Một số đặc trưng trong châu bản thời vua Bảo Đại
Bảo Đại là niên hiệu vị Hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn và cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Cầm quyền trong giai đoạn lịch sử cận đại đầy phức tạp, khi đất nước đã không còn quyền độc lập tự chủ, trong 20 năm ở ngôi Hoàng đế, từ tháng 11 năm 1925 đến tháng 8 năm 1945
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Một số đặc trưng trong châu bản thời vua Bảo Đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số đặc trưng trong châu bản thời vua Bảo Đại
140 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (136) . 2017 MỘT SỐ ĐẶC TRƯNG TRONG CHÂU BẢN THỜI VUA BẢO ĐẠI Nguyễn Thu Hoài* Bảo Đại là niên hiệu vị Hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn và cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam. Cầm quyền trong giai đoạn lịch sử cận đại đầy phức tạp, khi đất nước đã không còn quyền độc lập tự chủ, trong 20 năm ở ngôi Hoàng đế, từ tháng 11 năm 1925 đến tháng 8 năm 1945, Bảo Đại có lẽ là vị vua khá đặc biệt không chỉ đối với triều Nguyễn mà còn trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Sinh ra trong gia đình hoàng tộc, là con trai duy nhất của vua Khải Định, chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng phong kiến từ các đời ông cha nhưng Bảo Đại lại được học tập đào tạo gần như hoàn toàn tại Pháp, một nước văn minh khác xa nơi ông sinh ra. Năm 1932, nhà vua trở về nước sau 10 năm học tập tại Pháp, chính thức nắm quyền chấp chính triều đình, với hoài bão của một người trẻ tuổi tiến bộ, khát khao mang những điều mới mẻ từ phương Tây để canh tân đất nước. Tuy nhiên vua Bảo Đại đã vấp phải không ít trở ngại không chỉ từ phía chính quyền bảo hộ Pháp mà còn ngay trong nội bộ triều đình Huế. Dù vậy hệ thống chính quyền thời ông trị vì vẫn có những thay đổi so với các triều đại trước đó dẫn đến hệ thống văn bản hành chính giai đoạn này có một số khác biệt. Trên cơ sở khảo cứu thực tế khối Châu bản triều Nguyễn - triều Bảo Đại hiện đang bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I tại Hà Nội, bài viết sẽ trình bày một số nghiên cứu khái lược về 3 vấn đề chính: - Sơ lược về khối tài liệu Châu bản triều Bảo Đại - Những thay đổi về mặt hành chính dưới thời vua Bảo Đại - Một số đặc trưng trong Châu bản thời vua Bảo Đại 1. Sơ lược về khối tài liệu Châu bản triều Bảo Đại Châu bản là khối tài liệu hành chính hình thành trong hoạt động quản lý nhà nước của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn (1802-1945), trong đó triều Bảo Đại là 1 trong 11 triều vua nhà Nguyễn còn lưu giữ được tài liệu Châu bản.(1) Châu bản triều Bảo Đại có 54 tập tài liệu gốc, trong đó có sự khác biệt khá rõ về hình thức của hai nhóm tài liệu. Cụ thể 20 tập đầu tiên đánh số từ 1 đến 20 là tài liệu * Trung tâm Lưu trữ quốc gia I. TƯ LIỆU 141Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (136) . 2017 bằng giấy dó viết chữ Hán Nôm, thời gian của tài liệu từ năm 1925 đến năm 1933. 34 tập tiếp theo đánh số từ 21 đến 54 là tài liệu chủ yếu viết chữ Pháp và chữ Việt (chữ Quốc ngữ) trên loại giấy mới (giấy công nghiệp), có đan xen một số văn bản bằng chữ Hán Nôm, thời gian tài liệu từ năm 1935 đến năm 1945.