Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên

Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm ra mối quan hệ giữa vốn tâm lý của nhân viên và sự hài

lòng công việc của nhân viên. Vốn tâm lý là khái niệm được phát triển nhằm nắm bắt năng lực tâm

lý của một cá nhân (Newman và cộng sự, 2014) và còn khá mới ở Việt Nam. Sự hài lòng công

việc là một trong nhiều thái độ cụ thể của người nhân viên đối với công việc đang đảm nhiệm. Dữ

liệu nghiên cứu là dữ liệu sơ cấp được thu thập từ 848 nhân viên văn phòng tại Việt Nam. Nghiên

cứu sử dụng phân tích mô hình phương trình cấu trúc (SEM) để ước lượng kết quả. Kết quả nghiên

cứu chỉ ra rằng vốn tâm lý của nhân viên hay các thành phần của nó (sự tự tin năng lực bản thân,

sự lạc quan, sự hy vọng, sự kiên cường) đều có mối quan hệ tích cực với sự hài lòng công việc của

nhân viên.

Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên trang 1

Trang 1

Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên trang 2

Trang 2

Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên trang 3

Trang 3

Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên trang 4

Trang 4

Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên trang 5

Trang 5

Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên trang 6

Trang 6

Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên trang 7

Trang 7

Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên trang 8

Trang 8

Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên trang 9

Trang 9

Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang minhkhanh 10440
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên

Mối quan hệ giữa vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên
Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 3-14 3 
MỐI QUAN HỆ GIỮA VỐN TÂM LÝ VÀ SỰ HÀI LÒNG 
CÔNG VIỆC CỦA NHÂN VIÊN 
NGUYỄN MINH HÀ1 và NGÔ THÀNH TRUNG1,* 
1Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh 
*Email: trung.nt@ou.edu.vn 
 (Ngày nhận: 20/01/2020; Ngày nhận lại: 07/02/2020; Ngày duyệt đăng: 10/02/2020) 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm ra mối quan hệ giữa vốn tâm lý của nhân viên và sự hài 
lòng công việc của nhân viên. Vốn tâm lý là khái niệm được phát triển nhằm nắm bắt năng lực tâm 
lý của một cá nhân (Newman và cộng sự, 2014) và còn khá mới ở Việt Nam. Sự hài lòng công 
việc là một trong nhiều thái độ cụ thể của người nhân viên đối với công việc đang đảm nhiệm. Dữ 
liệu nghiên cứu là dữ liệu sơ cấp được thu thập từ 848 nhân viên văn phòng tại Việt Nam. Nghiên 
cứu sử dụng phân tích mô hình phương trình cấu trúc (SEM) để ước lượng kết quả. Kết quả nghiên 
cứu chỉ ra rằng vốn tâm lý của nhân viên hay các thành phần của nó (sự tự tin năng lực bản thân, 
sự lạc quan, sự hy vọng, sự kiên cường) đều có mối quan hệ tích cực với sự hài lòng công việc của 
nhân viên. 
Từ khóa: Sự hài lòng công việc; Thái độ công việc; Vốn tâm lý 
The relationship between psychological capital and employees’ job satisfaction 
ABSTRACT 
The study aims to investigate the relationship between psychological capital and employees’ 
job satisfaction. Psychological capital is a concept developed to measure an individual’s 
psychological capital (Newman et al, 2014), which is rather new in Vietnam. Job satisfaction is 
one of many specific employees’ attitudes towards the job. The results of the study are estimated 
by using structural equation modeling (SEM) and primary data collected from 848 office workers 
in Vietnam. The findings show that both psychological capital and its components (self-efficacy, 
optimism, hope and resiliency) have a positive correlation with employees’ job satisfaction. 
Keywords: Job satisfaction; Job attitude; Psychological capital 
1. Giới thiệu 
Cùng với vốn con người và vốn xã hội, vốn 
tâm lý của người nhân viên được xem như là 
nguồn lực quan trọng của tổ chức và có thể trở 
thành lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, vượt qua 
hai loại vốn nói trên, vốn tâm lý xem xét đến 
giá trị của người nhân viên trong thời điểm hiện 
tại và trong cả chiều hướng phát triển trong 
tương lai. Vốn tâm lý là bản chất của con người 
và là trạng thái tâm lý tích cực trong sự phát 
triển của cá nhân (Avey và cộng sự, 2009). Nói 
cách khác, vốn tâm lý là khái niệm đề cập đến 
mức độ tích cực trong suy nghĩ, tâm lý của một 
cá nhân và có liên quan đến sự phát triển bản 
thân cá nhân đó. Trong bối cảnh làm việc trong 
một tổ chức, chính sự phát triển về trình độ 
chuyên môn, kĩ năng làm việc, năng lực làm 
việc của từng nhân viên trong tổ chức sẽ góp 
4 Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 3-14 
phần vào sự thành công và phát triển của tổ 
chức đó. Cũng liên quan đến chủ đề về tâm lý 
nhân viên, thái độ công việc đại diện cho các 
phản ứng tâm lý và các đánh giá của người 
nhân viên đối với công việc. Sự hài lòng công 
việc là một trong những thái độ cụ thể của 
người nhân viên đối với công việc của mình và 
được xem như là một thái độ công việc tích cực 
(Avey và cộng sự, 2011; Larson và Luthans, 
2006; Lehoczky, 2013). Sự hài lòng công việc 
là trạng thái cảm xúc vui thích xuất phát từ 
đánh giá công việc của một cá nhân khi đạt 
được hoặc tạo điều kiện đạt được các giá trị 
công việc (Locke, 1969). Tại Việt Nam, sau khi 
đã dành sự quan tâm đáng kể cho vốn con 
người và vốn xã hội của các thành viên trong 
tổ chức, các nhà quản trị dần chuyển hướng 
sang vốn tâm lý của con người như là nguồn 
lực mới để nâng cao thái độ và hành vi của 
nhân viên đối với công việc và hình thành nên 
lợi thế cạnh tranh của tổ chức. Nghiên cứu thực 
