Dự báo hạn mùa số lượng xoáy thuận nhiệt đới trên Biển Đông bằng các mô hình thống kê
Trong nghiên cứu này các phương trình dự báo số lượng xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ)
hạn 6 tháng trên khu vực Biển Đông (VES) đã được xây dựng và thử nghiệm. Ba mô hình hồi quy
tuyến tính đa biến trong đó các hệ số hồi quy được xác định bằng các phương pháp khác nhau, gồm
1) bình phương tối thiểu (MLR), 2) độ lệch tuyệt đối nhỏ nhất (LAD), 3) minmax (LMV), và mô
hình mạng thần kinh nhân tạo (ANN) cộng với một số tổ hợp các mô hình trên với nhau được sử
dụng. Khu vực Biển Đông được chia thành 2 vùng phía bắc (VES_N15) và phía nam (VES_S15) vĩ
tuyến 15 độ. Yếu tố dự báo được tính từ tập số liệu XTNĐ tại Trung tâm Khí tượng chuyên vùng
của Nhật Bản giai đoạn 1981-2017. Các thành phần chính của 14 chỉ số khí hậu được lựa chọn làm
nhân tố dự báo. Kết quả đánh giá sai số dự báo trên bộ số liệu phụ thuộc cho thấy mô hình ANN cho
kết quả dự báo tốt nhất ở cả 12 thời điểm dự báo, tiếp đó là các kết quả tổ hợp với mô hình ANN,
MLR và kém nhất ở mô hình LMV. Kết quả thử nghiệm dự báo trên bộ số liệu độc lập cho thấy số
lượng các sơ đồ dự báo “đạt” theo ngưỡng chỉ số MSSS giảm so với thời kỳ dự báo phụ thuộc và
nhìn chung sai số của các mô hình có sự tương đồng nhau. Mô hình MLR có xu hướng cho kết quả
dự báo tốt nhất. Kết quả dự báo tốt hơn cũng nhận được trên vùng VES_N15, tiếp theo là vùng VES
và thấp nhất trên vùng VES_S15.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Dự báo hạn mùa số lượng xoáy thuận nhiệt đới trên Biển Đông bằng các mô hình thống kê
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 45-57 45 Original Article Seasonal Predictions of the Number of Tropical Cyclones in the Vietnam East Sea Using Statistical Models Dinh Ba Duy1, Ngo Duc Thanh2, Tran Quang Duc3, Phan Van Tan3,* 1Vietnam-Russia Tropical Center, 63 Nguyen Van Huyen, Nghia Do, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 2University of Science and Technology of Hanoi, Vietnam Academy of Science and Technology, 18 Hoang Quoc Viet, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 3VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Thanh Xuan, Hanoi, Vietnam Received 04 April 2019 Revised 19 April 2019; Accepted 19 May 2019 Abstract: In this study, the equations for estimating the number of tropical cyclones (TCs) at a 6- month lead-time in the Vietnam East Sea (VES) have been developed and tested. Three multivariate linear regression models in which regression coefficients were determined by different methods, including 1) method of least squares (MLR), 2) minimum absolute deviation method (LAD), 3) minimax method (LMV). The artificial neural network model (ANN) and some combinations of the above regression models were also used. The VES was divided into the northern region above 15ºN (VES_N15) and the southern one below that latitude (VES_S15). The number of TCs was calculated from the data of the Japan Regional Specialized Meteorological Center (RMSC) for the period 1981- 2017. Principal components of the 14 climate indicators were selected as predictors. Results for the training period showed that the ANN model performed best in all 12 times of forecasts, following by the ANN-MLR combination. The poorest result was obtained with the LMV model. Results for the independent dataset showed that the number of adequate forecasts based on the MSSS scores decreased sharply compared to the training period and the models generated generally similar errors. The MLR model tended to give out the best results. Better-forecast results were obtained in the VES_N15 region followed by the VES and then the VES_S15 regions. Keywords: Tropical cyclone, Seasonal prediction, Vietnam East Sea (VES). * ________ * Corresponding author. E-mail address: phanvantan@hus.