có sức mạnh để tận dụng công nghệ. Một đối tƣợng có quyền truy cập gốc (root access) gần nhƣ có quyền lực toàn năng” (Schwab, 2018: 128). Và rõ ràng, với sự trợ lực của công nghệ, lực lƣợng nào nắm nhiều thông tin và quyền điều khiển công nghệ thì lực lƣợng đó sẽ có quyền lực và sức mạnh. Ngày nay, quyền lực không còn nằm trọn trong tay nhà nƣớc, dĩ nhiên nhà nƣớc vẫn đang thực thi quyền lực của mình nhƣng nó đã bị phân tán hay chia sẻ. Với sức mạnh của tri thức cộng với phƣơng tiện công nghệ, bất kỳ ai cũng có thể lũng đoạn cả thị trƣờng trên quy mô lớn và thay đổi cục diện chính trị. Ngày nay, không khó để nhận ra rằng, những cuộc biểu tình quy mô nhỏ, đƣợc sự trợ giúp của các trang mạng xã hội (social media) nhƣ Facebook, Twitter có thể sẽ trở thành một cuộc nổi dậy quy mô lớn. Đáng chú ý hơn nếu để sức mạnh của công nghệ rơi vào tay những tổ chức khủng bố sẽ rất nguy hiểm cho xã hội. Đó là một thách thức hệ trọng đối với quyền lực nhà nƣớc mà các nhà làm chính sách cần phải quan tâm. 4. KẾT LUẬN Thời đƣơng đại kể từ những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI nhân loại đã và đang chứng kiến một thế giới phát triển nhanh hơn bao giờ hết, nền kinh tế đƣợc toàn cầu hóa mạnh mẽ thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học công nghệ lần thứ tƣ và ngƣợc lại, khoa học công nghệ đẩy nhanh hơn nữa tiến trình toàn cầu hóa, tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Toàn cầu hóa kinh tế và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ, bên cạnh những lợi ích to lớn cũng gây nên nhiều rủi ro, bất ổn, đó chính là tính mâu thuẫn của thời đƣơng đại. Trong tiến trình toàn cầu hóa, các quốc gia bị phụ thuộc lẫn nhau nhƣng sự phát triển của mỗi quốc gia lại không đều, TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (253) 2019 25 khắc sâu thêm tình trạng bất bình đẳng là nguyên nhân của mọi xung đột. Quyền lực nhà nƣớc hiện đại đƣợc xem nhƣ hiện thân của một trật tự ổn định đang bị phân tán, đánh mất trung tâm, xã hội không còn cần nhu cầu trung gian - nhà nƣớc nhƣ là một thiết chế ban phát mọi thứ mà ngày nay đã có công nghệ và hệ thống thông tin toàn cầu, đồng thời nó quá nhỏ để đƣơng đầu với sự xuất hiện của các nền kinh tế và văn hóa toàn cầu. Nhƣng không có nghĩa quyền lực nhà nƣớc bị giải thể mà nó vẫn còn nắm giữ một vai trò to lớn. Cùng với sự tăng trƣởng kinh tế toàn cầu là những áp lực tiêu cực lên môi trƣờng sinh sống của con ngƣời và gây nên nhiều hệ lụy xã hội khác ở tầm quốc tế, nếu không có giải pháp khẩn cấp, sự sụp đổ hệ thống sinh thái - xã hội là điều có thể đƣợc báo trƣớc. CHÚ THÍCH (1) Chữ “Contemporary”: xem trong Lexico Dictionaries - English, https://www. lexico.com/en/ definition/contemporary, truy cập ngày 18/7/2019. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Al-Rodhan, N. 2015. “The Moral Code: How to Teach Robots Right and Wrong”, https://www.foreignaffairs.com/articles/2015-08-12/moral-code. 2. Appignanesi, R. & Gattat C. 2006. Nhập môn chủ nghĩa hậu hiện đại (Trần Tiễn Cao Đăng dịch). TPHCM: Nxb. Trẻ. 3. Arendt, H. 1970. On Violence. New York: Harcourt, Brace & World. 4. Attali J. 2017. Lịch sử của tính hiện đại: loài người suy nghĩ về tương lai của mình (Hiếu Tân dịch). Hà Nội: Nxb. Tri thức. 5. Bùi Văn Nam Sơn. 2007. “Lyotard với tâm thức và hoàn cảnh Hậu hiện đại”. Lời giới thiệu cho cuốn: Lyotard J.F. 2008. Hoàn cảnh hậu hiện đại (2nd ed.; Ngân Xuyên, Trans.). Hà Nội: Nxb. Tri thức, tr. 15. 5. Bùi Văn Nam Sơn. 2011. “Vài đặc điểm của tƣ tƣởng hậu hiện đại”. Sinh hoạt tại Café thứ Bảy, Nguyễn Đình Chiểu, ngày 30/7/2011, vn/3cms/?cmd=130& art=1365145109337&cat=1359336673781, truy cập ngày 3/7/2019. 7. Bùi Văn Nam Sơn. 2012. “Triết học hậu hiện đại”. Phê bình văn học, https://phebinh vanhoc.com.vn/triet-hoc-hau-hien-dai/, truy cập ngày 3/7/2019. 