nghiệm này được thực hiện tại Việt Nam, nhằm 
tìm hiểu mối quan hệ giữa vốn tâm lý của người 
nhân viên và bốn thành phần cơ bản của vốn 
tâm lý với một thái độ công việc cụ thể mang 
tính tích cực của người nhân viên là sự hài lòng 
công việc. Từ đó, đưa ra các đề xuất giúp nhà 
quản trị nâng cao sự hài lòng với công việc của 
người nhân viên. 
2. Cơ sở lý thuyết 
2.1. Vốn tâm lý 
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của 
các nhà khoa học khác trong lĩnh vực tâm lý 
học lâm sàng và tâm lý học tích cực cũng như 
kết quả từ các nghiên cứu thực nghiệm tự thực 
hiện, Luthans và các cộng sự của mình đã xây 
dựng một khái niệm mới là “Vốn tâm lý”. 
Luthans và cộng sự (2015) định nghĩa vốn tâm 
lý là trạng thái phát triển tâm lý tích cực của 
một cá nhân và được mô tả bằng các thành phần 
như: (i) sự tự tin năng lực bản thân để giải 
quyết công việc; (ii) sự lạc quan về kết quả 
công việc; (iii) sự hy vọng và (iv) sự kiên 
cường để vượt qua những khó khăn nghịch 
cảnh trong quá trình làm việc. Các khái niệm 
thành phần này của vốn tâm lý được Luthans 
và cộng sự kế thừa từ các nghiên cứu của nhiều 
nhà tâm lý học, tiêu biểu như Bandura (1997) 
về sự tự tin năng lực bản thân, Snyder và cộng 
sự (1991) về sự lạc quan, Seligman (1998) về 
sự hy vọng, Masten (2001) về sự kiên cường. 
Trong lý thuyết về vốn tâm lý, vốn tâm lý tồn 
tại như là một khái niệm bậc cao và có đặc điểm 
quan trọng là thường ổn định, nhất quán nhưng 
cũng dễ được điều chỉnh và sẵn sàng thay đổi, 
phát triển cao hơn. 
Trong nghiên cứu này, vốn tâm lý của 
nhân viên được hiểu theo lý thuyết về vốn tâm 
lý của Luthans và các cộng sự và được nghiên 
cứu trong mối quan hệ với sự hài lòng công 
việc của nhân viên ở hai góc độ: (i) bốn khái 
niệm thành phần (sự tự tin năng lực bản thân, 
sự lạc quan, sự hy vọng, sự kiên cường); (ii) 
vốn tâm lý là cấu trúc bậc cao. 
2.2. Sự hài lòng công việc 
Fisher (2003) cũng cho rằng sự hài lòng 
công việc là một đánh giá về mức độ phù hợp 
của công việc với nhu cầu ... ên 
cường (RE), sự hài lòng công việc (SA). Kết 
quả phân tích thu được giá trị các chỉ số: 
CMIN/df = 2.952 0.9, CFI 
10 Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 3-14 
= 0.957 > 0.95, RMSEA = 0.048 < 0.06 giúp 
kết luận rằng mô hình là phù hợp với dữ liệu 
nghiên cứu đã thu thập. Bên cạnh đó, giá trị các 
chỉ số CR, AVE, MSV thu được cũng thỏa các 
ngưỡng chấp nhận nên mô hình đo lường đã 
xây dựng đạt độ tin cậy. 
Hình 1. Kết quả phân tích nhân tố khẳng định trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa các khái 
niệm thành phần của vốn tâm lý và sự hài lòng công việc của nhân viên 
Nguồn: Tính toán của tác giả. 
Trong khi đó, để tìm hiểu mối quan hệ giữa 
vốn tâm lý tổng thể và sự hài lòng công việc của 
nhân viên, hai cấu trúc chính được xây dựng 
trong mô hình là vốn tâm lý tổng thể của nhân 
viên (PsyCap) và sự hài lòng công việc của nhân 
viên (SA). Trong đó, vốn tâm lý tổng thể của 
nhân viên là cấu trúc bậc cao gồm bốn cấu trúc 
bậc thấp hơn là sự tự tin năng lực bản thân (SE), 
sự lạc quan (OP), sự hy vọng (HO) và sự kiên 
cường (RE). Theo kết quả phân tích thu được, 
các chỉ số đánh giá mức độ phù hợp của mô hình 
với dữ liệu thu thập như: CMIN/df = 3.096 nằm 
trong đoạn (3, 5], CFI = 0.953 > 0.95, GFI = 
0.937 >0.9, RMSEA = 0.050 < 0.06 đã giúp kết 
luận rằng mô hình là phù hợp với dữ liệu. Bên 
cạnh đó, các chỉ số đo lường giá trị mô hình như 
CR, AVE, MSV, đều đạt ngưỡng chấp nhận 
giúp khẳng định mô hình là đáng tin cậy. 
Hình 2. Kết quả phân tích nhân tố khẳng định trong nghiên cứu về mối quan hệ giữa vốn tâm lý 
tổng thể và sự hài lòng công việc của nhân viên 
Nguồn: tính toán của tác giả. 
Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 3-14 11 
4.5. Phân tích mô hình phương trình cấu 
trúc (SEM) 
Căn cứ kết quả phân tích nhân tố khẳng 
định, phân tích mô hình phương trình cấu trúc 
được sử dụng để ước lượng mối quan hệ giữa: 
(i) các thành phần của vốn tâm lý với sự hài lòng 
