Lupus đỏ hệ thống và thai kỳ
Lupus đỏ hệ thống (SLE) là một trong các rối loạn tự miễn thường gặp nhất ảnh hưởng đến phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Triệu chứng điển hình của SLE gồm mệt mỏi, sốt, viêm khớp, hồng ban nhạy cảm ánh sáng, viêm thanh mạc, hiện tượng Raynaud, viêm cầu thận, viêm mạch máu và bất thường về máu. Các đợt kịch phát của SLE ít xảy ra trong thai kỳ và thường điều trị dễ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Lupus đỏ hệ thống và thai kỳ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Lupus đỏ hệ thống và thai kỳ
40 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015 Lupus đỏ hệ thống và thai kỳ Đoàn Trung Hiếu*, Lê Hồng Cẩm** * BS. nội trú bộ môn Sản Đại học Y Dược Tp.HCM ** Giảng viên bộ môn Sản Đại học Y Dược Tp.HCM Tổng quan Lupus đỏ hệ thống (SLE) là một trong các rối loạn tự miễn thường gặp nhất ảnh hưởng đến phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Triệu chứng điển hình của SLE gồm mệt mỏi, sốt, viêm khớp, hồng ban nhạy cảm ánh sáng, viêm thanh mạc, hiện tượng Raynaud, viêm cầu thận, viêm mạch máu và bất thường về máu. Các đợt kịch phát của SLE ít xảy ra trong thai kỳ và thường điều trị dễ. SLE làm tăng nguy cơ sẩy thai, thai lưu, tiền sản giật, thai chậm tăng trưởng trong tử cung và sinh non. Viêm thận lupus cũng có thể nặng hơn trong thai kỳ. Nói chung, kết cuộc thai kỳ sẽ tốt khi thai phụ đạt các tiêu chuẩn sau:3 - Lupus đã được điều trị ổn ít nhất 6 tháng trước khi mang thai. - Không có viêm thận lupus biểu hiện bằng đạm niệu hay rối loạn chức năng thận. - Không có kháng thể antiphospholipid hay kháng đông lupus. - Không có tiền sản giật. Sức khỏe của mẹ và sự phát triển của thai nên được theo dõi thường xuyên trong thai kỳ. Thai phụ mắc SLE có ≥1 yếu tố sau cần được khám thai và theo dõi bởi bác sĩ sản khoa giàu kinh nghiệm về thai kỳ nguy cơ cao:2 Tiền sử kết cuộc thai kỳ xấu, tổn thương thận, tổn thương tim, tăng áp phổi, bệnh mô kẽ phổi, lupus đang hoạt động, điều trị corticoid liều cao, điều trị ức chế miễn dịch, hội chứng kháng phospholipid, có kháng thể anti-Ro/La (dự báo lupus sơ sinh), đa thai. Nếu thai phụ có bất cứ yếu tố nào như sau, quyết định tiếp tục mang thai phải được cân nhắc thận trọng vì khả năng xảy ra những biến chứng nặng:2 tăng áp phổi nặng (áp lực trung bình > 50 mmHg), bệnh phổi giới hạn (dung tích sống gắng sức < 1 lít), suy tim, suy thận mạn (creatinine > 2,8 mg/dL), bệnh thận đang hoạt động, tiền sử tiền sản giật (TSG) nặng hay hội chứng HELLP, tai biến mạch máu não trong vòng 6 tháng trước, đợt kịch phát lupus trong vòng 6 tháng trước. Sinh lý bệnh Người ta vẫn chưa biết rõ về hoạt động của SLE trong thai kỳ. Khi nồng độ estrogen, prolactin, các cytokine của tế bào T-helper tăng, SLE có thể tăng hoạt động. Tần suất các đợt kịch phát trong thời gian mang thai và hậu sản, ngày càng giảm dần trong vài thập kỷ qua.2 Nguyên nhân của các đợt kịch phát thời kỳ hậu sản gồm: giảm nồng độ các steroid kháng viêm, tăng nồng độ prolactin, thay đổi trục thần kinh nội tiết và thay đổi nồng độ estrogen và progesterone. Dịch tễ học Tại Mỹ, 20-30% bệnh nhân SLE mang thai bị đợt kịch phát.1 Tần suất đợt kịch phát thay đổi tùy vào tình trạng bệnh tại thời điểm thụ thai. Ở các phụ nữ đã lui bệnh tối thiểu 6 tháng, chỉ 7-33% bị đợt kịch phát, 61-67% các phụ nữ bị đợt kịch phát khi thụ thai lúc bệnh còn 41 THÔNG TIN CẬP NHẬT hoạt động.2 Bệnh thận là triệu chứng thường gặp nhất của đợt kịch phát. Tràn dịch màng phổi và màng tim ít gặp hơn, chiếm 10% các bệnh nhân.1 Triệu chứng lâm sàng Hỏi bệnh nhằm xác định mức độ hoạt động của bệnh, các biến chứng liên quan tới thai kỳ, và tác dụng có hại của các thuốc trong điều trị. Thường thai kỳ không phải nguyên nhân trực tiếp gây ra đợt kịch phát SLE. Các đợt này thường xuất hiện vào 3 tháng đầu, 3 tháng giữa hay vài tháng sau sinh, làm tăng bệnh suất và tử suất, nhất là bệnh thận. Tuy nhiên đa số các đợt kịch phát thường nhẹ và dễ điều trị bằng corticoid liều thấp. Tần suất nhiễm trùng tiểu, đái tháo đường, tăng huyết áp, ối vỡ non, tiền sản giật, thuyên tắc tĩnh mạch cũng tăng lên khi thai phụ mắc SLE. Bệnh thận Việc mang thai ở phụ nữ bị viêm thận lupus làm tăng nguy cơ sẩy thai 75% và nặng thêm các triệu chứng tại thận và ngoài thận.1 Dù tần suất không cao, đợt kịch phát nặng tại thận vẫn có thể xảy ra, nhất là khi thai phụ có tăng huyết áp mạn, đạm niệu và tăng azote máu. Vì vậy, phụ nữ viêm thận lupus được khuyến khích trì hoãn mang thai đến khi kiểm soát ổn định tình trạng bệnh trong tối thiểu 6 tháng. Tuy nhiên, ở một vài bệnh nhân, vẫn có thể tiếp tục corticoid liều tối thiểu có hiệu quả và/hoặc dùng thận trọng azathioprine. Tiền sản giật Tiền sản giật (TSG) là biến chứng thường gặp (13%) ở thai phụ SLE. Khi có bệnh thận, tỷ lệ này tăng cao hơn (66%).2 TSG thường xảy ra trên bệnh nhân có kháng thể kháng phospholipid, đái tháo đường, hay tiền căn TSG. Giảm tiểu cầu từ trước khi có thai cũng có thể là yếu tố nguy cơ. Tăng huyết áp mạn, mặc dù là nguy cơ của TSG trong dân số chung, nhưng chưa được khẳng định trong dân số thai phụ mắc SLE trong 1 nghiên cứu hồi cứu. Lâm sàng thường khó phân biệt TSG và viêm thận lupus, đôi khi phải dùng các xét nghiệm khác:2 - Viêm thận lupus thường kèm đạm niệu và/ hoặc cặn lắng nước tiểu (hồng cầu, bạch cầu, tinh thể từ tế bào), trong khi TSG thường chỉ có đạm niệu. - Đợt kịch phát của SLE thường kèm giảm bổ thể trong máu và tăng nồng độ các kháng thể kháng DNA; còn trong TSG, bổ thể thường tăng. - Giảm tiểu cầu, tăng men gan, tăng acid uric, giảm canxi niệu thường gặp ở bệnh nhân TSG hơn bệnh nhân viêm thận lupus. Tuy nhiên, giảm tiểu cầu cũng có thể gặp trong hội chứng kháng phospholipid, ban xuất huyết giảm tiểu cầu huyết khối, và giảm tiểu cầu tự miễn, các bệnh này đều có thể là biến chứng của thai kỳ ở phụ nữ SLE. Huyết khối Bệnh nhân SLE kèm tăng kháng thể aPL có nguy cơ huyết khối tăng lên trong thời gian mang thai và hậu sản.1 Bệnh nhân có tiền sử huyết khối động/tĩnh mạch đang dùng warfarin cần được chuyển qua heparin liều điều trị càng sớm càng tốt, ngay khi biết có thai. Bệnh nhân có tiền căn sẩy t ... ần phân biệt các triệu chứng của thai kỳ bình thường với của một đợt kịch phát SLE. Phân biệt hồng ban cánh bướm với chloasma, tiểu đạm do TSG với tiểu đạm do viêm thận lupus. Bệnh thận do đợt kịch phát lupus có thể khó phân biệt với