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4379 VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 45-57 46 Dự báo hạn mùa số lượng xoáy thuận nhiệt đới trên Biển Đông bằng các mô hình thống kê Đinh Bá Duy1, Ngô Đức Thành2, Trần Quang Đức3, Phan Văn Tân3,* 1Trung tâm Nhiệt đới Việt–Nga, 63 Nguyễn Văn Huyên, Nghĩa Đô,Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 2Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 18 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 3Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 334 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 04 tháng 4 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 19 tháng 4 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 5 năm 2019 Tóm tắt: Trong nghiên cứu này các phương trình dự báo số lượng xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ) hạn 6 tháng trên khu vực Biển Đông (VES) đã được xây dựng và thử nghiệm. Ba mô hình hồi quy tuyến tính đa biến trong đó các hệ số hồi quy được xác định bằng các phương pháp khác nhau, gồm 1) bình phương tối thiểu (MLR), 2) độ lệch tuyệt đối nhỏ nhất (LAD), 3) minmax (LMV), và mô hình mạng thần kinh nhân tạo (ANN) cộng với một số tổ hợp các mô hình trên với nhau được sử dụng. Khu vực Biển Đông được chia thành 2 vùng phía bắc (VES_N15) và phía nam (VES_S15) vĩ tuyến 15 độ. Yếu tố dự báo được tính từ tập số liệu XTNĐ tại Trung tâm Khí tượng chuyên vùng của Nhật Bản giai đoạn 1981-2017. Các thành phần chính của 14 chỉ số khí hậu được lựa chọn làm nhân tố dự báo. Kết quả đánh giá sai số dự báo trên bộ số liệu phụ thuộc cho thấy mô hình ANN cho kết quả dự báo tốt nhất ở cả 12 thời điểm dự báo, tiếp đó là các kết quả tổ hợp với mô hình ANN, MLR và kém nhất ở mô hình LMV. Kết quả thử nghiệm dự báo trên bộ số liệu độc lập cho thấy số lượng các sơ đồ dự báo “đạt” theo ngưỡng chỉ số MSSS giảm so với thời kỳ dự báo phụ thuộc và nhìn chung sai số của các mô hình có sự tương đồng nhau. Mô hình MLR có xu hướng cho kết quả dự báo tốt nhất. Kết quả dự báo tốt hơn cũng nhận được trên vùng VES_N15, tiếp theo là vùng VES và thấp nhất trên vùng VES_S15. Keywords: Tropical cyclone, Seasonal prediction, Vietnam East Sea (VES). 1. Mở đầu Cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu dự báo hạn mùa bão, áp thấp nhiệt ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: phanvantan@hus.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4379 đới (gọi chung là xoáy thuận nhiệt đới - XTNĐ) đã được thực hiện. Hầu hết trong số đó tập trung vào hai ổ bão lớn nhất thế giới là ổ bão Tây bắc Đại Tây dương và ổ bão Tây bắc Thái Bình https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4379 D.B. Duy et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 45-57 47 dương trong đó có khu vực Biển Đông. Về phương pháp dự báo có thể chia thành ba nhóm chính: 1) Nhóm phương pháp thống kê truyền thống hay thống kê kinh điển (TKTT); 2) Nhóm phương pháp thống kê - động lực và 3) Nhóm phương pháp mô hình động lực. Dự báo bằng phương pháp TKTT là dựa trên mối quan hệ thống kê giữa yếu tố dự báo và tập các nhân tố dự báo được xây dựng từ một