(2) Nhóm tài liệu viết trên giấy dó trước đây được đóng thành tập có bìa. Thực tế trong nhóm này chỉ có 2 tập (tập 1 và tập 2) được sắp xếp thống kê trong khối Châu bản triều Nguyễn qua đợt chỉnh đốn phân mục năm 1942 của Viện Văn hóa Huế do ông Trần Văn Lý, Đổng lý Ngự tiền Văn phòng Bảo Đại chủ trì, 18 tập còn lại được sắp xếp đóng quyển đánh số tiếp theo sau năm 1975. Nhóm tài liệu viết trên giấy kiểu mới là các văn bản rời lẻ không đóng quyển, cách sắp xếp dưới dạng các hồ sơ. Mỗi cặp hồ sơ là tập hợp tài liệu của một bộ hoặc của Ngự tiền Văn phòng, bên trong được sắp xếp theo thời gian của tài liệu. Nghiên cứu nội dung tài liệu, nhận thấy sự khác nhau giữa hai nhóm tài liệu có nguyên nhân xuất phát từ những thay đổi về chính trị cũng như hành chính dưới triều vua Bảo Đại. Từ những thay đổi trong bộ máy tổ chức đã dẫn đến những đặc trưng trong hệ thống văn bản hành chính giai đoạn này. 2. Những thay đổi về mặt hành chính dưới thời vua Bảo Đại Mặc dù lên ngôi tháng 11 năm 1925, chính thức đăng quang ngày 8 tháng 1 năm 1926 nhưng vua Bảo Đại lúc đó chỉ mới 12 tuổi, sau lễ tấn phong đã nhanh chóng quay trở lại Pháp để tiếp tục con đường học tập. Toàn bộ công việc của triều đình Huế được giao cho Hội đồng Phụ chính điều hành. Năm 1932 vua Bảo Đại trở về nước chính thức bắt đầu nắm quyền điều hành đất nước. Vì vậy toàn bộ thời gian ông trị vì có thể chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn từ 1925 đến 1932 lúc vua Bảo Đại chưa nắm quyền chấp chính và giai đoạn từ cuối 1932 đến tháng 8 năm 1945 khi đã nắm quyền chấp chính. - Giai đoạn từ 1925 đến 1932: Sau khi vua Khải Định mất tháng 11 năm 1925, Hoàng tử Vĩnh Thụy về nước thọ tang cha sau đó chính thức lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Bảo Đại. Tuy nhiên, do vua Bảo Đại phải tiếp tục trở lại Pháp để học tập, mọi công việc của triều đình đều giao cho Hội đồng Phụ chính nắm giữ. Ngày 06/11/1925, Toàn quyền Đông Dương và Hội đồng Phụ chính đã ký một bản Quy ước (Convention) cho phép Hội đồng Phụ chính được quyền thay mặt nhà vua điều hành mọi công việc của triều đình. Tuy nhiên Hội đồng này chỉ được quyết định những vấn đề có liên quan đến điển lệ, ân xá, phong tặng tước hàm, chức sắc... còn lại những việc khác đều thuộc quyền của nhà nước Bảo hộ. Văn bản này cũng đồng thời sáp nhập ngân sách Nam triều vào ngân sách Trung Kỳ và mọi cuộc họp bàn của Hội đồng Thượng thư đều do Khâm sứ Trung Kỳ chủ tọa. 142 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 2 (136) . 2017 Về mặt hành chính, bộ máy hành chính Nam triều giai đoạn này hầu như không có gì thay đổi so với các triều đại trước vẫn gồm Lục Bộ (Binh, Công, Hình, Hộ, Lại, Lễ) và Bộ Học mới thành lập dưới thời Duy Tân năm 1907; ngoài ra các cơ quan khác như Nội Các, Cơ Mật Viện, Hàn Lâm Viện, Đô Sát Viện, Thái Y Viện, Tôn Nhân Phủ, Nội Vụ Phủ, Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Khâm Thiên Giám hầu như vẫn giữ nguyên về mặt tổ chức. - Giai đoạn từ tháng 8 năm 1932 đến tháng 8 năm 1945: Sau 10 năm theo học tại Pháp, tháng 8 năm 1932 vua Bảo Đại về nước, việc đầu tiên sau khi trở về là ban hành một đạo dụ tuyên cáo chấp chính, đồng thời hủy bỏ bản Quy ước ngày 06 tháng 11 năm 1925 do Hội đồng Phụ chính Nam triều ký với Pháp sau khi vua Khải Định mất. Ngay sau đó ông thực thi một số cải cách trong triều, xóa bỏ một số nghi thức trước đây như cho phép thần dân không phải rập đầu cúi lạy khi gặp xa giá nhà vua mà
File đính kèm:
- mot_so_dac_trung_trong_chau_ban_thoi_vua_bao_dai.pdf