TSG. Phân biệt giảm tiểu cầu trong hội chứng HELLP với giảm tiểu cầu trong đợt kịch phát của lupus (ban xuất huyết giảm tiểu cầu 43 THÔNG TIN CẬP NHẬT huyết khối hoặc ban xuất huyết giảm tiểu cầu idiopathic). Phù bàn chân và tụ dịch trong khớp, nhất là khớp gối, có thể xảy ra trong giai đoạn muộn của thai kỳ và cần phải phân biệt chúng với viêm khớp SLE. Cận lâm sàng khác Siêu âm tim thai Ở những phụ nữ có kháng thể Ro/SSA hay La/SSB, thai có nguy cơ bị block tim, nên được theo dõi bằng siêu âm tim thai thường xuyên. Mục tiêu là để phát hiện block tim ở giai đoạn sớm, khi can thiệp nội khoa có thể ngăn ngừa tiến triển của bệnh. Nếu block tim bất cứ mức độ nào được phát hiện, thai phụ được dùng dexamethasone 4 mg/ngày, vì thuốc này qua được nhau.1 Block tim độ 3 thì hiếm khi phục hồi. Siêu âm Thai phụ mắc SLE tăng nguy cơ thai chậm phát triển trong tử cung và sinh non. Vì vậy, cần phải siêu âm trong lần khám thai đầu tiên để xác định chính xác tuổi thai, và tái khám đều mỗi tháng. Sinh thiết thận: Ở thai phụ có bệnh thận, có thể cần phải sinh thiết thận để phân biệt tiền sản giật và viêm thận lupus khi lâm sàng khó phân biệt. Các khuyến cáo trong điều trị 1. Tham vấn tiền sản Tham vấn tiền sản được khuyến cáo thực hiện. Tham vấn cho bệnh nhân về khả năng gây quái thai và các tác dụng có hại của thuốc trước khi bắt đầu điều trị. Bệnh nhân cần được nhắc nhở về tầm quan trọng của việc ngừa thai khi dùng methotrexate, leflunomide, cyclophosphamide và mycophenolate. Giải thích cho bệnh nhân rằng, vì thời gian bán hủy kéo dài, vài loại thuốc cần ngừng vài tháng trước khi lên kế hoạch mang thai. Hơn nữa, có thể cần áp dụng một số biện pháp để tăng sự thải trừ của thuốc khỏi cơ thể, càng sớm càng tốt, ngay khi vừa phát hiện có thai. 2. Theo dõi Cần có một êkíp gồm bác sĩ chuyên khoa thấp khớp, bác sĩ sản khoa nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc các thai kỳ nguy cơ cao và bác sĩ thận học làm việc phối hợp để chăm sóc cho một thai phụ mắc SLE. Thai phụ cần được đánh giá độ hoạt động của bệnh tối thiểu 1 lần mỗi quý, hoặc thường hơn nếu mắc lupus đang hoạt động. Lịch theo dõi như sau:2 • Trong lần khám đầu tiên sau khi đã khẳng định có thai - Khám triệu chứng lâm sàng, tìm xem có tăng HA. - Xét nghiệm (XN) chức năng thận (độ lọc cầu thận, XN nước tiểu, tỉ số protein/creatinine niệu) - Công thức máu. - Anti-Ro/SSA và anti-La/SSB kháng thể - Kháng đông lupus và kháng thể anti- cardiolipin. - Kháng thể kháng double stranded DNA - Bổ thể CH50 hoặc C3, C4. - Acid uric. • Mỗi tháng trong 6 tháng đầu thai kỳ - CTM hay đếm tiểu cầu. • XN cuối mỗi tam cá nguyệt thai kỳ: - Độ lọc cầu thận, tỉ số đạm/creatinine niệu - Kháng thể anticardiolipin - Bổ thể CH50 hoặc C3, C4 - Anti-dsDNA • Trong 3 tháng cuối thai thai kỳ - Nếu có TSG, tăng huyết áp, thai chậm phát triển, block tim thai, cần phải theo dõi tối 44 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015 thiểu 1 lần/tuần bằng sinh trắc đồ vật lý hay nonstress test (trường hợp không block tim) kèm chỉ số ối. - Nếu ghi nhận thai chậm phát triển, cần siêu âm Doppler động mạch rốn để theo dõi sức khỏe thai, và để giúp quyết định thời điểm chấm dứt thai kỳ. Điều này