Mối liên hệ giữa khí chất và nguy cơ trầm cảm của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh

Nghiên cứu nhằm mục đích xác định mối liên hệ giữa khí chất và nguy cơ trầm cảm của sinh viên Trường Đại học Sư

phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang trên 404 sinh viên chính quy Trường Đại học Sư

phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu sử dụng thang đánh giá trầm cảm của Trung tâm nghiên cứu Dịch tễ học Hoa Kì

(CES-D) để đánh giá nguy cơ trầm cảm và bảng kiểm kê nhân cách của Hans Eysenck (EPI) để phân loại khí chất của người

tham gia nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có mối liên hệ giữa kiểu khí chất và nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Trường Đại

học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

Mối liên hệ giữa khí chất và nguy cơ trầm cảm của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh trang 1

Trang 1

Mối liên hệ giữa khí chất và nguy cơ trầm cảm của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh trang 2

Trang 2

Mối liên hệ giữa khí chất và nguy cơ trầm cảm của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh trang 3

Trang 3

Mối liên hệ giữa khí chất và nguy cơ trầm cảm của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh trang 4

Trang 4

Mối liên hệ giữa khí chất và nguy cơ trầm cảm của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh trang 5

Trang 5

Mối liên hệ giữa khí chất và nguy cơ trầm cảm của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh trang 6

Trang 6

pdf 6 trang viethung 7100
Bạn đang xem tài liệu "Mối liên hệ giữa khí chất và nguy cơ trầm cảm của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Mối liên hệ giữa khí chất và nguy cơ trầm cảm của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh

Mối liên hệ giữa khí chất và nguy cơ trầm cảm của sinh viên trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education, ISSN: 1859 - 4603 
https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.938 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC 
Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 11, Số 1 (2021), 79-84 | 79 
Cite this article as: Vo, P. T. (2021). The relationship 
between temperaments and risk of depression of students 
at Ho Chi Minh City University of Education. UED Journal of 
Social Sciences, Humanities and Education, 11(1), 79-84. 
 https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.938 
MỐI LIÊN HỆ GIỮA KHÍ CHẤT VÀ NGUY CƠ TRẦM CẢM 
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Võ Phú Toàn 
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam 
Tác giả liên hệ: Võ Phú Toàn - Email: vophutoantlhgd@gmail.com 
Ngày nhận bài: 11-5-2021; ngày nhận bài sửa: 05-6-2021; ngày duyệt đăng: 17-6-2021 
Tóm tắt: Nghiên cứu nhằm mục đích xác định mối liên hệ giữa khí chất và nguy cơ trầm cảm của sinh viên Trường Đại học Sư 
phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang trên 404 sinh viên chính quy Trường Đại học Sư 
phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Nghiên cứu sử dụng thang đánh giá trầm cảm của Trung tâm nghiên cứu Dịch tễ học Hoa Kì 
(CES-D) để đánh giá nguy cơ trầm cảm và bảng kiểm kê nhân cách của Hans Eysenck (EPI) để phân loại khí chất của người 
tham gia nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có mối liên hệ giữa kiểu khí chất và nguy cơ trầm cảm ở sinh viên Trường Đại 
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 
Từ khóa: khí chất; nguy cơ trầm cảm; trầm cảm; mối liên hệ; sinh viên. 
1. Mở đầu 
Ở Việt Nam, theo thống kê của Bộ Y Tế vào năm 
2017, có khoảng 15% dân số mắc các rối loạn tâm thần 
phổ biến liên quan tới stress, 3 triệu người bị rối loạn 
tâm thần nặng (Nguyen, 2015). Còn thông báo tại Viện 
Sức khỏe tâm thần cho thấy có 30% dân số Việt Nam 
mắc các bệnh rối loạn tâm thần, trong đó tỷ lệ trầm cảm 
chiếm 25% (World Health Organization, 2017). Theo 
nghiên cứu của Ahmed K. Ibrahim và cộng sự năm 
2012 thì tỷ lệ trầm cảm trong sinh viên nói chung dao 
động từ 10 - 85%, trong đó tỷ lệ trung bình là 30,6% 
(Ibrahim et al., 2013). Tỷ lệ trầm cảm ở sinh viên là một 
con số đáng lưu tâm, trầm cảm gây những ảnh hưởng 
tiêu cực đến đời sống tinh thần và sinh hoạt hằng ngày 
của sinh viên, dẫn đến các chức năng xã hội bị giảm sút. 
Thực tế cho thấy, lứa tuổi thanh niên – sinh viên là 
giai đoạn mỗi cá nhân chịu sự tác động, chi phối bởi 
nhiều yếu tố khác nhau. Có thể thấy khá nhiều khó khăn 
xuất hiện trong giai đoạn này như việc thích nghi với 
môi trường học tập, môi trường sống, các khó khăn về 
vật chất lẫn tinh thần bắt đầu xuất hiện khi đa phần sinh 
viên đều rời xa gia đình. Bên cạnh đó, để hoạt động học 
nghề đạt hiệu quả tốt, mỗi cá nhân cần đảm bảo về sức 
khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần, bởi cá nhân đạt 
được sự khỏe mạnh toàn diện thì hiệu quả học tập sẽ 
được nâng cao. Mặt khác, khi không vượt qua tình trạng 
khó khăn sinh viên có nguy cơ gặp phải các vấn đề về 
sức khỏe tâm thần từ đó gây những ảnh hưởng không tốt 
đến đời sống cá nhân và hoạt động học tập. 
Có nhiều yếu tố liên quan đến trầm cảm ở sinh viên 
