Kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam

Trình bày kết quả nghiên cứu kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt

Nam (tuổi từ 15 đến 18) nhằm cung cấp một cái nhìn mới nhất về khả năng đánh giá thông tin của

người trẻ Việt Nam ở độ tuổi này. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng cần nhiều nỗ lực hơn nữa để cải

thiện kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam.

Kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam trang 1

Trang 1

Kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam trang 2

Trang 2

Kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam trang 3

Trang 3

Kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam trang 4

Trang 4

Kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam trang 5

Trang 5

Kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam trang 6

Trang 6

Kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam trang 7

Trang 7

Kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam trang 8

Trang 8

pdf 8 trang minhkhanh 9960
Bạn đang xem tài liệu "Kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam

Kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
23THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
ThS Ngô Thị Huyền
Trường Đại học KHXH&NV Tp. Hồ Chí Minh
KỸ NĂNG ĐÁNH GIÁ THÔNG TIN 
CỦA THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM
Tóm tắt: Trình bày kết quả nghiên cứu kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt 
Nam (tuổi từ 15 đến 18) nhằm cung cấp một cái nhìn mới nhất về khả năng đánh giá thông tin của 
người trẻ Việt Nam ở độ tuổi này. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng cần nhiều nỗ lực hơn nữa để cải 
thiện kỹ năng đánh giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam.
Từ khóa: Kỹ năng đánh giá thông tin; thanh thiếu niên; Việt Nam.
Information evaluation skills of Vietnamese teenagers
Abstract: The article introduces the result of the study on information evaluation skills of 
Vietnamese teenagers (aged from 15 to 18 years old) which provides an updated overview on the 
information evaluation skills of Vietnamese teenagers at this age range. The result shows that more 
efforts are needed to improve those skills for Vietnamese teenagers.
Keywords: Information evaluation skills; teenagers; Vietnam. 
Giới thiệu
Đo lường kỹ năng đánh giá thông tin là 
cần thiết để giúp xác định được năng lực 
của người dùng tin, nhận diện được những 
gì cần cải thiện để nâng cao năng lực của 
họ. Khám phá kỹ năng đánh giá thông tin 
của học sinh đã nhận được sự quan tâm 
của rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. 
Nghiên cứu này giúp hiểu về kỹ năng đánh 
giá thông tin của thanh thiếu niên Việt Nam 
ở độ tuổi từ 15 đến 181.
1 Trong bài viết này, tác giả dùng cả hai từ “thanh thiếu niên” và “học sinh” để chỉ đến cùng một nhóm đối tượng người dùng tin từ 15 đến 
18 tuổi.
1. Đánh giá thông tin
Kiến thức thông tin (tiếng Anh là 
Infomartion Literacy) là kiến thức, kỹ năng 
và sự hiểu biết mà mỗi cá nhân cần có 
để có thể nhận diện được nhu cầu tin của 
chính mình, tìm tin thành công và sử dụng 
thông tin tìm được một cách hiệu quả và 
có đạo đức. Trong quá trình đó, có nhiều 
quan điểm hiện đại nhấn mạnh tầm quan 
trọng của việc đánh giá thông tin tìm được. 
Cùng với sự phát triển của thông tin số, 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
24 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
có rất nhiều tài liệu và thông tin không 
đáng tin cậy tồn tại trên Internet (Bartlett 
& Miller, 2011). Ngoài ra, trên thực tế do 