đã được chứng minh làm giảm tử suất sơ sinh. - Các thai phụ có xét nghiệm huyết thanh dương tính nhưng vẫn không có triệu chứng cần được theo dõi sát hơn. Không điều trị khi chỉ có xét nghiệm máu dương tính. 3. Hậu sản Sản phụ có thể mắc đợt kịch phát SLE trong thời kỳ hậu sản. Nguy cơ này tăng lên khi lupus đang hoạt động ở thời điểm thụ thai, hay sản phụ có tổn thương cơ quan đích kèm theo. Vì vậy cần đánh giá định kỳ mức độ hoạt động của bệnh trong thời kỳ hậu sản. Các xét nghiệm được khuyến cáo thực hiện sau một cuộc sinh thường:2 - XN nước tiểu, tỷ số đạm/creatinine niệu - Chức năng thận (nếu xét nghiệm nước tiểu bất thường) - Công thức máu - Anti-dsDNA - Bổ thể CH50 hoặc C3, C4 Điều trị cho sản phụ SLE trong giai đoạn hậu sản cũng giống như phụ nữ không mang thai. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào loại thuốc đang dùng, có thể cần phải ngưng cho con bú. 4. Điều trị lupus hoạt động Điều trị SLE trong thai kỳ thường khó khăn. Cần phải đánh giá các yếu tố sau: Thuốc điều trị SLE có thể qua nhau và gây hại cho thai. Do đó cần cân nhắc giữa nguy cơ và lợi ích của việc điều trị thuốc so với mức độ hoạt động của SLE và ảnh hưởng xấu của bệnh đến sức khỏe mẹ và thai.Viêm thận trong thai kỳ cần được theo dõi đặc biệt, vì bệnh có thể trầm trọng và dễ nhầm với tiền sản giật. Điều trị nội khoa Không có thuốc nào dùng điều trị SLE là an toàn tuyệt đối trong thai kỳ. Vì vậy, việc dùng thuốc hay không cần được quyết định cẩn thận, sau khi đã cân nhắc nguy cơ và lợi ích trong lúc tham vấn bệnh nhân. Trong 3 tháng đầu, nên tránh dùng mọi loại thuốc. Khi không có tiền sử các dấu hiệu của hội chứng kháng phospholipid (sẩy thai liên tiếp, thuyên tắc động hay tĩnh mạch), bệnh nhân có kháng đông lupus và/hoặc kháng thể anticardiolipin cao nên được điều trị aspirin liều thấp. Vài tác giả đề nghị dùng heparin liều thấp và aspirin cho những bệnh nhân này, thậm chí không cần tiền sử biến chứng ở thai kỳ trước. Thuốc điều trị bệnh nhân SLE có thể được chia thành 4 nhóm: - Thuốc có nguy cơ gây hại cho thai trung bình đến cao - Thuốc có thể sử dụng chọn lọc trong thai kỳ - Thuốc có nguy cơ gây hại cho thai và mẹ thấp - Thuốc không rõ mức độ nguy cơ Các thuốc thường dùng nhất được mô tả ngắn gọn dưới đây. • Thuốc có nguy cơ gây hại cho thai trung bình đến cao Mycophenolate mofetil: (nhóm D) không nên dùng trong thai kỳ, vì tăng nguy cơ sẩy thai 3 tháng đầu và dị tật bẩm sinh. Để thay thế mycophenolate, có thể dùng azathioprine trước hoặc trong thai kỳ, hay corticoid liều thấp nhất có khả năng kiểm soát bệnh. Cyclophosphamide: không nên dùng trong thai kỳ, trừ khi không có biện pháp nào thay thế điều trị SLE đang đe dọa tính mạng mẹ. Sẩy thai là kết cục thường gặp nhất, vì độc 45 THÔNG TIN CẬP NHẬT tính của thuốc, vì bệnh nặng, hoặc kết hợp cả hai yếu tố này. Methotrexate: methotrexate có thể gây quái thai và không nên dùng trong thai kỳ. Warfarin: warfarin hay các chất kháng đông tương tự có thể gây quái thai khi dùng giai đoạn sớm của thai kỳ. Vài tác giả đề nghị có thể dùng thận trọng thuốc này sau 3 tháng đầu,2 Tuy nhiên, vì thuốc qua nhau nên có thể gây kháng đông ở thai và gây xuất huyết. Heparin được xem là an