Đô thị nén Pro and Contra
1. Xu thế tiến hóa của mô hình đô thị nén trên
thế giới
Hiện nay trên diễn đàn thế giới có nhiều định nghĩa về đô thị nén,
với những cách đặt trọng tâm khác nhau, cách tiếp cận khác nhau.
Chưa có thống nhất tuyệt đối nào là định nghĩa nào là được đa số
học giả công nhận. Tuy nhiên, nhìn chung thì mọi người đều hình
dung được đô thị nén có nghĩa là mô hình phát triển hướng tới cô
đặc, tập trung các hoạt động đô thị vào một khu vực nhỏ.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Bạn đang xem tài liệu "Đô thị nén Pro and Contra", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đô thị nén Pro and Contra
29SË 94 . 2018 1. Xu thế tiến hóa của mô hình đô thị nén trên thế giới Hiện nay trên diễn đàn thế giới có nhiều định nghĩa về đô thị nén, với những cách đặt trọng tâm khác nhau, cách tiếp cận khác nhau. Chưa có thống nhất tuyệt đối nào là định nghĩa nào là được đa số học giả công nhận. Tuy nhiên, nhìn chung thì mọi người đều hình dung được đô thị nén có nghĩa là mô hình phát triển hướng tới cô đặc, tập trung các hoạt động đô thị vào một khu vực nhỏ. Một đô thị cô đặc như vậy sẽ có một số thuộc tính nhất định: n Mật độ cao và đa dạng công năng dẫn tới đô thị sầm uất, sống động, nhiều lựa chọn dịch vụ n Hệ số sử dụng hạ tầng cao hơn, hiệu quả hơn, dẫn tới khả năng cung cấp hạ tầng hiện đại như giao thông công cộng, quản lý nước, năng lượng. n Bán kính di chuyển ngắn dẫn tới tăng khả năng sử dụng xe đạp, đi bộ, giảm phương tiện cơ giới cá nhân, giảm tiêu thụ năng lượng, nhất là năng lượng hoá thạch, giảm ô nhiễm n Kiến trúc linh hoạt, không gian đa dạng, hấp dẫn, luôn cập nhật với tiến bộ về khoa học kỹ thuật, phù hợp với các loại hình sử dụng. n Sự tập trung dẫn tới giảm giá thành dịch vụ theo nguyên tắc kinh tế số lượng, tạo ra những hiệu ứng cộng hưởng, hiệu ứng chéo về sáng tạo, sản xuất, tiêu dùng, dẫn tới tăng trưởng kinh tế. Đô thị nén tiền hiện đại: Trong lịch sử đô thị, hình thức đô thị nén với những đặc điểm tương tự như ở trên vốn không phải là cái gì quá xa lạ, đặc biệt là ở các đô thị cổ châu Âu. Đại đa số các đô thị tiền hiện đại đều ở dạng nén, thứ nhất là vì thường có một tường thành bao quanh bảo vệ, không thể mở rộng ra được, thứ hai là phương tiện giao thông thô sơ, không cần mở rộng, nhưng đặc biệt quan trọng là vì các đô thị ít có tiềm lực kinh tế thực sự để phát triển thật nhanh, thật lớn. Giải nén thời đầu hiện đại: Thời kỳ đầu cách mạng công nghiệp, có một sự xáo trộn rất lớn trong cấu trúc đô thị. Động cơ phát triển đô thị là công nghiệp, với tiềm năng phát triển khác hẳn thời kỳ nông nghiệp. Đô thị hoá tăng rất nhanh, với những làn sóng nhập cư lớn từ nông thôn vào đô thị. Ăngghen phê phán là điều kiện sống của giai cấp công nhân trong những đô thị công nghiệp đó rất tồi tệ, không đảm bảo. Tony Garnier chủ trương đô thị hiện đại phải được giải nén, phân vùng thành những công năng riêng như ở, sản xuất, vui chơi, mua sắm. Howard, một quy hoạch gia đầy ảnh hưởng khác của thời kỳ đầu công nghiệp, cũng cho rằng tình trạng chật chội trong những lõi đô thị trung tâm là không thể tiếp diễn được, và yêu cầu phải tạo cho những người công nhân điều kiện sống lành mạnh kiểu nhà vườn ngoại ô, trong những ngôi làng sinh thái, mặc dù vẫn dễ dàng tiếp cập được với chỗ làm việc trong nhà máy. ĐÔ THỊ NÉN PRO AND CONTRA DIỄN ĐÀN TS. PHÓ ĐỨC TÙNG SË 94 . 