như di truyền, các chất dẫn truyền thần kinh, hoàn cảnh 
gia đình, môi trường sống, đặc điểm nhân cách. Trên thế 
giới có nhiều nghiên cứu đã chỉ ra được mối liên hệ 
giữa đặc điểm nhân cách và trầm cảm (Klein et al., 
2011). Các nghiên cứu trước đó đã chỉ ra được mối liên 
hệ giữa đặc điểm nhân cách nói chung với trầm cảm, cụ 
thể là mối liên hệ giữa kiểu khí chất với rối loạn trầm 
cảm (Tran & Ha, 2018). Ở Việt Nam, những nghiên cứu 
về mối liện hệ giữa đặc điểm nhân cách và trầm cảm 
cũng từng thực hiện trên sinh viên Y dược (Tran & Ha, 
2018). Tuy nhiên các nghiên cứu hiện tại chỉ nghiên cứu 
Võ Phú Toàn 
80 
ở một số nhóm khách thể nhất định, vì vậy vẫn cần thêm 
các nghiên cứu thực hiện trên những nhóm khách thể 
khác. Đồng thời, việc nghiên cứu mối liên hệ giữa khí 
chất và nguy cơ trầm cảm làm cơ sở góp phần dự báo 
nguy cơ trầm cảm của sinh viên Sư phạm. 
2. Khách thể và phương pháp nghiên cứu 
2.1. Khách thể nghiên cứu 
Mẫu nghiên cứu được lựa chọn thuận tiện trên 
404 sinh viên Trường Đại học Sư phạm Thành phố 
Hồ Chí Minh. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Nghiên cứu sử dụng thiết kế mô tả cắt ngang trên 
404 sinh viên Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ 
Chí Minh. Mẫu nghiên cứu được lựa chọn thuận tiện từ 
sinh viên chính quy Trường Đại học Sư phạm Thành 
phố Hồ Chí Minh. 
Nghiên cứu sử dụng phương pháp điều tra bằng 
bảng hỏi là phương pháp nghiên cứu chính. Cụ thể 
người tham gia nghiên cứu thực hiện trả lời bảng câu 
hỏi có sẵn gồm: Bảng kiểm kê nhân cách của Eysenck 
(Eysenck personality Inventory – EPI) và Thang đánh 
giá trầm cảm Trung tâm nghiên cứu dịch tễ học (The 
Centre for Epidemiological Studies Depression Scale - 
CES-D). 
2.2.1. Công cụ nghiên cứu 
Bảng kiểm kê nhân cách của Eysenck (Eysenck 
personality Inventory – EPI) được sử dụng để đo lường 
hai chiều kích trực giao của nhân cách, kết hợp với 
nhau, tạo thành bốn loại khí chất: hướng nội thần kinh, 
hướng ngoại thần kinh, hướng nội ổn định và hướng 
ngoại ổn định, tương ứng với ưu tư, nóng nảy, bình 
thản, và linh hoạt. Eysenck đã cung cấp rất nhiều nghiên 
cứu chứng minh rằng bốn khí chất này khác nhau trên 
nhiều biến số khác nhau. Những người ở khía cạnh 
hướng nội/hướng ngoại khác nhau tùy theo mức độ kích 
thích của hệ thần kinh trung ương, trong khi chiều kích 
thần kinh ổn định/không ổn định liên quan đến mức độ 
mất khả năng kiểm soát (Dao, 2007). 
Nguy cơ trầm cảm của người tham gia nghiên cứu 
được xác định thông qua CES-D. CES-D được phát 
triển bởi Radloff (1977). Thang đo được thiết kế chủ 
yếu để sử dụng trong các nghiên cứu về dịch tễ học về 
triệu chứng trầm cảm của dân số nói chung. Mục đích 
của nó khác với các thang đo được thiết kế để chẩn đoán 
khi nhập lâm sàng và đánh giá mức độ nghiêm trọng 
của bệnh trong ... hấy thang đo lường rất tốt. 
2.2.2. Kỹ thuật xử lý số liệu 
 Tác giả sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để xử lý và 
phân tích dữ liệu. Cụ thể, mối liên hệ giữa khí chất và 
nguy cơ trầm cảm được xác định thông qua tương 
quan Pearson. 
3. Kết quả nghiên cứu và bàn luận 
3.1. Khí chất của sinh viên Trường Đại học Sư 
phạm Thành phố Hồ Chí Minh theo EPI 
3.1.1. Cơ sở xác định khí chất của sinh viên 
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí 
Minh theo EPI 
Dưới đây là kết quả khảo sát phân bố hai chiều kích 