toàn nhưng cần phải ngưng trước chuyển dạ để giảm nguy cơ băng huyết sau sanh. • Thuốc được sử dụng chọn lọc trong thai kỳ Các thuốc được xem là an toàn bao gồm NSAIDs, corticoid, azathioprine. Từng loại đều có nguy cơ thấp gây hại cho thai, nhưng việc sử dụng chúng vẫn được chấp nhận khi cần, để kiểm soát triệu chứng của SLE trong thai kỳ. NSAIDs: Nên tránh dùng NSAIDs gần thời điểm thụ thai hay giai đoạn sớm thai kỳ vì chúng có thể ảnh hưởng đến sự làm tổ, ngoại trừ trường hợp sử dụng aspirin liều thấp trong trường hợp lupus kèm hội chứng antiphospholipid. Sử dụng NSAIDs trong 3 tháng cuối có thể gây đóng sớm ống động mạch và làm chậm chuyển dạ. Nếu dùng indomethacin hay bất cứ NSAID khác hơn 48g, cần siêu âm thai để tìm các dấu hiệu của hở van 3 lá, dấu hiệu chỉ điểm của đóng sớm ống động mạch. Corticoid: tương đối an toàn khi dùng trong thai kỳ. Prednisone, prednisolone và methylprednisolone qua nhau ở nồng độ rất thấp, trong khi dexamethasone và betamethasone đến được thai với nồng độ cao hơn. Nghiên cứu trên người và động vật cho thấy có thể tăng nguy cơ chẻ vòm hầu khi thai phơi nhiễm corticoid trong tử cung. Các nguy cơ khác khi dùng corticoid bao gồm: ối vỡ non, tăng huyết áp mẹ, đái tháo đường, thai chậm phát triển trong tử cung. Liều được khuyến cáo để kiểm soát bệnh là prednisone liều thấp (< 10 mg/ngày).2 Tác dụng phụ lên mẹ của corticoid có thể giảm bớt khi áp dụng khẩu phần ăn ít muối (giảm tăng huyết áp, giữ nước), luyện tập thể dục (giảm mất xương và trầm cảm), bổ sung canxi và vitamin D (ngừa loãng xương).2 Cần tránh luyện tập cường độ nặng khi bệnh nhân đang trong đợt kịch phát. Azathioprine: nên được sử dụng thận trọng. Cyclosporine: các dữ liệu về khả năng gây quái thai của cyclosporine trên người chủ yếu từ các bệnh nhân ghép cơ quan. Khi so sánh với khả năng thải ghép, nguy cơ cho thai thường được chấp nhận. • Thuốc có nguy cơ cho mẹ và thai thấp NSAIDs an toàn từ cuối 3 tháng đầu đến 3 tháng giữa, nhưng không nên sử dụng trong 3 tháng cuối thai kỳ. Thuốc kháng sốt rét: Chưa rõ tính an toàn của các thuốc kháng sốt rét. Dữ liệu từ các nghiên cứu quan sát trên những đứa trẻ có mẹ bị SLE hay thấp khớp được điều trị bằng thuốc kháng sốt rét cho thấy các thuốc này an toàn.2 Bệnh nhân ngưng sử dụng hydroxychloroquine trước hoặc trong thai kỳ thường có các đợt kịch phát SLE hơn. • Thuốc không rõ mức độ nguy cơ Các thuốc chống thấp khớp như kháng thể tế bào B (rituximab) hay chất ức chế đồng kích thế tế bào T-B (abatacept) không được khuyến khích dùng, vì chưa đủ dữ liệu về tính an toàn của các thuốc này trong thai kỳ. • Nuôi con bằng sữa mẹ Việc cho con bú vẫn được chấp nhận cho hầu hết phụ nữ SLE, dù vài loại thuốc có thể qua sữa mẹ. Chống chỉ định gồm các thuốc ức chế miễn dịch, và cần tránh NSAIDs tác dụng dài. Các NSAIDs tác dụng ngắn, thuốc kháng sốt rét, prednisone liều thấp, warfarin và heparin được tương đối an toàn vì không 46 THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 15, Số 2, Tháng 05 – 2015 có hoặc rất ít thuốc dạng hoạt động được tiết vào sữa mẹ. Bệnh nhân vẫn có thể cho con bú nếu không dùng azathioprine, methotrexate, cyclo- phosphamide hay mycophenolate. Hydroxy- chloroquine