201830 Siêu nén hiện đại: Le Corbusier là người chứng minh một cách rõ ràng nhất, hùng hồn nhất rằng cấu trúc đô thị nén kiểu tiền công nghiệp không phù hợp với phương thức và quy mô của đô thị mới, nên phải giải toả đi. Sự không phù hợp này nghiêm trọng tới mức ngay cả một kinh đô hoa lệ như Paris cũng nên bị san bằng, làm mới hoàn toàn thì mới tốt được. Ông cho rằng đô thị hiện đại cần đảm bảo không khí, ánh sáng, cây xanh, giao thông là quan trọng nhất. Trên 90% diện tích đô thị được dành cho khoảng trống, giao thông, cây xanh, vườn hoa. Các công năng đô thị được cho vào những toà nhà cao tầng, với chiều cao hàng ngàn mét. Đây cũng là một loại nén, tuy hoàn toàn không giống với các dạng đô thị nén cổ truyền. Đô thị nén hậu hiện đại: Diễn đàn về đô thị nén thời kỳ hậu hiện đại được khơi lại, không phải là để tái tạo ra một trong những mô hình đã có trong lịch sử. Với mô hình này, người ta hy vọng tìm ra giải pháp cho một yêu cầu rất chung hơn nữa, đã được công nhận toàn cầu là nguyên tắc phát triển bền vững, trong đó chỉ rõ cần phải có sự phát triển đồng đều về cả 3 lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội và môi trường. Thoạt nhìn có thể cảm thấy mỗi một đặc điểm của đô thị nén đều có liên quan một cách tích cực với phát triển bền vững. Tuy nhiên xét kỹ thì thấy rằng hai thứ không phải là một. Mô hình đô thị nén chỉ là một kiến giải cho giải pháp hướng tới phát triển bền vững, dựa trên một số quan điểm lý thuyết. Nhưng bởi vì trong cả ba lĩnh vực phát triển bền vững đều có những quan điểm khác nhau, thậm chí trái chiều, nên đô thị nén không phải mô hình lý thuyết duy nhất, được công nhận hoàn toàn. Vì vậy, chúng ta không thể đơn giản áp dụng nó một cách máy móc, mà cần phải nhìn nhận vấn đề rất kỹ từ từng góc độ của phát triển bền vững. Vấn đề thứ hai là mỗi một nơi trên thế giới đều có những xuất phát điểm rất khác nhau, với những vấn đề khác nhau. Vì vậy, đô thị nén chưa chắc áp dụng được ở mọi nơi, mà nếu có áp dụng thì cũng không giống nhau ở mọi nơi. Hall và Pfeiffer chia các khu vực đô thị trên thế giới thành ba loại chính, theo tính chất kinh tế - văn hoá xã hội - dân số: n Các đô thị siêu tăng trưởng phi chính quy (Ấn Độ, Châu Phi, Trung Đông Hồi giáo, Nam Mỹ) n Nhóm đô thị tăng trưởng mạnh (Đông Á, Mỹ La Tinh, Caribe, Trung Đông) n Nho ... t thế giới riêng, không ai động vào được mới là tự do, chứ không phải là cơ hội được cởi mở, giao lưu, kết nối. Tất nhiên cả một xã hội trưởng thành cũng SË 94 . 