tập số liệu phụ thuộc trong quá khứ, sau đó áp dụng mối quan hệ này cho tương lai. Các mô hình TKTT được sử dụng rộng rãi trong bài toán dự báo hoạt động của XTNĐ [1-6]. Trong các công trình này, yếu tố dự báo là số lượng và số ngày hoạt động của XTNĐ trên các vùng khác nhau, chủ yếu ở Đại Tây Dương và Tây Thái Bình Dương. Các nhân tố dự báo có thể là những nhân tố thuộc nhóm ENSO, như dị thường nhiệt độ bề mặt biển (SSTA) trên các vùng Niño1+2, 3, 4, 3.4, hoặc các đặc trưng hoàn lưu khí quyển và đại dương qui mô lớn như chỉ số dao động tựa hai nă ... nghiệm dự báo trên bộ số liệu độc lập, các giá trị ME, MAE và RMSE ở mô hình ANN và LMV cho thấy mức độ hiệu quả giảm đi nhiều so với thời kỳ luyện trên bộ số liệu phụ thuộc, nhìn chung giá trị sai số của các mô hình còn lại thể hiện tương đối giống nhau, giá trị sai số MAE, RMSE trên khu vực VES và VES_N15 cao ở những thời điểm dự báo cho mùa bão chính (thời điểm dự báo tại tháng 4, 5, 6) trong khi ở khu vực VES_S15 các giá trị này có phần tăng nhẹ ở những tháng cuối năm. Bên cạnh đó cũng cần lưu ý sự xuất hiện các thời điểm tương quan âm (hệ số Corr <0) của các sơ đồ dự báo có sự thay đổi theo các vùng dự báo, đối với vùng VES các sơ đồ dự báo ở thời điểm từ tháng 3 đến tháng 5 có xu hướng cho kết quả tương quan âm, vùng VES_N15 ở các thời điểm tháng 3 đến tháng 7 và vùng VES_S15 ở các thời điểm tháng 4 đến tháng 9. D.B. Duy et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 45-57 52 Hình 2. Sai số MAE theo từng thời điểm dự báo ở giai đoạn luyện (hình a) và dự báo độc lập (hình b) trên ba vùng VES, VES_S15 và VES_N15. Hình 3. Hệ số tương quan theo từng thời điểm dự báo trên bộ số liệu phụ thuộc (hình a) và dự báo độc lập (hình b) trên ba vùng VES, VES_N15 và VES_S15. (b) D.B. Duy et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 45-57 53 Để có cái nhìn tổng quát hơn về chất lượng của 9 mô hình dự báo khảo sát tại 12 thời điểm dự báo trong năm, điểm kỹ năng MSSS tương ứng của từng sơ đồ dự báo này được tính toán và dẫn ra tại bảng 3 dưới đây. Kết quả tại bảng 3 cho thấy ở giai đoạn 1981-2010 các mô hình MLR, ANN, E12, E123, E124, E14 và E1234 đạt tỷ lệ 100% (12/12 sơ đồ dự báo đạt) có số lượng các sơ đồ dự báo “đạt” tiếp đến là mô hình LAD với tỷ lệ tương ứng 75% (9/12) và thấp nhất ở mức trên dưới 58% (7/12) khi sử dụng mô hình LMV. Ở giai đoạn này khu vực VES_S15 có kết quả dự báo tốt nhất, tiếp đến là vùng VES_N15 và VES. Ở giai đoạn dự báo độc lập (2011-2017) số lượng các sơ đồ dự báo “đạt” giảm mạnh ở cả 9 mô hình khảo sát trên 3 vùng nghiên cứu. Cụ thể ở vùng VES_N15 cho kết quả dự báo tốt nhất với khoảng trên dưới 33% sơ đồ đạt, tiếp đến là vùng VES với tỷ lệ tương ứng khoảng 25% và thấp nhất là vùng VES_N15 với chỉ khoảng 16% sơ đồ dự báo đạt. Cá biệt mô hình ANN thể hiện sự không ổn định khi thay đổi từ tỷ lệ 100% ở giai đoạn phụ thuộc xuống chỉ còn khoảng trên dưới 16% ở dự báo độc lập. Trong số các mô hình thống kê khảo sát, mô hình MLR có xu hướng cho kết quả dự báo tốt nhất, tiếp đến là mô hình E12, E123 và LAD. Để minh họa thêm về chất lượng của các mô hình dự báo, nghiên cứu đã dẫn ra tại hình 4 đến hình 9 dưới đây các giá trị quan trắc và kết quả dự báo (trên bộ số liệu phụ thuộc và độc lập) về số lượng TCs_6mon cho mùa XTNĐ chính (tháng 6 tới tháng 11) và mùa “ít” bão (tháng 12 tới tháng 5 năm liền tiếp) trên ba vùng VES, VES_S15 và VES_N15. Các kết quả này (không được thể hiện đầy đủ tại đây) cho thấy ở cả 3 vùng nghiên cứu kết quả