nhân cách của sinh viên Trường Đại học Sư phạm 
Thành phố Hồ Chí Minh: 
Bảng 1. Tỷ lệ sinh viên xét theo hai chiều kích nhân cách 
Trị số 
Hướng ngoại – 
hướng nội Tính thần kinh 
Hướng 
nội 
Hướng 
ngoại 
Ổn 
định 
Không 
ổn định 
Số lượng 296 108 94 310 
Tỷ lệ (%) 73,3 26,7 23,3 76,7 
Kết quả khảo sát cho thấy, sinh viên hướng nội 
chiếm 73,3% trên toàn mẫu, hướng ngoại chiếm 26,7%. 
Đồng thời, phần lớn mẫu nghiên cứu có tính thần kinh 
không ổn định (76,7%), tính thần kinh ổn định chiếm tỷ 
lệ thấp hơn (23,3%). 
Kết quả này tương tự kết quả nghiên cứu của tác 
giả Trần Thơ Nhị và cộng sự năm 2018 trên sinh viên 
 ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 79-84 
 81 
Đại học Y Hà Nội với tỷ lệ sinh viên hướng nội chiếm 
61,99%, hướng ngoại chiếm 39,01%, thần kinh không 
ổn định chiếm 68,90%, ổn định chiếm 32,10%. 
So sánh kết quả nghiên cứu của hai công trình cùng 
sử dụng EPI có thể thấy, tỷ lệ sinh viên hướng nội và 
tính thần kinh không ổn định của mẫu nghiên cứu tại 
trường ĐHSP năm 2019 cao hơn mẫu nghiên cứu tại 
trường Đại học Y Hà Nội năm 2018. 
3.1.2. Kiểu khí chất của sinh viên Trường Đại 
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh theo EPI 
Kết quả khảo sát khí chất của 404 sinh viên Trường 
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh được phân 
bố như Bảng 2. 
Bảng 2. Phân bố kiểu khí chất sinh viên Trường Đại 
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh theo EPI 
Trị 
số 
Kiểu khí chất 
Tổng Bình 
thản 
Ưu 
tư 
Nóng 
nảy 
Linh 
hoạt 
Số 
lượng 73 223 87 21 404 
Tỷ lệ 
(%) 18,1 55,2 21,5 5,2 100 
Kết quả khảo sát kiểu khí chất của 404 sinh viên 
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh cho 
thấy, phần lớn sinh viên có kiểu khí chất ưu tư (chiếm 
55,2%). Kiểu khí chất nóng nảy chiếm 21,5%, bình thản 
chiếm 18,1%, kiểu khí chất linh hoạt chiếm tỷ lệ ít nhất 
(5,2%). Từ kết quả thu được, có thể thấy có sự chênh 
lệch rõ rệt về tỷ lệ phân bố giữa các loại khí chất. 
Kết quả này cũng được tìm thấy ở nghiên cứu của 
tác giả Trần Thơ Nhị và cộng sự (ưu tư 56,3%, nóng 
nảy 21,54%, bình thản 14,43%, linh hoạt 7,72%). Đồng 
thời có hai nghiên cứu khí chất ở học sinh trung học phổ 
thông của tác giả Nguyễn Thị Huệ và tác giả Đồng Thị 
Yến cũng cho kết quả khí chất ưu tư chiếm tỷ lệ cao 
nhất. Từ những kết quả trên, dễ dàng nhận thấy rằng khí 
chất ưu tư chiếm tỷ lệ cao trong khá nhiều các công 
trình nghiên cứu về khí chất. Tỷ lệ hướng nội, tính thần 
kinh không ổn định có thể là điều kiện dẫn đến phân bố 
khí chất tập trung cao ở khí chất ưu tư. 
Mặt khác, kết quả nghiên cứu cho thấy khí chất linh 
hoạt chiếm tỷ lệ thấp nhất (5,2%), kết quả này cũng 
tương đồng với nghiên cứu của các tác giả Trần Thơ 
Nhị, Nguyễn Thị Huệ, Đồng Thị Yến với tỷ lệ kiểu khí 
chất linh hoạt lần lượt là: 7,72%, 14,1%, 10%. 
Như vậy, khí chất sinh viên Trường Đại học Sư 
phạm Thành phố Hồ Chí Minh phân bố không đồng 
đều, hơn 75% sinh viên có khí chất ưu tư, nóng nảy. 
Phần ít sinh viên thuộc 2 kiểu khí chất còn lại, trong đó 
khí chất linh hoạt chiếm tỷ lệ thấp nhất (5,2%) dù là khí 
chất mang nhiều đặc điểm thuận lợi. 
3.2. Nguy cơ trầm cảm của sinh viên Trường Đại 
học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh theo CES-D 
Bảng 3. Mức độ nguy cơ trầm cảm của sinh viên Trường 
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh theo CES-D 