201832 có nhu cầu riêng tư. Nhưng ở đó, người ta sẽ chỉ cần một mức riêng tư tối thiểu, và muốn tối đa hoá lĩnh vực giao lưu, kết nối. Ngược lại, ở các nơi chậm phát triển, người ta sẽ luôn có mong muốn củng cố và mở rộng phạm vi riêng tư. Một trong những ví dụ là những cửa sắt, bảo vệ nhiều lớp cho từng gia đình thường bị đẩy lên thái quá ở các nước chậm phát triển. Ví dụ nữa là sự phát triển hàng loạt của các khu gated community. Trong cùng một xã hội đô thị thì nhóm người trưởng thành hơn, thành đạt hơn, giàu có hơn cũng sẽ đặt yêu cầu về tự do cao hơn. Vì vậy, khi nói nén thì quan trọng là mật độ và độ da dạng của những thành phần cao cấp mới là thứ họ mong đợi, chứ không phải là nén bất kỳ. Nếu nồng độ thành phần cao cấp mà thấp thì càng nén đông người càng loãng chứ không phải là đặc, vì thế có nén cũng phản tác dụng. n Công bằng, bình đẳng: Theo ý nghĩa về công bằng bình đẳng là khả năng tiếp cận dịch vụ hạ tầng cho tất cả mọi người thì đô thị nén cũng là một giải pháp tốt. Việc tất cả mọi tầng lớp, mọi nhóm xã hội cùng ở chung với nhau trong một khu đô thị đa chức năng thể hiện sự bình đẳng cao hơn hẳn việc phân chia riêng khu giàu khu nghèo, hay phân theo sắc tộc. Việc nén cũng dẫn tới khả năng cung cấp hạ tầng công cộng hiện đại hơn, rẻ hơn, phục vụ được cho tất cả mọi người, nhất là người nghèo. Tuy nhiên, vấn đề bình đẳng từ xưa vốn là câu chuyện của người nghèo, và vì thế, người nghèo sẽ thích và cần đô thị nén hơn. Đối với người giàu, khá giả thì những tiện ích cho người nghèo không thực sự là thứ họ cần. Việc sống chung với người nghèo mang lại cho họ nhiều thứ bất tiện. Suy cho cùng thì mục đích của những nỗ lực và sự thành đạt không phải là để được bình đẳng như những người khác. Trong lịch sử đô thị, ngay từ những đô thị ban đầu như La Mã thì người giàu đã muốn ra ngoài, không ở chung với người nghèo trong trung tâm. Tất nhiên, việc chung sống cũng có cả giá trị cho người giàu, vì họ sẽ có được dịch vụ đa dạng hơn, tốt hơn, rẻ hơn. Tóm lại, đô thị nén có thể cho người giàu sự tự do và người nghèo quyền bình đẳng. Được như vậy thì nó là giải pháp mang lại tiến bộ xã hội. Nhưng nếu sự tự do của người giàu không đủ hấp dẫn mà quyền bình đẳng được đặt lên hàng đầu thì tổng thể chưa chắc đã phải là tốt. n Sinh kế: Đô thị nén từ xa xưa vốn là một hình thức đảm bảo nhất đối với sinh kế của người nghèo đô thị. Vì thế, những khu nghèo, mật độ cao luôn luôn nằm trong vùng lõi trung tâm. Trong những thời kỳ đầu thế kỷ XX, người ta cho rằng đó là sự kiện bất thường, không nên khuyến khích, vì khu trung tâm được coi là khu đất vàng, chỉ nên cho người giàu, cửa hàng sang trọng. Vì thế, người ta luôn muốn giải toả các khu nghèo, khu ổ chuột ra khỏi vùng này. Nhưng cũng chính vì thế mà các khu này gần như không bao giờ được hợp thức hoá, càng trở nên tồi tàn, sập xệ. Sau này, người ta nhận thấy rằng những khu này không tốt chủ yếu vì nó không được công nhận chứ không phải là vì người nghèo ở đó. Mô hình đô thị nén tìm cách dàn xếp, tổ chức một cách hiệu quả, hợp lý không gian sống cho những người nghèo và các loại thành phần trong cùng một khu đô thị, khi đó vừa