thiếu những người chọn lọc thông tin nên 
nhiều trang Web không đạt được những 
tiêu chuẩn tối thiểu cần có để phục vụ cho 
người dùng tin. Chính vì thế, mỗi cá nhân 
phải tự mình trở thành một người có khả 
năng tự đánh giá thông tin. Theo Williams 
& Rowlands (2007), đánh giá thông tin 
bao gồm hai khía cạnh: chất lượng và sự 
thích hợp.
Đánh giá kỹ năng thông tin nói chung 
và kỹ năng đánh giá thông tin nói riêng 
là cần thiết để hiểu năng lực của các 
cá nhân cũng như xác định những 
gì cần cải thiện đối với chương trình 
đào tạo hiện tại (Chang et al., 2012). 
Kỹ năng đánh giá thông tin của học sinh đã 
được khám phá trong một số nghiên cứu 
trước đây. Các nghiên cứu chỉ ra rằng kỹ 
năng đánh giá thông tin là điểm yếu của 
học sinh (Adams, 1999; Godwin, 2006; 
Knight, 2006; Williams & Rowlands, 2007; 
Ali, Abu-Hassan, Daud, & Jusoff, 2010; 
Chang et al., 2012; Pickard, Shenton, & 
Johnson, 2014). Họ có khuynh hướng sử 
dụng những nguồn tin chưa được thẩm định 
hơn là cố gắng để đánh giá và lựa chọn ra 
những nguồn tin phù hợp và có chất lượng 
tốt nhất (Hirsh, 1999; Grimes & Boening, 
2001; Knight, 2006; Pickard et al., 2014). 
Học sinh sử dụng những kỹ thuật đơn giản 
để đánh giá thông tin (Pickard et al., 2014). 
Các kỹ thuật khác nhau được học sinh sử 
dụng để đánh giá thông tin có thể được 
tìm thấy trong nhiều nghiên cứu được thực 
hiện trước đây như Gross & Latham (2007), 
Williams & Rowlands (2007), Harris (2008), 
Wynne et al. (2009), Duffy, Liying, & 
Ong (2010), Pickard, Gannon-Leary, & 
Coventry (2011), và Walton, Pickard, 
Dodd, & Hepworth (2016).
2. Phương pháp nghiên cứu
Để khám phá kỹ năng đánh giá thông tin 
của thanh thiếu niên Việt Nam, hoạt động 
thu thập dữ liệu của nghiên cứu này được 
chia thành hai giai đoạn: 
- Giai đoạn 1: Đo lường kỹ năng đánh 
giá thông tin của học sinh bằng cách sử 
dụng phiếu hỏi.
- Giai đoạn 2: Khám phá phương pháp 
được học sinh sử dụng để đánh giá thông 
tin thông qua phỏng vấn bán cấu trúc.
Trong giai đoạn 1, nghiên cứu khảo sát 
bằng phiếu hỏi đã được thực hiện với 183 
học sinh có độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi tại hai 
trường Trung học phổ thông trên địa bàn 
Tp. Hồ Chí Minh.
Bảng hỏi được chia thành ba phần:
- Phần 1: Dữ liệu nhân khẩu học của 
mẫu như tên, trường, bậc học và giới tính.
- Phần 2: Các câu hỏi nhiều lựa chọn 
được dùng để đo lường kỹ năng đánh giá 
thông tin của học sinh liên quan đến khả 
năng xác định nguồn tin phù hợp, đáng tin 
và có thẩm quyền, và đánh giá nội dung 
thông tin. Mỗi câu trả lời đúng nhận được 
một điểm và mỗi câu hỏi chỉ có một câu trả 
lời đúng. Mỗi câu hỏi bao gồm một phần 
giải thích về trường hợp cần đánh giá thông 
tin và một số đáp án khả thi. Học sinh cần 
lựa chọn một trong số những đáp án này 
để giải quyết vấn đề thông tin.
- Phần 3: Tự đánh giá kỹ năng đánh 
giá thông tin của bản thân. Thang đo năm 
điểm đã được sử dụng để giúp học sinh tự 
đánh giá năng lực của chính mình (chọn 5 
cho mức cao nhất và 1 cho mức thấp nhất).
Trong giai đoạn 2, sáu học sinh đã được 
mời tham gia vào các buổi phỏng vấn bán 
cấu trúc một cách ngẫu nhiên và được mã 
hoá như sau BS74, BS55, BS10, CS91, 
CS55 và CS28.
Phân tích dữ liệu: dữ liệu định lượng từ 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
25THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
bảng hỏi được phân tích bằng phần mềm 
SPSS 22. Hệ số p được cài đặt ở giá trị 
0,05 cho tất cả các phép thử. Dữ liệu được 
phân tích ở hai mức độ: thống kê mô tả và 
thống kê suy luận. Dữ liệu phỏng vấn được 