N 
Giá trị 
nhỏ 
nhất 
Giá trị 
lớn 
nhất 
ĐTB ĐLC 
Nguy cơ 
trầm cảm 404 0,00 58,00 20,57 9,29 
Bảng 3 cho thấy điểm trung bình (ĐTB) nguy cơ 
trầm cảm của sinh viên Trường Đại học Sư phạm Thành 
phố Hồ Chí Minh là 20,57, độ lệch chuẩn (ĐLC) là 9,29. 
Kết quả khảo sát thực trạng nguy cơ trầm cảm của 
sinh viên Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí 
Minh dựa trên điểm cắt 16 điểm cho thấy 68,8% mẫu 
nghiên cứu có nguy cơ trầm cảm, 31,2% không có nguy 
cơ trầm cảm. 
Biểu đồ 1. Tỷ lệ nguy cơ trầm cảm của sinh viên 
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh 
dựa trên điểm cắt 16 
So sánh kết quả nghiên cứu của đề tài với kết quả 
nghiên cứu của các công trình sử dụng điểm cắt 16 điểm 
cho thấy, kết quả này cao hơn tỷ lệ nguy cơ trầm cảm 
Võ Phú Toàn 
82 
của mẫu nghiên cứu tại Đại học Trà Vinh được nghiên 
cứu năm 2018 (52,3%). So sánh với nghiên cứu cùng 
nhóm khách thể, kết quả này tiếp tục cao hơn kết quả 
nghiên cứu nguy cơ trầm cảm sinh viên Trường Đại học 
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Miêu Thị 
Xuân Linh nghiên cứu năm 2018 (nguy cơ trầm cảm 
chiếm 50%). 
3.3. Mối liên hệ giữa khí chất và nguy cơ trầm 
cảm ở sinh viên Trường Đại học Sư phạm 
Thành phố Hồ Chí Minh 
3.3.1. Mối liên hệ giữa hai chiều kích nhân cách 
và nguy cơ trầm cảm 
3.3.1.1. Mối liên hệ giữa tính hướng nội – hướng 
ngoại và nguy cơ trầm cảm 
Bảng 4. Hệ số tương quan giữa tính hướng nội – 
hướng ngoại và nguy cơ trầm cảm 
 Nguy cơ trầm cảm 
Tính hướng nội – 
hướng ngoại r = -0,165** 
(**) có ý nghĩa với α=0,01. 
Phân tích tương quan Pearson cho thấy tính hướng 
nội – hướng ngoại và nguy cơ trầm cảm có tương quan 
nghịch mức yếu (r = -0,165, α = 0,01). Có nghĩa là sinh 
viên càng hướng nội thì có nguy cơ trầm cảm càng cao, 
sinh viên càng hướng ngoại thì có nguy cơ trầm cảm 
càng thấp và ngược lại. 
3.3.1.2. Mối liên hệ giữa tính thần kinh và nguy cơ 
trầm cảm 
Bảng 5. Hệ số tương quan giữa tính thần kinh 
và nguy cơ trầm cảm 
 Nguy cơ trầm cảm 
Tính thần kinh r = 0,506** 
(**) có ý nghĩa với α=0,01. 
Phân tích tương quan Pearson cho thấy tính thần 
kinh và nguy cơ trầm cảm có tương quan thuận ở mức 
khá (α =0,01, r = 0,506). Có nghĩa là sinh viên có tính 
thần kinh càng ổn định thì nguy cơ trầm cảm càng thấp, 
sinh viên có tính thần kinh càng không ổn định thì nguy 
cơ trầm cảm càng cao. 
3.3.2. Mối liên hệ giữa kiểu khí chất và nguy cơ 
trầm cảm 
Bảng 6. Điểm trung bình nguy cơ trầm cảm 
xét trên từng kiểu khí chất 
Khí chất ĐTB ĐLC Sig. 
Ưu tư 23,69 9,01 
0,00 
Nóng nảy 20,11 7,77 
Bình thản 14,31 7,36 
Linh hoạt 11,00 5,65 
Bảng 6 cho thấy, nhóm sinh viên thuộc kiểu khí 
chất ưu tư có ĐTB nguy cơ trầm cảm cao nhất, kế tiếp 
là khí chất nóng nảy, bình thản và thấp nhất là khí chất 
linh hoạt. 
Kết quả này tương tự trong nghiên cứu của tác giả 
Trần Thơ Nhị và cộng sự thực hiện trên sinh viên Y 
khoa. So sánh với thực tế, nhận thấy rằng cá nhân có 
đặc điểm kiểu khí chất ưu tư (nhạy cảm, dễ buồn 
phiền, lòng tự trọng thấp, thích nghi kém), đặc điểm 
kiểu khí chất nóng nảy (nóng tính, dễ kích động), đây 
là những đặc điểm bất lợi trong quá trình học tập và 
sinh hoạt, vì vậy khí chất này có nguy cơ trầm cảm cao 
là điều dễ hiểu. 
Với Sig.= 0,00, kiểm nghiệm Welch cho thấy, có sự 
khác biệt ý nghĩa nguy cơ trầm cảm giữa các loại khí 