đảm bảo được sinh kế cho họ, vừa tránh được tình trạng tiêu cực của các khu ổ chuột. Như vậy, xét từ khía cạnh này, đô thị nén chắc chắn là một tiến bộ. Beatley cho rằng việc sống trong những khu đô thị thương mại là khả năng tốt nhất để tạo ra các loại sinh kế phụ đồng thời cũng có được chất lượng sống đô thị cao nhất theo nghĩa một khu đô thị sầm uất, sống động. 4- Đô thị nén nhìn từ góc độ phát triển kinh tế đô thị a- Những nguyên lý phát triển kinh tế đô thị n Crosselling và agglomeration: Một trong những nguyên tắc chính của kinh tế đô thị, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, là hiệu ứng cộng hưởng. Khi nhiều sản phẩm khác nhau được bày bán trong một khu vực đông đúc như cái chợ, sẽ có một hiệu ứng cộng hưởng làm tăng nhu cầu tiêu dùng. Ban đầu có thể người ta không định mua, nhưng vì tiện nhiều thứ gần nhau nên người ta là nghĩ ra mua. Có nhiều dạng tập trung thương mại như trung tâm thương mại, chợ, khu phố thương mại, phố đi bộ... Nguyên lý tương tự cũng được cho là tồn tại trong lĩnh vực sản xuất, nghiên cứu, sáng tạo. Một khu vực đông đúc, tập trung nhiều người, nhiều cái đầu, sẽ có nhiều ý tưởng, khuyến khích nhau cùng phát triển, để có thể trở thành một dạng vườn ươm ý tưởng, vườn ươm doanh nghiệp. Vườn ươm ý tưởng này là một trong những động cơ rất cơ bản của phát triển kinh tế đô thị. n Cạnh tranh thị trường: Chất lượng sản phẩm, dịch vụ đô thị rất phụ thuộc vào cạnh tranh thị trường lành mạnh. Vì thế, không chỉ là số lượng dịch vụ, mà là số lượng và chất lượng cạnh tranh cần phải quan tâm. Trong nền kinh tế kế hoạch, điều quan trọng là đảm bảo trên một ngàn dân có mấy chỗ nhà trẻ, bệnh viện, dịch vụ, cửa hàng... Nhưng một hàng phở duy nhất được phép khác hẳn với một hàng phở sống sót duy nhất sau 100 hàng cạnh tranh. Tương tự đối với cả những dịch vụ xã hội như giáo dục, y tế cơ bản, nếu những dịch vụ này được xã hội hoá. n Quy luật giá trị đất của Thuenen: Giá đất là yếu tố thị trường. Mọi can thiệp vào yếu tố này đều có nguy cơ làm mất giá trị tài nguyên. Giá đất đô thị ở một khu vực phụ thuộc nhiều nhất vào khả năng sinh lợi từ nó, chủ yếu là năng lực trở thành chợ hoặc tiếp cận tới chợ. Từ giá đất sẽ quyết định tới mật độ sử dụng. Không thể áp đặt mật độ cao ở một nơi giá trị đất thấp và sẽ làm giảm giá trị đất nếu áp đặt mật độ sử dụng thấp ở nơi có giá trị đất cao. Muốn tăng mật độ, phải tăng giá trị, mà muốn tăng giá trị, phải tăng cơ hội thị trường. n Vòng quay bất động sản: Đa số việc phát triển ở đâu, như thế nào trong đô thị không phải là kết quả của nhận thức hay quy hoạch, mà chủ yếu bị chi phối bởi vòng quay bất động sản. Lượng tiền lớn nhất trong đô thị cũng như những thế lực mạnh nhất đều tham gia vào vòng quay này. Vòng quay này có rất nhiều quy luật phức tạp, nhiều thế lực tham gia, với những tương quan lực lượng rất khác nhau ở từng nơi, từng lúc. Muốn biết tại sao một đô thị lại phát triển như vậy hay có thể áp dụng mô hình nào, cần phải hiểu rất rõ vòng quay bất động sản ở