công việc của nhân viên, và (ii) vốn tâm lý tổng 
thể với sự hài lòng công việc của nhân viên. 
Trước tiên, một mô hình giữa các cấu trúc: 
sự tự tin năng lực bản thân (SE), sự lạc quan 
(OP), sự hy vọng (HO), sự kiên cường (RE) với 
sự hài lòng công việc của nhân viên (SA) được 
xây dựng. Kết quả phân tích thu được giá trị 
các chỉ số đánh giá sự phù hợp của mô hình đều 
đạt ngưỡng chấp nhận giúp mô hình cấu trúc 
dưới đây được kết luận là phù hợp. 
Hình 3. Mô hình cấu trúc giữa các cấu trúc thành phần của vốn tâm lý và cấu trúc sự hài lòng 
công việc của nhân viên 
Nguồn: Tính toán của tác giả. 
Theo đó, sự tự tin năng lực bản thân (SE), 
sự lạc quan (OP), sự hy vọng (HO) đều có ảnh 
hưởng tích cực có ý nghĩa thống kê đến sự hài 
lòng công việc của nhân viên ở mức ý nghĩa 
1% với mức tác động lần lượt là 0.296, 0.746, 
0.354. Mặc dù cũng có tác động dương có 
ý nghĩa thống kê đến sự hài lòng công việc 
của nhân viên nhưng mức tác động của sự 
kiên cường (RE) rất thấp, chỉ 0.133, ở mức ý 
nghĩa 5%. 
Ở hướng nghiên cứu thứ 2 về mối quan hệ 
giữa vốn tâm lý tổng thể và sự hài lòng công 
việc của nhân viên, mô hình bao gồm 2 cấu trúc 
chính là vốn tâm lý tổng thể (PsyCap) và sự hài 
lòng công việc của nhân viên (SA) được xây 
dựng. Bên cạnh kết luận về sự phù hợp của mô 
hình cấu trúc dưới đây, kết quả phân tích thu 
được còn giúp kết luận về mối quan hệ tích cực 
có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1% giữa vốn 
tâm lý tổng thể và sự hài lòng công vệc của 
nhân viên. Mức tác động của vốn tâm lý tổng 
thể đến sự hài lòng công việc của nhân viên 
bằng 0.842, cao hơn rất nhiều so với mức độ 
tác động riêng lẻ của từng thành phần của vốn 
tâm lý đến sự hài lòng với công việc mà người 
nhân viên đang đảm nhận. 
Sự tự tin năng 
lực bản thân 
(SE) 
Sự lạc quan 
(OP) 
Sự hy vọng 
(HO) 
Sự hài lòng 
công việc (SA) 
Sự kiên cường 
(RE) 
R2 = .448 
.296*** 
.746*** 
.354*** 
.133** 
12 Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 3-14 
Hình 4. Mô hình đường dẫn giữa cấu trúc vốn tâm lý tổng thể và cấu trúc sự hài lòng công việc 
của nhân viên 
Nguồn: tính toán của tác giả. 
5. Thảo luận 
Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu về mối 
quan hệ của vốn tâm lý tổng thể và của bốn 
thành phần của vốn tâm lý là sự tự tin năng lực 
bản thân, sự lạc quan, sự hy vọng, sự kiên 
cường với sự hài lòng công việc của nhân viên 
đang làm việc tại Việt Nam. Nhìn chung, kết 
quả nghiên cứu thu được ủng hộ tất cả các giả 
thuyết đã đặt ra. Cụ thể, ở cấp độ là khái niệm 
tổng thể, vốn tâm lý có mối quan hệ dương với 
sự hài lòng công việc của người nhân viên. 
Điều này giúp giả thuyết H1 được ủng hộ và 
tương đồng với kết quả của nhiều nghiên cứu 
trước, chẳng hạn như Jung và Yoon (2015), 
Aminikhah và cộng sự (2016) Bên cạnh đó, 
ở cấp độ các khái niệm thành phần của vốn tâm 
lý, sự tự tin năng lực bản thân, sự hy vọng, sự 
lạc quan, sự kiên cường cũng có mối quan hệ 
dương với sự hài lòng công việc của nhân viên. 
Kết quả thu được này giúp lần lượt các giả 
thuyết nghiên cứu H1a, H1b, H1c, H1d được chấp 
nhận và tương đồng với kết quả nghiên cứu của 
Kwok và cộng sự (2015). 
Thêm nữa, khi xem xét mức độ tác động 
của từng thành phần của vốn tâm lý đến sự hài 
lòng công việc của nhân viên, sự lạc quan của 
người nhân viên có mức độ tác động mạnh 
nhất. Ở chiều hướng ngược lại, sự kiên cường 
của người nhân viên có mức độ tác động yếu 
nhất. Đối với các đối tượng khảo sát tham gia 
trong nghiên cứu này, có lẽ phong cách giải 
thích tích cực đối với các sự kiện tiêu cực như 
thất bại, nghịch cảnh, gặp phải trong quá 
trình làm việc là điều có ảnh hưởng lớn nhất 
đến sự hài lòng với công việc đang đảm nhận 
hơn. Trong khi đó, sự thích nghi và chống đỡ 
lại các thất bại, khó khăn trong công việc không 
ảnh hưởng nhiều đến đánh giá hài lòng hay 
không hài lòng của họ với công việc. 
Điểm đáng lưu ý là mức độ tác động đến 