phân tích bằng phần mềm Nvivo với kỹ 
thuật phân tích chủ đề.
3. Kết quả nghiên cứu
3.1. Về kỹ năng đánh giá thông tin
Điểm số đã được chuyển thành điểm 
phần tr ...  mọi người 
thường viết tắt tên tác giả sử dụng hai chữ 
cái, vì vậy em không có tin những bài báo 
đó (BS74).
Học sinh cảm thấy tự tin hơn khi sử dụng 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
27THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
những nguồn tin cung cấp tên đầy đủ của 
tác giả. Sử dụng tên tác giả để đánh giá 
thông tin được sử dụng trong nhiều trường 
hợp, ví dụ, những bài viết được xuất bản bởi 
những tên tuổi lớn và nổi tiếng. Tuy nhiên, 
sử dụng tên đầy đủ của tác giả vẫn còn là 
một kỹ thuật cần phải đặt dấu chấm hỏi khi 
đánh giá thông tin/nguồn tin.
- Thông tin phản hồi từ người dùng tin 
khác: Học sinh tin rằng thông tin phản hồi 
từ người dùng tin khác có thể giúp họ đánh 
giá nguồn tin/thông tin.
Em thường xem đánh giá của những 
người khác liên quan đến những gì em đang 
tìm kiếm. Em xem họ nói gì và sau đó quyết 
định là có sử dụng thông tin đó hay không 
(BS55).
Chúng ta có thể nói là thông tin có đúng 
hay không dựa trên ý kiến đánh giá của 
người khác (BS10).
Trên thực tế, ý kiến phản hồi được sử 
dụng khá phổ biến trong nhiều trường hợp, 
ví dụ, đánh giá sách. Việc sử dụng ý kiến 
đánh giá của người khác có thể mang lại 
nhiều lợi ích cho học sinh khi đánh giá 
thông tin, ví dụ như, hiểu hơn về nguồn tin 
và chất lượng của thông tin. Tuy nhiên, có 
một điểm quan ngại là làm cách nào học 
sinh có thể quyết định những ý kiến đánh 
giá nào là đáng tin khi xem xét một khối 
lượng lớn và những ý kiến trái chiều về 
nguồn tin/thông tin nào đó.
- Lượng truy cập: Lượng truy cập cũng 
được xem là yếu tố giúp học sinh nhận diện 
một nguồn tin đáng tin cậy hay không.
Em thường sử dụng các trang Web được 
nhiều người truy cập (BS10).
Học sinh có xu hướng sử dụng những 
trang web được truy cập bởi nhiều người. 
Điều này có nghĩa rằng, học sinh tin rằng 
tỷ lệ truy cập càng cao thì chất lượng nguồn 
tin càng tốt. Trên thực tế, số lượng người 
sử dụng có thể được xem là nhân tố phản 
ánh tầm ảnh hưởng của một trang Web. 
Tuy nhiên, không phải trang Web nào cũng 
cung cấp thông tin về lượng người truy cập.
- Bên thứ ba: Học sinh sử dụng bên thứ 
ba để đánh giá nguồn tin/thông tin.
Nếu giáo viên của em truy cập vào trang 
Web nào thì có nghĩa là nó đáng tin cậy
Chúng ta có thể kiểm tra một cách dễ dàng 
thông tin trên Internet bằng cách hỏi người 
lớn tuổi hơn để giúp chúng ta tìm kiếm được 
thông tin chính xác (BS10).
Có thể thấy rằng, học sinh tin những 
nguồn tin được sử dụng bởi giáo viên của 
họ. Họ cũng có thể tìm kiếm lời khuyên từ 
những người lớn tuổi hơn như cha mẹ hay 
anh chị để tìm kiếm được những nguồn tin 
chất lượng tốt. Điều này có thể mang lại 
rất nhiều lợi ích cho học sinh trong việc 
xác định những nguồn tin đáng tin cậy. Tuy 
nhiên, nếu họ tin dùng những nguồn tin 
được sử dụng bởi giáo viên của mình mà 
không hiểu lý do tại sao thì họ có thể biến 
thành những người tìm tin thụ động. Điều 
này cũng dẫn đến mối lo là khi học sinh rời 
khỏi ghế nhà trường và không còn cơ hội 
để nhận được sự giúp đỡ của các giáo viên 
nữa, làm cách nào họ có thể xác định được 
nguồn tin/thông tin phù hợp cho bản thân.
Như vậy có thể thấy rằng, học sinh xem 
một nguồn tin/thông tin là đáng tin cậy nếu 
chúng có tính quen thuộc, là những kết quả 
truy xuất đầu tiên, có tính lặp lại, có tên tác 
giả đầy đủ, nhận được ý kiến phản hồi tích 
cực từ người dùng tin khác, có lượng truy 