từng nơi, từng thời kỳ. Không thể áp dụng một mô hình đô thị cứng nhắc trong mọi nơi mọi lúc. b- Đóng góp của mô hình đô thị nén vào phát triển kinh tế đô thị: Nhìn chung, mô hình đô thị nén hỗ trợ quy luật về tập trung, cộng hưởng của tiêu dùng, dịch vụ cũng như gia tăng cạnh tranh thị trường. Tuy nhiên, những yếu tố này không phải là những lý do thực sự mạnh. Xét về tổng thể nền kinh tế đô thị, lợi thế cộng hưởng và cạnh tranh phụ thuộc nhiều vào tổng độ lớn đô thị và tổng sức mua của nó hơn là 33SË 94 . 2018 vào độ nén trong không gian. Người ta không cần phải ở ngay cạnh khu mua sắm mới mua nhiều hàng. Và với sự phát triển của internet, tính cạnh tranh cũng không thực sự cần thiết các mặt hàng phải được bày gần nhau trong khu vực, vì người ta có thể có nhiều cách để so sánh, đối chiếu nhanh, hiệu quả hơn. Dưới góc độ quy luật giá đất hay vòng quay bất động sản là những thế lực kinh tế đô thị chính thì mô hình đô thị nén rất dễ sa vào tình trạng khiên cưỡng, phi kinh tế. Bởi vì nếu tin vào quy luật thị trường thì chỗ nào giá đất cao tức khắc sẽ nén, chẳng cần mô hình gì, ngược lại đã muốn áp dụng mô hình thì nghi ngờ là muốn nén ở chỗ không đáng nén. Nói chung, mô hình đô thị nén có xuất phát điểm từ những phản biện từ góc độ môi trường và xã hội học. Bản thân những phản biện này có cách nhìn là người ta vốn dĩ quá ưu tiên phát triển kinh tế mà coi nhẹ hai khía cạnh kia của phát triển. Vì vậy, mô hình này giúp làm cân bằng bớt, bằng cách đẩy hai trụ cột kia lên. Tuy nhiên, về góc độ kinh tế, đây chưa thực sự có thể coi như win win solution, đảm bảo chí ít giữ nguyên được phát triển kinh tế mà vẫn tiến bộ được về hai lĩnh vực kia. Chính vì thế, những phản biện từ góc độ kinh tế đô thị là phản biện nặng đô nhất trên cả lý thuyết lẫn thực tế trong việc áp dụng mô hình đô thị nén. (Thomas, Cousins, Ch. Fulford). 5- Kết luận: Nói chung mô hình đô thị nén chưa chứng minh được hiệu quả rõ ràng của nó đối với phát triển bền vững. (Jenks) Đối với những đô thị trưởng thành, đây từng là một mô hình tương đối được nhiều ủng hộ (World Commission Urban21, 2000). Tuy nhiên từ đó đến nay, ngay cả điều kiện ở các đô thị trưởng thành cũng đã thay đổi. Trên diễn đàn lý thuyết hay giữa lý thuyết và thực tế đều đang có rất nhiều quan điểm trái chiều. Nói chung, không thể có một mô hình đô thị nén chung cho tất cả mọi nơi, mọi lúc. Mỗi đô thị, mỗi thời điểm sẽ có một điều kiện khác nhau và cần áp dụng những chiến lược, mô hình khác nhau. Nếu một đất nước hoặc một đô thị nào muốn đi theo chiến lược đô thị nén thì không phải là áp đặt được một mô hình hoàn chỉnh, mà chỉ có cách nghiên cứu những kinh nghiệm thế giới về vấn đề này thông qua các best practices và từ đó cân nhắc xem học hỏi được điều gì cho trường hợp của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO: ANNA KRENZ - The Compact City - Theory and Reality ‘World Report on the Urban Future 21’, prepared by Sir P. Hall and U. Pfeiffer (Berlin: the World Commission Urban 21 for the