cũng được tiết qua sữa mẹ, nên cần thận trọng khi dùng thuốc này, vì nó có thể thay thế bilirubin, gây vàng da nhân. Liều prednisone < 15-20 mg/ngày là an toàn khi cho bú vì chỉ một lượng nhỏ (5%) thuốc được tiết vào sữa. Khi dùng liều > 20 mg/ngày, cần phải vắt sữa bỏ đi (từ lúc uống viên thuốc) đến 4g sau liều cuối, để giảm thiểu lượng thuốc mà trẻ phơi nhiễm.1 Cần thận trọng khi sử dụng NSAIDs ở trẻ sơ sinh, vì các thuốc này có thể thế chỗ của bilirubin và gây vàng da nhân. 4. Bệnh thận Các dấu hiệu của một đợt kịch phát ở thận gồm xuất hiện cặn lắng nước tiểu và tăng creatinine máu. Trong khi đó, tiểu đạm đơn độc thường gặp trong mọi bệnh cầu thận thai kỳ, và không được xem là dấu hiệu của lupus hoạt động trở lại. Bệnh nhân viêm thận lupus nên được điều trị bằng prednisone liều cao và hạ áp (hydralazine, methyldopa, thuốc chẹn kênh canxi, không dùng thuốc ức chế men chuyển hay vài loại chẹn beta). Có ít dữ liệu về kết quả của điều trị methylprednisolone tĩnh mạch liều cao (pulse) trong thai kỳ và ảnh hưởng lên thai. Chống chỉ định dùng cyclophosphamide. Có thể dùng azathioprine nhưng phải thận trọng. Ngoài ra, nên chấm dứt thai kỳ càng sớm càng tốt. 5. Giảm tiểu cầu Giảm tiểu cầu xuất hiện trong thai kỳ SLE có thể do nhiều nguyên nhân, gồm kháng thể kháng tiểu cầu, tiền sản giật, kháng thể antiphospholipid. Việc điều trị bao gồm prednisone liều cao và globulin miễn dịch đường tĩnh mạch. Tiên lượng Ảnh hưởng dài hạn của thai kỳ lên bệnh nhân SLE vẫn chưa được biết rõ. Dữ liệu từ các nghiên cứu hồi cứu cho thấy thai kỳ không có ảnh hưởng có lợi hay có hại ý nghĩa thống kê lên diễn tiến bệnh SLE. Hiện tại, hơn 50% những thai phụ mắc lupus có kết cuộc thai kỳ bình thường và khoảng 25% sinh non. Sẩy thai chiếm 20% trường hợp.1 Bệnh nhân SLE có thể có tỷ lệ mổ lấy thai cao hơn, do đợt kịch phát của bệnh thận hay do TSG. Trong một nghiên cứu tiền cứu, tăng huyết áp thai kỳ, sinh non, mổ lấy thai cấp cứu, băng huyết sau sanh và thuyên tắc tĩnh mạch thường gặp hơn ở nhóm sản phụ SLE so với nhóm không mắc bệnh. Ngoài ra, thai chậm phát triển trong tử cung và tử vong sơ sinh cũng thường gặp hơn khi kèm SLE. Tử suất thai cũng tăng lên khi mẹ có kháng thể Ro/SSA hay La/SSB, hay thai có block tim. Để giảm nguy cơ này, cần có sự theo dõi thai kỳ đầy đủ, siêu âm tim thai thường xuyên, và can thiệp tích cực. Trong hơn 50 năm qua, tỷ lệ sống của bệnh nhân SLE đã tăng đáng kể. Năm 1955, tỷ lệ sống 5 năm là 50%, đến những năm 1990, tỷ lệ sống 10 năm tăng lên hơn 90%, và tỷ lệ sống 20 năm khoảng 70%.1 Các yếu tố góp phần cho cải thiện này là chẩn đoán sớm, hiệu quả tăng lên của các chế phẩm dược, bước tiến trong điều trị (lọc máu, ghép thận). Nói chung, phụ nữ mắc lupus hay bệnh thận hay mạch máu mạn tính nên giới hạn số con, vì bản thân tình trạng bệnh lý, cũng như nguy cơ kết cuộc thai kỳ xấu. Hai thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm cho thấy thuốc viên ngừa thai phối hợp (COCs) không tăng tần suất xảy ra đợt kịch phát lupus. Tuy nhiên, đến 2013, ACOG vẫn khuyến cáo nên tránh COC ở các phụ nữ có viêm thận, kháng thể antiphospholipid, hay bệnh mạch máu.
File đính kèm:
- lupus_do_he_thong_va_thai_ky.pdf