cập cao, và được sử dụng hoặc đề xuất bởi 
một bên thứ ba. Quan điểm của học sinh 
về một nguồn tin/thông tin đáng tin cậy 
được thể hiện trong Sơ đồ 1.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
28 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
Sơ đồ 1. Quan điểm của học sinh về 
nguồn tin/thông tin đáng tin cậy
4. Thảo luận
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, kỹ năng 
đánh giá thông tin của học sinh vẫn chưa 
tốt như mong đợi để giúp họ nhận diện 
những nguồn tin phù hợp. Kết quả này củng 
cố quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu 
khác, ví dụ như Godwin (2006), Williams & 
Rowlands (2007), Pickard et al. (2014), và 
Walton et al. (2016). Các nhà nghiên cứu 
này đều nhận định rằng, đánh giá thông 
tin không phải là thế mạnh của thanh thiếu 
niên. Điểm yếu trong kỹ năng đánh giá 
thông tin cũng được chứng minh trong một 
loạt các nghiên cứu thực hiện ở những bậc 
học khác nhau, ví dụ như Adams (1999), 
Knight (2006), Ali et al. (2010) và Chang et 
al. (2012). Adams (1999) tìm ra rằng các 
học sinh lớp 12 gặp nhiều vấn đề trong 
việc đánh giá các nguồn tin khoa học. Kết 
quả này được củng cố bởi Knight (2006) 
khi tác giả này chứng minh rằng sinh viên 
năm nhất có kỹ năng đánh giá thông tin 
không tốt bằng tìm kiếm hay sử dụng thông 
tin. Ali et al. (2010) phát hiện ra rằng, các 
sinh viên thiếu kiến thức và kỹ năng cần 
thiết để đánh giá thông tin trên Internet. 
Trong khi đó, Chang et al. (2012) đề xuất 
rằng các học sinh trung học của Singapore 
cần phải cải thiện các kỹ năng đòi hỏi tư 
duy cao hơn như đánh giá, tổng hợp và sử 
dụng thông tin khi so sánh với những kỹ 
năng khác. Có thể thấy rằng, các học sinh 
Việt Nam cũng không là ngoại lệ khi chưa 
thể hiện được một trình độ tốt trong việc 
đánh giá thông tin.
Kỹ năng đánh giá thông tin chưa tốt có 
thể bị gây ra bởi một số nguyên nhân. Thứ 
nhất, sự thật là việc đánh giá thông tin thì 
khá phức tạp và đòi hỏi nhiều nỗ lực hơn 
so với một số kỹ năng khác, ví dụ như tìm 
tin (Pickard et al., 2014). Bên cạnh đó, việc 
đánh giá thông tin trong môi trường số cũng 
gặp nhiều thách thức hơn (Andretta, 2005). 
Đồng thời, trên thực tế tầm quan trọng của 
việc đánh giá thông tin vẫn chưa được 
nhìn nhận một cách đúng mực bởi những 
người làm công tác giáo dục (Pickard et 
al., 2014). Theo Godwin (2006), các trang 
Web hướng dẫn kỹ năng thông tin chủ yếu 
tập trung vào kỹ năng tìm kiếm hơn là đánh 
giá thông tin.
Học sinh chủ yếu sử dụng những kỹ 
thuật đơn giản để đánh giá thông tin như: 
sử dụng những trang Web quen thuộc, sự 
lặp lại, kết quả truy xuất đầu tiên, tên tác 
giả, đánh giá từ người dùng tin khác, tỷ lệ 
truy cập và bên thứ ba. Điều này cho thấy 
rằng, học sinh ít nỗ lực trong việc đánh giá 
thông tin để tìm ra nguồn tin/thông tin có 
chất lượng tốt. Quan điểm này nhận được 
sự đồng thuận của một số nhà nghiên 
cứu như Hirsh (1999), Grimes & Boening 
(2001), Buschman & Warner (2005), Knight 
(2006), Pickard et al. (2014), và Walton et 
al. (2016). Những nhà nghiên cứu này chỉ 
ra rằng học sinh có khuynh hướng đánh 
giá thông tin một cách cẩu thả và thậm chí 
còn sử dụng những nguồn tin chưa được 
đánh giá và thẩm định để phục vụ cho 
mục đích của mình. Pickard et al. (2014) 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
29THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
cho rằng, mặc dù trong môi trường thông 
tin số, chúng ta không thể hoàn toàn khẳng 
định nguồn tin/thông tin nào là đáng tin cậy, 
tuy nhiên điều đó không có nghĩa là chúng 
ta dễ dàng chấp nhận những thông tin mà 