chất khác nhau. Hậu kiểm Tamhane`s T2 cho thấy, có 
sự khác biệt ý nghĩa về nguy cơ trầm cảm ở tất cả các 
cặp khí chất, trừ cặp khí chất bình thản – linh hoạt. Có 
nghĩa là người có khí chất linh hoạt và bình thản thì có 
nguy cơ trầm cảm như nhau. 
4. Kết luận 
Qua việc khảo sát và xác định mối liên hệ giữa 
kiểu khí chất và nguy cơ trầm cảm của 404 sinh viên 
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, có 
thể kết luận có mối liên hệ giữa hai chiều kích nhân 
cách, kiểu khí chất và nguy cơ trầm cảm. Cụ thể có 
mối liên hệ giữa tính hướng nội, hướng ngoại, tính 
thần kinh với nguy cơ trầm cảm. Khí chất ưu tư có 
nguy cơ trầm cảm cao nhất, khí chất linh hoạt có nguy 
cơ trầm cảm thấp nhất. 
Từ kết quả nghiên cứu về mối liên hệ giữa khí chất 
và nguy cơ trầm cảm, có thể dựa vào kiểu khí chất của 
 ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 79-84 
 83 
sinh viên để dự đoán mức độ nguy cơ trầm cảm từ đó có 
những biện pháp phòng ngừa và hỗ trợ kịp thời. Đặc 
biệt trong công tác phòng ngừa cần lưu ý đến những 
sinh viên có khí chất ưu tư, nóng nảy. Việc thiết kế, xây 
dựng chương trình phòng ngừa cần phù hợp với từng 
đặc điểm của các loại khí chất. Đối với nhóm có nguy 
cơ trầm cảm cao cần được trang bị cách thức ứng phó 
với trầm cảm nhằm giảm các biểu hiện trầm cảm hiện 
tại đồng thời có thể ứng phó nếu các biểu hiện trầm cảm 
tái diễn. 
Tài liệu tham khảo 
Crawford, J., Cayley, C., Lovibond, P. F., Wilson, P. H., 
& Hartley, C. (2011). Percentile Norms and 
Accompanying Interval Estimates from an 
Australian General Adult Population Sample for 
Self-Report Mood Scales (BAI, BDI, CRSD, CES-
D, DASS, DASS-21, STAI-X, STAI-Y, SRDS, 
and SRAS). Australian Psychologist, 46(1), 3–14. 
https://doi.org/10.1111/j.1742-9544.2010.00003.x 
Cruise, R. J., Blitchington, W. P., & Futcher, W. G. A. 
(1980). Temperament Inventory: An Instrument to 
Empirically Verify the Four-Factor Hypothesis. 
Educational and Psychological Measurement, 
40(4), 943–954. https://doi.org/10.1177/00131 
6448004000418 
Dao, T. O. (2007). The Personality issue in current 
psychology (Vấn đề nhân cách trong Tâm lý học 
ngày nay). Education. 
Ghazali, S., Elklit, A., Balang, R., Sultan, M., & Chen, 
Y. Y. (2014). Determining The cut-off score for a 
Malay language version of the Centre for 
Epidemiologic Studies Depression scale (CESD). 
ASEAN Journal of Psychiatry, 15(2), 146–152. 
https://doi.org/10.1037/t61488-000 
Ibrahim, A. K., Kelly, S. J., Adams, C. E., & 
Glazebrook, C. (2013). A systematic review of 
studies of depression prevalence in university 
students. Journal of Psychiatric Research, 47(3), 
391–400. 
https://doi.org/10.1016/j.jpsychires.2012.11.015 
Klein, D. N., Kotov, R., & Bufferd, S. J. (2011). 
Personality and depression: Explanatory models 
and review of the evidence. Annual Review of 
Clinical Psychology, 7, 269–295. 
https://doi.org/10.1146/annurev-clinpsy-032210-
104540 
Mieu, T. X. L. (2018). Mental health realities of 
students at HCMC University of Education (Thực 
trạng sức khỏe tâm thần của sinh viên Trường 
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh) 
[Department of Pyschology's Scientific 
Research]. Ho Chi Minh City University of 
Education. 
Nguyen, T. B. L. (2012). Risk of depression in some 
General medicine student cohorts at Hanoi 