sự hài lòng công việc của vốn tâm lý ở mức độ 
tổng thể cao hơn hẳn so với mức độ tác động 
của từng thành phần của vốn tâm lý. Kết quả 
thực nghiệm này đã cung cấp thêm bằng chứng 
cho khuyến cáo của Luthans và cộng sự (2015) 
khi cho rằng vốn tâm lý tổng thể không đơn 
thuần và là lớn hơn việc cộng gộp các thành 
phần. Có thể sự hòa quyện các thành phần để 
trở thành khái niệm bậc cao hơn đã làm cho vốn 
tâm lý tổng thể phát huy tính tích cực cao hơn 
so với từng thành phần riêng rẽ. Kết quả này có 
thể gợi ý về cách nhìn nhận về vốn tâm lý của 
nhân viên và tác động của nó đến sự hài lòng 
công việc nên ở cấp độ tổng thể bậc cao. 
6. Kết luận và khuyến nghị 
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa vốn tâm 
lý và sự hài lòng công việc của nhân viên đã 
được thực hiện ở cả cấp độ tổng thể khi xem 
vốn tâm lý là khái niệm bậc cao và ở cả cấp độ 
thành phần của vốn tâm lý. 
Đối tượng khảo sát của nghiên cứu này là 
nhân viên văn phòng đang làm việc tại các tổ 
chức, doanh nghiệp tại Việt Nam. Phương pháp 
lấy mẫu thuận tiện được sử dụng trong nghiên 
cứu này. Cỡ mẫu nghiên cứu chính thức là 848. 
Trong đó, đa số người trả lời phỏng vấn là dân 
tộc Kinh, làm việc trong các doanh nghiệp 
thuộc khu vực tư nhân, ở trong độ tuổi từ 22 
tuổi đến 30 tuổi và từ 30 tuổi đến dưới 40 tuổi, 
có kinh nghiệm làm việc trên 05 năm. 
Vốn tâm lý tổng 
thể (PsyCap) 
Sự hài lòng công 
việc (SA) 0.842*** 
R2 = .357 
Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 3-14 13 
Trong quá trình thực hiện, nghiên cứu đã 
sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định 
tính và phương pháp nghiên cứu định lượng. 
Phương pháp nghiên cứu định tính được sử 
dụng trong việc xây dựng thang đo các khái 
niệm và phương pháp nghiên cứu định lượng 
được sử dụng để ước lượng các mối quan hệ 
giữa các khái niệm. 
Thang đo vốn tâm lý trong nghiên cứu này 
có 30 biến quan sát, đo lường bốn thành phần 
của vốn tâm lý là sự tự tin năng lực bản thân, 
sự hy vọng, sự lạc quan và sự kiên cường. 
Thang đo sự hài lòng công việc có 09 biến 
quan sát. 
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tất cả bốn 
thành phần của vốn tâm lý: sự tự tin năng lực 
bản thân, sự hy vọng, sự lạc quan, sự kiên 
cường và vốn tâm lý tổng thể của nhân viên đều 
có mối quan hệ dương với sự hài lòng công 
việc của họ. 05/05 giả thuyết nghiên cứu đưa ra 
đều được chấp nhận. Ngoài ra, tác động của 
vốn tâm lý tổng thể đến sự hài lòng công việc 
mạnh hơn tác động của từng thành phần của 
vốn tâm lý có thể là gợi ý cho việc sử dụng vốn 
tâm lý ở dạng cấu trúc bậc cao trong đánh giá 
tác động đến không chỉ sự hài lòng công việc 
mà còn các thái độ công việc khác thay vì từng 
thành phần của vốn tâm lý. 
Từ kết quả nghiên cứu thu được, một số 
khuyến nghị được đưa ra nhằm giúp các nhà 
quản trị nâng cao vốn tâm lý và sự hài lòng 
công việc của người nhân viên. Các nhà quản 
trị trong tổ chức nên nhìn nhận vốn tâm lý của 
nhân viên như là nguồn lực để nâng cao thái độ 
và hành vi của họ đối với công việc đang đảm 
nhận. Từ đó, chú trọng xây dựng bảng câu hỏi 
đo lường vốn tâm lý nhân viên khách quan, phù 
hợp với tổ chức và định kỳ thực hiện việc đo 
lường và tổ chức các khóa bồi dưỡng ngắn hạn 
nhằm nâng cao vốn tâm lý cho người nhân 
viên. Đội ngũ nhân viên trong tổ chức cũng cần 
hiểu được vai trò của vốn tâm lý đối với thái 
độ, hành vi công việc của bản thân để nghiêm 
túc tham gia hoạt động đo lường và các khóa 
bồi dưỡng đã đề cập trên. Bên cạnh đó, sự hài 
lòng công việc của nhân viên hình thành dựa 
trên sự đánh giá mức độ phù hợp giữa công 
việc và nhu cầu, mục tiêu của bản thân (Fisher, 
2003). Do đó, hoạt động truyền thông nội bộ 2 
chiều được thực hiện hiệu quả, thiết thực là một 
trong nhiều biện pháp để tổ chức tạo dựng được 
sự hài lòng công việc của nhân viên
Tài liệu tham khảo 
Aminikhah, H., Khaneghah, T. M., & Naghdian, M. (2016). The relationship of psycological 
capital and job satisfaction with organizational commitment. International Journal of 