mình tìm được. 
Những nghiên cứu trước đây chỉ ra một 
số chỉ thị học sinh thường sử dụng để đánh 
giá thông tin. Các nhân tố này được thể 
hiện trong mô hình i-Trust của Pickard et 
al. (2011), bao gồm các nhân tố bên ngoài 
(tài chính, sự tín nhiệm) và các nhân tố bên 
trong (sự chính xác, thẩm quyền, tính khách 
quan, tính mới, tính bao phủ, trình bày và 
hình thức, nguồn gốc của nguồn/trang 
Web, trích dẫn và động cơ của nguồn tin) và 
nhận thức của người dùng tin. Harris (2008) 
tìm ra rằng học sinh thường đánh giá thông 
tin/nguồn tin dựa vào cách thiết kế và trình 
bày của các trang Web. Trong khi đó, 
Pickard et al. (2014) chỉ ra rằng học sinh 
chủ yếu dựa trên ngữ pháp và chính tả, 
tính thời sự, dễ xác minh và hợp thời điểm. 
Wynne et al. (2009) tổng kết năm dấu hiệu 
được dùng để đánh giá kết quả tìm bao 
gồm: sự xuất hiện của thuật ngữ tìm trong 
nhan đề và nội dung, nguồn và uy tín của 
thông tin, độ đáng tin của nguồn, loại xuất 
bản phẩm và tính mới của tài liệu. Duffy et 
al. (2010) chứng minh rằng, thông tin trên 
Internet được đánh giá dựa trên tốc độ, tính 
cập nhật và sự đa dạng của các quan điểm. 
Walton et al. (2016) tìm thấy rằng, thanh 
thiếu niên đặt niềm tin vào những thông tin 
có nhiều hơn một tác giả. Có thể thấy rằng, 
không có bất kỳ kỹ thuật hay phương pháp 
nào được đề cập đến trong những nghiên 
cứu ở trên được sử dụng bởi các học sinh 
tham gia vào nghiên cứu này khi đánh giá 
thông tin/nguồn tin. Mặc dù học sinh cũng 
dựa trên tác giả của nguồn tin nhưng lại 
sử dụng theo một cách khác biệt. Họ cảm 
thấy tự tin hơn khi sử dụng những nguồn tin 
cung cấp tên đầy đủ của tác giả.
Nghiên cứu này tìm ra rằng, học sinh 
đánh giá kỹ năng đánh giá thông tin của 
họ cao hơn so với thực tế. Kết quả này 
tương ứng với những nghiên cứu trước đây 
bởi các nghiên cứu chỉ ra rằng thanh thiếu 
niên không đánh giá chính xác năng lực 
thông tin của mình và có khuynh hướng 
đánh giá kiến thức và kỹ năng thông tin của 
mình cao hơn so với thực tế (Buschman & 
Warner, 2005; Gross & Latham, 2007). 
Việc đánh giá quá cao khả năng của mình 
trong thực tế có thể làm giảm động lực 
để phát triển kỹ năng của chính bản thân 
(Freund & Kasten, 2012). Chính vì thế, 
giúp học sinh nhận thức được năng lực thật 
của bản thân là rất cần thiết (Ackerman & 
Wolman, 2007). 
Kết luận
Nhìn chung kỹ năng đánh giá thông tin 
của thanh thiếu niên Việt Nam được khảo 
sát trong nghiên cứu này vẫn chưa được 
trang bị tốt. Đồng thời, họ cũng vẫn chưa 
nhận thức được đúng năng lực đánh giá 
thông tin của chính bản thân mình. Chính 
vì thế, nhu cầu cải thiện kỹ năng đánh giá 
thông tin của các học sinh là có thật và 
rất cần thiết. Những người làm công tác 
giáo dục cần phải chú trọng đến việc phát 
triển kỹ năng này trong những hướng dẫn/
chương trình đào tạo kỹ năng thông tin để 
hỗ trợ học sinh trở thành những người có 
khả năng học tập và làm việc độc lập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ackerman, P., & Wolman, S. (2007). 
Determinants and validity of self-estimates of 
abilities and self-concept measures. Journal of 
Experimental Psychology: Applied, 13(2), 57-78.
2. Adams, S. (1999). Critiquing claims 
about global warming from the world wide 
web: a comparison of high school students and 
specialists. Bulletin of Science, Technology 
and Society, 19(6), 539-543.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
30 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 1/2018
3. Ali, R., Abu-Hassan, N., Daud, M., & 
Jusoff, K. (2010). Information literacy skills of 