Medical University academic year 2010-2011 and 
some related factors (Nguy cơ trầm cảm ở một số 
khối sinh viên đa khoa Trường Đại học Y Hà Nội 
năm học 2010-2011 và một số yếu tố liên quan) 
[Graduation thesis]. Hanoi Medical University. 
Nguyen, T. H. (2014). Health behaviours and risk of 
depression (Thực trạng hành vi sức khỏe và nguy cơ 
trầm cảm). Journal of Practical Medicine, 914(4), 101–
105. 
Nguyen, T. H. N. (2015). Applying cognitive 
behavioural therapy to the treatment of patients 
with depression at Danang family research and 
psychological consultation company. UED 
Journal of Social Sciences, Humanities and 
Education, 5(2), 67–74. 
https://doi.org/10.47393/jshe.v5i2.554 
Nguyen, T. M. T., Truong, Q. D., & Huynh, T. H. N. 
(2019). Rate of showing depressive symptoms and 
relevant factors in students at Tra Vinh University, 
Vietnam in 2018 (Tỷ lệ mắc các triệu chứng trầm 
cảm và các yếu tố liên quan của nó trong sinh viên 
tại Đại học Trà Vinh, Việt Nam năm 2018). Public 
health AIMS, 6(3), 307–319. 
Radloff, L. S. (1977). The CES-D Scale: A Self-Report 
Depression Scale for Research in the General 
Population. Applied Psychological Measurement, 
1(3), 385–401. 
https://doi.org/10.1177/014662167700100306 
Tran, Q. A. (2016). Signs of depression among 
Preventive medicine students at Hanoi Medical 
University and some related factors (Dấu hiệu trầm 
của của sinh viên Y học dự phòng Trường Đại học 
Y học Hà Nội và một số yếu tố liên quan). Journal 
of Medical Research, 104(6), 9–16. 
Võ Phú Toàn 
84 
Tran, T. N., & Ha, T. H. (2018). Personality traits and 
depression in second-year students of Bachelor of 
Medicine program at Hanoi Medical University, 
academic year 2016 – 2017 (Đặc điểm nhân cách 
và trầm cảm ở sinh viên năm thứ hai hệ bác sĩ của 
Trường Đại học Y Hà Nội, năm học 2016-2017). 
Journal of Medical Research, 113(4), 158–165. 
Vermeulen, E., Brouwer, I. A., Stronks, K., Bandinelli, 
S., Ferrucci, L., Visser, M., & Nicolaou, M. 
(2018). Inflammatory dietary patterns and 
depressive symptoms in Italian older adults. Brain, 
Behavior, and Immunity, 67, 290–298. 
https://doi.org/10.1016/j.bbi.2017.09.005 
World Health Organization. (2017). Depression and 
other common mental disorders. 
THE RELATIONSHIP BETWEEN TEMPERAMENTS AND RISK OF DEPRESSION OF 
STUDENTS AT HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION 
Vo Phu Toan 
Ho Chi Minh City University of Education, Vietnam 
Author corresponding: Vo Phu Toan - Email: vophutoantlhgd@gmail.com 
Article History: Received on 11th May 2021; Revised on 05th June 2021; Published on 17th June 2021 
Abstract: The study aims to determine the relationship between temperaments and risk of depression of students at Ho Chi Minh 
City University of Education. A cross-sectional survey was implemented with the participation of 404 full-time students. The Center for 
Epidemiologic Studies Depression Scale (CES-D) was used to identify the participants’ risk of depression, and the Eysenck 
Personality Inventory (EPI) to categorize their temperaments. The findings show that there is a relationship between the students’ 
temperaments and their risk of being depressed. 
Key words: temperaments, risk of depression, depression, relationship, student. 

File đính kèm:

  • pdfmoi_lien_he_giua_khi_chat_va_nguy_co_tram_cam_cua_sinh_vien.pdf