Information, Business and Management, 8(1), 153. 
Avey, J. B., Luthans, F., & Jensen, S. M. (2009). Psychological capital: A positive resource for 
combating employee stress and turnover. Human resource management, 48(5), 677-693. 
Avey, J. B., Reichard, R. J., Luthans, F., & Mhatre, K. H. (2011). Meta-analysis of the impact of 
positive psychological capital on employee attitudes, behaviors, and performance. Human 
resource development quarterly, 22(2), 127-152. 
Bandura, A. (1997). Self-efficacy: The exercise of control. New York, NY, US: W H 
Freeman/Times Books/ Henry Holt & Co. 
Fisher, C. D. (2003). Why do lay people believe that satisfaction and performance are correlated? 
Possible sources of a commonsense theory. Journal of Organizational Behavior: The 
International Journal of Industrial, Occupational and Organizational Psychology and 
Behavior, 24(6), 753-777. 
14 Nguyễn M. Hà và Ngô T. Trung. Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 15(2), 3-14 
Jung, H. S., & Yoon, H. H. (2015). The impact of employees’ positive psychological capital on 
job satisfaction and organizational citizenship behaviors in the hotel. International Journal of 
Contemporary Hospitality Management, 27(6), 1135-1156. 
Kwok, S. Y., Cheng, L., & Wong, D. F. (2015). Family emotional support, positive psychological 
capital and job satisfaction among Chinese white-collar workers. Journal of Happiness 
Studies, 16(3), 561-582. 
Larson, M., & Luthans, F. (2006). Potential added value of psychological capital in predicting 
work attitudes. Journal of leadership & organizational studies, 13(1), 45-62. 
Lehoczky, M. H. (2013). The socio-demographic correlations of psychological capital. European 
Scientific Journal, ESJ, 9(29), 26-42. 
Locke, E. A. (1969). What is job satisfaction? Organizational behavior and human performance, 
4(4), 309-336. 
Luthans, F. (1998). Organizational Behavior. 8th Edition. Irwin McGraw-Hill, Boston 
Luthans, F., Avey, J. B., Clapp-Smith, R., & Li, W. (2008). More evidence on the value of Chinese 
workers' psychological capital: A potentially unlimited competitive resource? The 
International Journal of Human Resource Management, 19(5), 818-827. 
Luthans, F., Avolio, B. J., Avey, J. B., & Norman, S. M. (2007). Positive psychological capital: 
Measurement and relationship with performance and satisfaction. Personnel psychology, 
60(3), 541-572. 
Luthans, F., Youssef, C. M., & Avolio, B. J. (2015). Psychological capital and beyond: Oxford 
University Press, USA. 
Masten, A. S. (2001). Ordinary magic: Resilience processes in development. American 
psychologist, 56(3), 227. 
Netemeyer, R. G., Boles, J. S., McKee, D. O., & McMurrian, R. (1997). An investigation into the 
antecedents of organizational citizenship behaviors in a personal selling context. The Journal 
of Marketing, 61(3), 85-98. 
Newman, A., Ucbasaran, D., Zhu, F., & Hirst, G. (2014). Psychological capital: A review and 
synthesis. Journal of organizational behavior, 35(S1), 120-138. 
Seligman, M. E. P. (1998). Learned optimism. New York: Pocket Books. 
Snyder, C. R., et al (1991). The will and the ways: Development and validation of an individual-
differences measure of hope. Journal of personality and social psychology, 60(4), 570. 
Spector, P. E. (1985). Measurement of human service staff satisfaction: Development of the Job 
Satisfaction Survey. American journal of community psychology, 13(6), 693-713. 
Wood, R., Bandura, A., & Bailey, T. (1990). Mechanisms governing organizational performance 
in complex decision-making environments. Organizational Behavior and Human Decision 
Processes, 46(2), 181-201. 
Youssef, C. M., & Luthans, F. (2007). Positive organizational behavior in the workplace: The 
impact of hope, optimism, and resilience. Journal of management, 33(5), 774-800. 

File đính kèm:

  • pdfmoi_quan_he_giua_von_tam_ly_va_su_hai_long_cong_viec_cua_nha.pdf