8. Bùi Văn Nam Sơn. 2017. Trò chuyện triết học (tập 6). Hà Nội: Nxb. Tri thức. 9. Cerutti, E., Gopinath, ita, & Mohommad, A. 2019. “The Impact of US-China Trade Tensions”. IMF Blog, https://blogs.imf.org/2019/05/23/the-impact-of-us-china-trade-tensions/, truy cập ngày 14/7/2019. 10. Cordes, F., & Stacey, N. 2017. Is UK Industry Ready for the Fourth Industrial Revolution? Boston, MA: The Boston Consulting Group. 11. Dahl, R. A. 1957. “The Concept of Power”. Behavioral Science, 2(3), p. 201-215. https://doi.org/10.1002/bs.3830020303, truy cập ngày 20/7/2019. 12. Lê Hồng Hiệp. 2016. “Toàn cầu hóa (Globalization)”. Nghiên cứu quốc tế, hiencuuquocte.org/2016/07/09/toan-cau-hoa-globalization/, truy cập ngày 26/7/2019. TRẦN THANH PHƢƠNG – MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN THỜI 26 13. Lê Ngọc Hùng. 2017. “Các loại quyền lực trong thế giới ngày nay từ góc độ xã hội học chính trị”. Tạp chí Cộng sản, Traodoi/2017/46515/Cac-loai-quyen-luc-trong-the-gioi-ngay-nay-tu-goc-do.aspx, truy cập ngày 10/7/2019. 14. Leswing, K. 2017. Apple CEO Tim Cook: “If I were a Country Leader, my Goal would be to Monopolize the World’s Talent”. https://www.sfgate.com/technology/businessi nsider/ article/Apple-CEO-Tim-Cook-is-having-a-wonderful-European-10915883.php, truy cập ngày 24/7/2019. 15. NASA. 2010. “How is Today’s Warming Different from the Past?”, https://earthobser vatory.nasa.gov/features/GlobalWarming/page3.php?fbclid=IwAR1NK47YcZzNRmGQ1ZdP2 SU-eJxWaCowtGN_MKDZW46dKAYfK1IdEwvl5DE, truy cập ngày 10/7/2019. 16. Nguyễn Đức Ngữ. 2009. “Biến đổi khí hậu tác động đến Việt Nam”. Tổng cục Môi trƣờng, E1% BA%BFn%C4%91%E1%BB%95ikh%C3%ADh%E1%BA%ADut%C3%A1c%C4%91%E1%B B%99ng%C4%91%E1%BA%BFnVi%E1%BB%87tNam.aspx, truy cập ngày 10/7/2019. 17. Nguyễn Minh Quân. 2012. “Chủ nghĩa hậu hiện đại: Những khái niệm căn bản”. Phê bình văn học, https://phebinhvanhoc.com.vn/chu-nghia-hau-hien-dai-nhung-khai-niem-can- ban/, truy cập ngày 10/7/2019. 18. Nguyễn Vân Nam. 2007. Toàn cầu hóa và sự tồn vong của nhà nước. TPHCM: Nxb. Trẻ. 19. Nguyễn Xuân Nghĩa. 2014. “Tính hiện đại, hậu hiện đại và tôn giáo”, trong Chủ nghĩa hậu hiện đại và phong trào tôn giáo mới ở Việt Nam và thế giới. TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia, tr. 46-58; https://www.researchgate.net/publication/330275703_tinh_ hien_dai_hau_ hien_dai_va_ton_giao, truy cập ngày 17/7/2019. 20. Nye, J. S. 2009. Understanding International Conflicts: An Introduction to Theory and History (7th edition). New York: Pearson Longman. 21. Phạm Văn Đức. 2006. “Toàn cầu hóa và sự tác động của nó đối với Việt Nam hiện nay”. Tạp chí Triết học, 3(178), tr. 22-31. 22. Phùng Văn Thành. 2014. “Toàn cầu hóa kinh tế và những vấn đề liên quan tới chính sách và pháp luật cạnh tranh”. Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương, (45), tr. 4-8. 23. Schwab, K. 2018. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (Bộ Ngoại giao dịch). Hà Nội: Nxb. Thế giới. 24. Schwab, K. 2015. “The Fourth Industrial Revolution: What it Means, How to Respond”. World Economic Forum, https://www.weforum.org/agenda/2016/01/the-fourth-industrial- revolution-what-it-means-and-how-to-respond/, truy cập ngày 8/8/2019. 25. United Nations. 2017. "World Population Projected to Reach 9.8 Billion in 2050, and 11.2 Billion in 2100. UN DESA | United Nations Department of Economic and Social Affairs, https://www.un.org/development/desa/en/news/population/world-population-pros pects-2017 html, truy cập ngày 9/7/2019. 26. Weber, M. 1964. The Theory of Social and Economic Organization (1st Edition; T. Parsons, Translate). New York, NY: Free Press. 27. Wolf, M. 2015. “Same as It Ever Was”. Fofeign Affairs, https://www.foreignaffairs. com/articles/same-it-ever-was, truy cập ngày 12/7/2019.
File đính kèm:
- mot_so_van_de_co_ban_thoi_duong_dai.pdf