engineering students. IJRRAS, 5(3), 264-270. 
4. Andretta, S. (2005). Information literacy: 
a practitioner's guide. Oxford: Chandos.
5. Bartlett, J. & Miller, C. (2011). Truth, lies 
and the Internet: a report into young people's 
digital fluency. London: Demos.
6. Buschman, J., & Warner, D. (2005). 
Researching and shaping information literacy 
initiatives in relation to the web: some 
framework problems and needs. Journal of 
Academic Librarianship, 31(1), 12-18.
7. Chang, Y., Zhang, X., Mokhtar, I., Foo, 
S., Majid, S., Luyt, B., & Theng, Y. (2012). 
Assessing students' information literacy skills 
in two secondary schools in Singapore. Journal 
of Information Literacy, 6(2), 19-34. 
8. Cohen, J. (1988). Statistical power 
analysis for the behavioral sciences (2nd ed.). 
Hillsdale, N.J: L. Erlbaum Associates.
9. Duffy, A., Liying, T., & Ong, L. (2010). 
Singapore teens' perceived ownership of 
online sources and credibility. First Monday, 
15(4), NP-NP. 
10. Freund, P., & Kasten, N. (2012). How 
smart do you think you are? A meta-analysis 
on the validity of self-estimates of cognitive 
ability. Psychological Bulletin, 138(2), 296-321.
11. Godwin, P. (2006). Keeping up with 
the Google generation: the challenge for 
information literacy teachers. In G. Walton & A. 
Pope (Eds.), Information literacy: recognising 
the need (pp. 33-39). Oxford: Chandos 
Publishing.
12. Grimes, D., & Boening, C. (2001). 
Worries with the Web: a look at student use 
of Web resources. College and Research 
Libraries, 62(1), 11-23. 
13. Gross, M., & Latham, D. (2007). 
Attaining information literacy: an investigation 
of the relationship between skill level, self-
estimates of skill, and library anxiety. Library 
and Information Science Research, 29(3), 332-
353.
14. Harris, F. (2008). Challenges to teaching 
credibility assessment in contemporary 
schooling. In M. Metzger & A. Flanagin (Eds.), 
Digital media, youth, and credibility (pp. 155-
180). Cambridge, MA: MIT Press.
15. Hirsh, S. (1999). Children's relevance 
criteria and information seeking on electronic 
resources. Journal of the American Society for 
Information Science, 50(14), 1265-1283. 
16. Knight, L. (2006). Using rubrics 
to assess information literacy. Reference 
Services Review, 34(1), 43-55.
17. Pickard, A., Gannon-Leary, P., & 
Coventry, L. (2011). The onus on us? Stage 
one in developing an i-Trust model for our 
users. 35(111), 87-104. 
18. Pickard, A., Shenton, A., & Johnson, 
A. (2014). Young people and the evaluation of 
information on the World Wide Web: principles, 
practice and beliefs. Journal of Librarianship 
and Information Science, 46(1), 3-20.
19. Walton, G., Pickard, A., Dodd, L., 
& Hepworth, M. (2016). Not "born digital": 
enabling teens to question information sources. 
CILIP UPDATE, 42-45. 
20. Williams, P., & Rowlands, I. (2007). 
Information behaviour of the researcher of the 
future: the literature on young people and their 
information behaviour.
org.uk/wayback/archive/20140614113317/
programmes/reppres/ggworkpackageii.pdf
21. Wynne, B., Wong, W., Stelmaszewska, 
H., Barn, B., Bhimani, N., & Barn, S. (2009). 
JISC user behaviour observational study: 
user behaviour in resource discovery - 
Final report.
wayback/archive/20140615234228/http://
www.jisc.ac.uk/media/documents/publications/
programme/2010/ubirdfinalreport.pdf
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 25-10-2017; 
Ngày phản biện đánh giá: 4-12-2017; Ngày 
chấp nhận đăng: 20-12-2017).

File đính kèm:

  • pdfky_nang_danh_gia_thong_tin_cua_thanh_thieu_nien_viet_nam.pdf