dự báo trên bộ số liệu phụ thuộc đã mô phỏng khá tốt so với số liệu quan trắc ở cả 9 mô hình thống kê khảo sát, trong đó tốt nhất có thể nhận thấy ở mô hình ANN. Kết quả dự báo trên bộ số liệu độc lập đã có những diễn biến khác so với trên bộ số liệu phụ thuộc, thể hiện sự khác nhau ở các vùng không gian nghiên cứu và các thời điểm dự báo. Nhìn chung, tồn tại nhiều sơ đồ có kết quả dự báo độc lập khá sát với số liệu quan trắc, đặc biệt ở 2 năm đầu tiên tính từ cuối thời điểm chọn số liệu phụ thuộc (năm 2011 và 2012) và kết quả dự báo cho mùa ít XTNĐ thể hiện tốt hơn. Các kết quả này cũng cho thấy, việc lựa chọn khoảng thời gian cho bộ số liệu làm dự báo độc lập quá xa so với thời điểm cuối cùng của bộ số liệu phụ thuộc có thể ảnh hưởng không tốt đến kết quả dự báo bởi khi đó những quan hệ thống kê ở bộ số liệu phụ thuộc không được mô hình “nắm bắt” được. Tuy vậy các kết quả này là cơ sở cho phép kỳ vọng có thể tiếp tục nghiên cứu ứng dụng các mô hình TKTT để lựa chọn ra các sơ đồ có chất lượng dự báo tốt với độ ổn định cao cho dự báo nghiệp vụ hạn mùa XTNĐ tại VES nói chung và 2 khu vực VES_S15, VES_N15 nói riêng. Bảng 3. Số lượng các sơ đồ dự báo “đạt” qua đánh giá chỉ số kỹ năng dự báo MSSS cho giai đoạn dự báo phụ thuộc và độc lập Dự báo Vùng nghiên cứu Mô hình thống kê MLR LAD LMV ANN E12 E123 E124 E14 E1234 Phụ thuộc (1981-2010) VES 12 9 5 12 12 12 12 12 12 VES_N15 12 9 6 12 12 12 12 12 12 VES_S15 12 9 10 12 12 12 12 12 12 Độc lập (2011-2017) VES 5 3 2 1 4 3 3 3 3 VES_N15 6 3 4 3 4 4 3 4 5 VES_S15 2 3 2 0 3 3 0 0 1 D.B. Duy et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 45-57 54 (a) (b) Hình 4. Số lượng XTNĐ mùa bão chính trên vùng VES (tháng 5 đến tháng 11) quan trắc và dự báo trên bộ số liệu phụ thuộc (hình a) và dự báo độc lập (hình b). (a) (b) Hình 5. Số lượng XTNĐ mùa “ít” bão trên vùng VES (tháng 12 đến tháng 5 của năm liền sau) quan trắc và dự báo trên bộ số liệu phụ thuộc (hình a) và dự báo độc lập (hình b). (a) (b) Hình 6. Số lượng XTNĐ mùa bão chính trên vùng VES_N15 (tháng 5 đến tháng 11) quan trắc và dự báo trên bộ số liệu phụ thuộc (hình a) và dự báo độc lập (hình b). D.B. Duy et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 45-57 55 (a) (b) Hình 7. Số lượng XTNĐ mùa “ít” bão trên vùng VES_N15 (tháng 12 đến tháng 5 năm liền sau) quan trắc và dự báo trên bộ số liệu phụ thuộc (hình a) và dự báo độc lập (hình b). (a) (b) Hình 8. Số lượng XTNĐ mùa bão chính trên vùng VES_S15 (tháng 5 đến tháng 11) quan trắc và dự báo trên bộ số liệu phụ thuộc (hình a) và dự báo độc lập (hình b). (a) (b) Hình 9. Số lượng XTNĐ mùa “ít” bão trên vùng VES_S15 (tháng 12 đến tháng 5 năm liền sau) quan trắc và dự báo trên bộ số liệu phụ thuộc (hình a) và dự báo độc lập (hình b). D.B. Duy et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 45-57 56 4. Kết luận Sử dụng 4 mô hình TKTT và 5 mô hình tổ hợp được kết hợp từ các mô hình trên với nhau nghiên cứu này đã tiến hành xây dựng các phương trình dự báo số lượng XTNĐ hạn 6 tháng cho các khu vực VES, VES_N15, VES_S15, những kết quả bước đầu cho phép rút ra một số kết luận sau: -Trên bộ số liệu phụ thuộc mô hình MLR, ANN, E12, E123, E124, E14 và E1234 cho kết quả dự báo tốt nhất ở cả 12 thời điểm dự báo, thậm chí các chỉ số đánh giá sai số ở mô hình ANN đạt gần mức giá trị lý tưởng, tiếp đó là các tổ hợp với mô hình ANN, kết quả dự báo kém nhất khi sử dụng mô hình LMV. - Thử nghiệm dự báo trên bộ số liệu độc lập cho thấy số lượng các sơ đồ dự báo “đạt” theo ngưỡng chỉ số MSSS giảm so với thời kỳ dự báo phụ thuộc và nhìn chung sai số của các mô hình có sự tương đồng nhau. Mô hình MLR có xu hướng cho kết quả dự báo tốt nhất, tiếp đến là mô hình E12, E123, LAD và thấp nhất là mô hình ANN. Vùng VES_N15 có xu hướng cho kết quả dự báo tốt nhất, tiếp đến là vùng VES và thấp nhất là vùng VES_S15. Lời cám ơn Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đề tài nghiên cứu khoa học KC.09.15/16-20, thuộc chương trình KC.09, Bộ Khoa học và Công nghệ. Tài liệu tham khảo [1] W. Landsea Christopher, Gerald D. Bell, William M. Gray, Stanley B. Goldenberg, The extremely active 1995 Atlantic hurricane season: Environmental conditions and verification of seasonal forecasts, Mon. Wea. Rev. 126 (1998) 1174-1193. [2] W. Landsea Christopher, William M. Gray, Paul W. Mielke, Jr, Kenneth J. Berry, Seasonal Forecasting of Atlantic hurricane activity, Weather 49 (1994) 273-284. [3] M. Gray William, Christopher W. Landsea, Paul W. Mielke, Predicting Atlantic basin seasonal tropical cyclone activity by 1 June, Weather and Forecasting 9 (1994) 103-115. [4] Neville Nicholls, Chris Landsea, Jon Gill, Recent trends in Australian region tropical cyclone activity, Meteorol. Atmos. Phys. 65 (1998) 197-205. [5] Elsner, James B., Kam-biu Liu, Bethany Kocher, Spatial Variations in Major U.S., Hurricane Activity: Statistics and a Physical Mechanism, J. Climate. 13 (2000) 2293–2305. [6] J. C. L. Chan, J. E. Shi and C. M. Lam, Seasonal forecasting of tropical cyclone activity over the Western North Pacific and the South China Sea, Wea. Forecasting 13 (1998) 997-1004. [7] J. C. L. Chan, Tropical cyclone activity over the Western North Pacific associated with El Niño and La Niña events, J. Climate. 13 (2000) 2960-2972. [8] Pao-Shin Chu, Xin Zhao, Chang-Hoi Ho, Hyeong- Seog Kim, Mong-Ming Lu, Joo-Hong Kim, Bayesian forecasting of seasonal typhoon activity: A track-pattern oriented categorization approach, J.Climate. 23 (2010) 6654-6668 [9] M. Lu, P.-S. Chu, and Y.-C. Lin, Seasonal prediction of tropical cyclone activity near Taiwan using the Bayesian multivariate regression method, Wea. Forecasting 25 (2010) 1780–1795. [10] H. J Kwon, W.-J. Lee, S.-H.Won, E.-J. Cha, Statistical ensemble prediction of the tropical cyclone activity over the Western North Pacific.Geophys. Res. Lett. 34 (2007) L24805 1-5. doi:10.1029/2007GL032308 [11] J. C. L. Chan, Tropical cyclone activity in the Western North Pacific in relation to the stratospheric quasi-biennial oscillation, Mon. Wea. Rev. 123 (1995) 2567-2571. [12] J. C. L. Chan, Prediction of annual tropical cyclone activity over the Western North Pacific and the South China Sea, Int’l J. Climatol. 15 (1995) 1011- 1019. [13] J. C. L. Chan, J. E. Shi and C. M. Lam, Seasonal forecasting of tropical cyclone activity over the Western North Pacific and the South China Sea, Wea.Forecasting 13 (1998) 997-1004. [14] J.C.L. Chan, J.E. Shi, K.S. Liu, Improvements in the seasonal forecasting of tropical cyclone activity over the Western North Pacific. Wea. Forecasting 16 (2001) 491-498. [15] P. J. Klotzbach, Recent developments in statistical prediction of seasonal Atlantic basin tropical cyclone activity, Journal compilation C (2007) Blackwell Munksgaard. https://doi.org/ 10.1111/j. 1600-0870.2007.00239.x, Tellus 59A (4) (2007) 511-518. D.B. Duy et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 2 (2019) 45-57 57 [16] W. Zhang, Y. Zhang, D. Zheng, F. Wang, and L. Xu, Relationship between lightning activity and tropical cyclone intensity over the northwest Pacific, J. Geophys. Res. Atmos. 