Conference URBAN21 in Berlin, 2000) A. Marshall “How cities work: suburbs, sprawl, and the roads not taken” (Austin: University of Texas Press, 2000) T. Burton and L. Matson “Urban Footprints: Making best Use of Urban Land and Resources - A Rural Perspective”, in “The Compact City, a Sustainable Urban Form?” ed. M. Jenks, E. Burton and K. Williams (New York: E & FN Spon, 1996) H. Girardet “Creating Sustainable Cities”, (Devon: Schumacher Briefing No. 2, Green Society, Green Books Ltd, 1999) S. Hagan “Taking Shape, A New Contract between Architecture and Nature” (Oxford: Architectural Press, 2001) Lord R. Rogers “Cities for a Small Planet” (England: Faber & F Faber, 1997) M. Jenks, E. Burton and K. Williams “Compact cities and Sustainability” in “The Compact City, a Sustainable Urban Form?” ed. M. Jenks, E. Burton and K. Williams (New York: E & FN Spon, 1996) M. Hillman “In Favour of the Compact City” in “The Compact City, a Sustainable Urban Form?” ed. M. Jenks, E. Burton and K. Williams (New York: E & FN Spon, 1996) Urban Task Force, “Toward an Urban Renaissance”, Final Report, chaired by Lord Rogers of Riverside (London: Department of the Environment, Transport and the Regions, 1999) L. Thomas and W. Cousins ‘The Compact City: Successful, Desirable and Achievable?’ in “The Compact City, a Sustainable Urban Form?” ed. M. Jenks, E. Burton and K. Williams (New York: E & FN Spon, 1996) M. Breheny “Centrists, Decentrists and Compromisers” in “The Compact City, a Sustainable Urban Form?” ed. M. Jenks, E. Burton and K. Williams (New York: E & FN Spon, 1996) T. Beatley “Green Urbanism, Learning from European Cities”, (Washington: Island Press, 2000) Lord R. Rogers ‘City of Density, Towards an Urban Renaissance’ article in Foyer Magazine (Berlin: Foyer, 2000) S.C.M. Hui “Low energy building design in high density urban cities” in Renewable Energy 24, 2001 (Pergamon, 2001) Ch. Fulford “The Compact City and the Market”, in “The Compact City, a Sustainable Urban Form?” ed. M. Jenks, E. Burton and K. Williams (New York: E & FN Spon, 1996) K. Williams “Urban intensification policies in England: problems and contradictions” in Land Use Policy 16, 1999 (Pergamon, 1999) F. Gomez, E. Gaja and A. Reig ‘Vegetation and Climatic Changes in a City’ in Ecological Engineering, (www.scirus. com, Elsevier, 1998) P. Nijkamp and S. A. Rienstra “Sustainable Transport in a Compact City” in “The Compact City, a Sustainable Urban Form?” ed. M. Jenks, E. Burton and K. Williams (New York: E & FN Spon, 1996) ‘City Fights, Debates on Urban Sustainability’ ed. M. Hewitt and S. Hagan (London: James & James, 2001) S. Yannas “Solar Energy and Housing Design”, vol. 1, (London: Architectural Association Publications, 1994) R. Marsh, M. Lauring and E. H. Petersen ‘Architektur og Miljo, Form Konstruktion Materialer - og Miljopavirkning’ (Aarhus: Arkitektskolens Forlag, 2000) ≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
File đính kèm:
- do_thi_nen_pro_and_contra.pdf