120 (2015) 4072 -4089. https://doi.org/10.1002/2014JD022334. [17] Phan Van Tan, On the tropical cyclone activity in the Northwest Pacific basin and South China sea in relationship with ENSO, Journal of Science, Vietnam National University, Hanoi (1) 18 (2002) 51-58. (In English) [18] Nguyễn Văn Tuyên, Xu hướng hoạt động của xoáy thuận nhiệt đới trên Tây Bắc Thái Bình Dương và biển Đông theo các cách phân loại khác nhau, Tạp chí KTTV 559 (2007) 4-10. [19] Đinh Bá Duy, Ngô Đức Thành, Phan Văn Tân, Mối quan hệ giữa ENSO và số lượng, cấp độ Xoáy thuận Nhiệt đới trên khu vực Tây Bắc - Thái Bình Dương, Biển Đông giai đoạn 1951-2015, VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences 32 (3S) (2016) 43-55. [20] Đinh Bá Duy, Ngô Đức Thành, Nguyễn Thị Tuyết, Phạm Thanh Hà, Phan Văn Tân, Đặc điểm hoạt động của Xoáy thuận Nhiệt đới trên khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương, Biển Đông và vùng trực tiếp chịu ảnh hưởng trên lãnh thổ Việt Nam giai đoạn 1978-2015, VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences (2) 32 (2016) 1-11. [21] Đinh Văn Ưu, Đánh giá quy luật biến động dài hạn và xu thế biến đổi số lượng bão và áp thấp nhiệt đới trên khu vực Tây Thái Bình Dương, Biển Đông và ven biển Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ (3S) 25 (2009) 542-550. [22] Nguyễn Văn Hiệp và nnk, Đặc điểm hoạt động của bão ở Tây Bắc Thái Bình Dương và Biển Đông qua số liệu Ibtracs, Tuyển tập báo cáo tại Hội thảo khoa học năm 2016 của Viện Khoa học KTTV & BĐKH, (2006) 9-14. [23] Vũ Thanh Hằng, Ngô Thị Thanh Hương,, Phan Văn Tân, Đặc điểm hoạt động của bão ở vùng biển gần bờ Việt Nam giai đoạn 1945-2007, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ (3S) 26 (2010) 344‐353. [24] Nguyễn Văn Tuyên, Khả năng dự báo hoạt động mùa bão biển Đông Việt Nam: Phân tích các yếu tố dự báo và nhân tố dự báo có thể (Phần I), Tạp chí KTTV, 568 (2008) 1-8. [25] Nguyễn Văn Tuyên, 2008: Khả năng dự báo hoạt động mùa bão biển Đông Việt Nam: Phân tích các yếu tố dự báo và nhân tố dự báo có thể (Phần II). Tạp chí KTTV, 571 (2008) 1-11. [26] Phan Văn Tân, 2009-2010, Nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu đến các yếu tố và hiện tượng khí hậu cực đoan ở Việt Nam, khả năng dự báo và giải pháp chiến lược ứng phó. Đề tài cấp Nhà nước, mã số KC08.29/06-10. [27] https://www.jma.go.jp/jma/jma-eng/jma-center/ rsmc-hp-pub-eg/besttrack.html. [28] https://www.esrl.noaa.gov/ psd/data/climateindices/ list/ [29] T. Ngo-Duc, J. Matsumoto, H. Kamimera, H.H. Bui, Monthly adjustment of Global Satellite Mapping of Precipitation (GSMaP) data over the VuGia– ThuBon River Basin in Central Vietnam using an artificial neural network. Hydrological Research Letters 7 (4) (2013) 85-90. https://doi.org/ 10.3178/hrl.7.85. [30] J. C. L. Chan, J. E. Shi and C. M. Lam, Seasonal forecasting of tropical cyclone activity over the Western North Pacific and the South China Sea, Wea. Forecasting 13 (1998) 997-1004. [31] E. S. Blake, W. M. Gray, Prediction of August Atlantic Basin Hurricane Activity. Wea. Forecasting 19 (2004) 1044-1060. [32] P. J. Klotzbachi, W. M. Gray, Extended range forecast of Atlantic seasonal Hurricane activity and U. S. landfall strike probability for 2008, (2007) colostate.edu/Forecasts.
File đính kèm:
- du_bao_han_mua_so_luong_xoay_thuan_nhiet_doi_tren_bien_dong.pdf