Đo lường mức độ căng thẳng đối với công việc của viên chức trong các trường đại học
Nghiên cứu thực hiện đo lường mức độ căng thẳng đối với công việc, sử dụng mô hình
phương trình cấu trúc (SEM) và dựa trên mẫu khảo sát từ 279 viên chức trong một số trường đại
học trên địa bàn TP.HCM. Kết quả cho thấy thang đo bốn thành phần căng thẳng trong công việc
của McCormick (1997) được kiểm định phù hợp ở VN. Trong đó, những yếu tố gây căng thẳng từ
phía sinh viên và cá nhân viên chức không ảnh hưởng đến sự gắn kết đối với trường của viên
chức. Kết quả nghiên cứu giúp cho lãnh đạo các trường đại học hiểu rõ các thành phần tạo căng
thẳng và mối tương quan giữa căng thẳng trong công việc và sự gắn kết của viên chức, từ đó có
các chiến lược phù hợp nhằm giảm căng thẳng và nâng cao mức độ gắn kết đối với nhà trường
của viên chức.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đo lường mức độ căng thẳng đối với công việc của viên chức trong các trường đại học
PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ Soá 262, Thaùng Taùm naêm 2012 38 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI ĐO LƯỜNG MỨC ĐỘ CĂNG THẲNG ĐỐI VỚI CÔNG VIỆC CỦA VIÊN CHỨC TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRẦN KIM DUNG* & TRẦN THỊ THANH TÂM** Nghiên cứu thực hiện đo lường mức độ căng thẳng đối với công việc, sử dụng mô hình phương trình cấu trúc (SEM) và dựa trên mẫu khảo sát từ 279 viên chức trong một số trường đại học trên địa bàn TP.HCM. Kết quả cho thấy thang đo bốn thành phần căng thẳng trong công việc của McCormick (1997) được kiểm định phù hợp ở VN. Trong đó, những yếu tố gây căng thẳng từ phía sinh viên và cá nhân viên chức không ảnh hưởng đến sự gắn kết đối với trường của viên chức. Kết quả nghiên cứu giúp cho lãnh đạo các trường đại học hiểu rõ các thành phần tạo căng thẳng và mối tương quan giữa căng thẳng trong công việc và sự gắn kết của viên chức, từ đó có các chiến lược phù hợp nhằm giảm căng thẳng và nâng cao mức độ gắn kết đối với nhà trường của viên chức. Từ khoá: Căng thẳng trong công việc, sự gắn kết của viên chức, trường đại học 1. Mở đầu Nghiên cứu về căng thẳng trong công việc ở các trường đại học thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả trên thế giới: Jagdish Dua (1994); Cruise, Mitchell & Blix (1994); Kinman (1996); McCormick (1997); Nobile & McCormick (2005); Barkhuizen & Rothmann (2007); Halkos & Bousinakis (2010). Ở VN, chưa có nhiều các nghiên cứu trong lĩnh vực này. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đo lường căng thẳng trong công việc và mối quan hệ giữa căng thẳng và sự gắn kết đối với nhà trường của viên chức ở các trường đại học trong điều kiện ở VN. 2. Cơ sở lí thuyết 2.1. Khái niệm và tác hại của căng thẳng trong công việc Căng thẳng là một khái niệm được sử dụng thường xuyên trong đời sống nhưng lại khó định nghĩa chính xác. Căng thẳng có thể được định nghĩa như “một quá trình tương tác giữa con người và môi trường, trong đó đương sự nhận định sự kiện từ môi trường là có tính chất đe dọa, có hại, và đòi hỏi đương sự phải cố gắng sử dụng các tiềm năng thích ứng của mình (Lazarus, 1993). Sự căng thẳng trong công việc xảy ra khi người lao động bị tác động bởi một sự kiện từ môi trường làm việc có tính đe dọa, có hại đối với người lao động và buộc họ phải tìm cách thích nghi, ứng phó, khiến họ cảm thấy lo lắng, hồi hộp, thất vọng... Căng thẳng thuộc về những tác động của sự kiện từ bên ngoài hơn là từ bên trong cá nhân mỗi người mặc dù cùng một sự kiện có thể gây căng thẳng khác nhau ở mỗi người, tùy thuộc vào năng lực ứng phó với sự kiện của đương sự. Tác hại của căng thẳng đến cá nhân người lao động thể hiện ở nhiều khía cạnh: (1) về sức khỏe: suy giảm thể lực và gia tăng bệnh tật; (2) về công việc: thái độ bất mãn, năng suất, chất lượng công việc kém; (3) về tình cảm: không kiểm soát được cảm xúc và dễ trầm cảm; (4) về tư duy suy nghĩ: khó tập trung, không sáng suốt; và (5) về hành vi: khó kiểm soát và dễ có hành vi gây hậu quả xấu cho bản thân và xã hội. Đối với tổ chức, căng thẳng có thể làm giảm năng suất, hiệu quả hoạt động và tăng tỷ lệ nghỉ việc. * PGS.TS., Trường Đại học Kinh tế TP.HCM ** ThS., Trường Đại học Kinh tế TP.HCM Email: tkd@ueh.edu.vn, tamthanh@ueh.edu.vn PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ Soá 262, Thaùng Taùm naêm 2012 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI 39 2.2. Các thành phần gây căng thẳng trong công việc Theo James Price (1997, 499), căng thẳng xuất hiện khi nhân viên không có khả năng thực hiện các yêu cầu của công việc và có 6 nhóm nguyên nhân tạo nên căng thẳng: (1) trách nhiệm công việc không rõ ràng; (2) thực hiện công việc ở các vai trò xung đột; (3) có quá nhiều việc; (4) không đủ nguồn lực để thực hiện; (5) công việc nguy hiểm; và (6) công việc không bảo đảm lâu dài. Do đặc thù công việc, viên chức các trường đại học phải thường xuyên phải nâng cao trình độ, học hỏi, thu thập kiến thức mới, cập nhật thông tin mới, thường xuyên đổi mới chương trình giảng dạy, phương pháp giảng dạy, hình thức quản lí nhằm đảm bảo yêu cầu của chất lượng giáo dục và đáp ứng kỳ vọng và nhu cầu của xã hội. Điều này tạo thêm căng thẳng thêm cho họ so với các căng thẳng thông thường từ công việc. Nghiên cứu của Cruise, Mitchell và Blix (1994) tiến hành tại Mỹ cho thấy 66% căng thẳng do áp lực về thời gian làm việc, phần còn lại do hạn chế trong thăng tiến nghề nghiệp, thông tin không được cung cấp đầy đủ, chuyên nghiệp, hiện đại, tiền lương thấp, khối lượng công việc nhiều, vai trò không rõ ràng, các yêu cầu từ công việc mâu thuẫn nhau, sự quản lí lỗi thời. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy những người làm việc trong ngành giáo dục bị căng thẳng hơn là những người làm việc trong các ngành nghề khác. Kinman (1996) cho rằng căng thẳng trong công việc thuộc lĩnh vực giáo dục đại học xuất phát từ thiếu cơ hội thăng tiến và tiến bộ (91%), thiếu sự hỗ trợ cho hoạt động học thuật, nghiên cứu khoa học (89%), nhiệm vụ, công việc hành chính phiền hà (89%). Những căng thẳng đó làm cho họ cảm thấy bản thân không có khả năng làm việc hiệu quả và họ cảm thấy mình luôn trầm cảm và lo âu. Nghiên cứu của Abouserie (1996) tại trường đại học Wales cũng cho thấy 74% đánh giá sự căng thẳng bắt nguồn từ công việc nhiều hơn là từ cuộc sống cá nhân của họ như thời gian làm việc, mối quan hệ với các đồng nghiệp, công việc giảng dạy, hướng dẫn đề tài, luận văn, thủ tục hành chính, phòng thí nghiệm không tốt, hội thảo và các nhu cầu của sinh viên, việc đối phó với các vấn đề cá nhân của sinh viên. Trong tổng quan các nghiên cứu về căng thẳng, Nobile và McCormick (2005) chỉ ra các thành phần hay nguồn gốc của căng thẳng gồm có: công việc phức tạp, xung đột hoặc vai trò phân công công việc không rõ ràng, môi trường làm việc không đầy đủ, yêu cầu công việc cao, quan hệ không tốt với đồng nghiệp và sinh viên, thiếu sự hỗ trợ từ lãnh đạo, không khí làm việc và văn hoá không phù hợp, khối lượng công việc nhiều... C ... ình; và (4) gặp khó khăn trong việc sắp xếp, cân đối giữa công việc và cuộc sống cá nhân, gia đình... Thang đo gắn kết của nhân viên có 3 biến tương ứng 3 thành phần: (1) Cảm hứng trong công việc; (2) nỗ lực cố gắng; và (3) hài lòng trong công việc được sử dụng. Thang đo Likert với 7 bậc được sử dụng, trong đó bậc 7 tương ứng với mức độ hoàn toàn đồng ý và bậc 1 tương ứng với mức độ hoàn toàn không đồng ý. Sau khi kiểm định độ tin cậy Cronbach Alpha của các thành phần thang đo, nghiên cứu thực hiện phân tích nhân tố khẳng định (CFA) đối với các thành phần của thang đo, mô hình đo lường, mô hình nghiên cứu. Các thang đo và mô hình đo lường, mô hình nghiên cứu được kiểm định về các tham số (Chi-square; độ tự do (df), giá trị p, các chỉ số CFI; GFI; TLI; RMSEA); độ tin cậy tổng hợp; tổng phương sai trích; tính đơn nguyên; giá trị hội tụ; và giá trị phân biệt phù hợp. Phương pháp ước lượng Maximum Likelihood (ML) được sử dụng để ước lượng các tham số do tất cả các biến đều có độ nhọn và độ chệch nằm trong khoảng [-1, +1]. Kiểm định thang đo Thang đo các thành phần căng thẳng có bốn thành phần với 16 biến, hệ số tin cậy Cronbach Alpha đều trong khoảng 0,874 đến 0,891. Trong kiểm định CFA, 3 thang đo thành phần căng thẳng (từ sinh viên, từ nhà trường, từ môi trường làm việc) đều có tham số phù hợp và thể hiện giá trị hội tụ, phân biệt, và là các thang đo có tính đơn nguyên nên mỗi thang đo được cộng trung bình để giảm tham số. Riêng thang đo căng thẳng từ cá nhân chỉ còn ba biến nên vẫn giữ các biến quan sát và kiểm định chung trong thang đo cùng các thành phần khác. Thang đo có kết quả phù hợp với các tham số Chi-square (20) = 53,114; p=0,000; GFI= 0,961; TLI=0,965; CFI= 0,981; RMSEA=0,077. Mối quan hệ giữa hai thành phần của thang đo nhỏ hơn 1 có ý nghĩa thống kê nên thang đo có giá trị phân biệt phù hợp. Thang đo gắn kết với tổ chức có ba biến quan sát nên được kiểm định chung trong mô hình đo lường. 5. Kết quả kiểm định mô hình đo lường và mô hình nghiên cứu Do mô hình nghiên cứu chỉ có hai khái niệm: các thành phần căng thẳng và sự gắn kết tổ chức nên PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ Soá 262, Thaùng Taùm naêm 2012 42 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI được kiểm định chung cả mô hình đo lường và mô hình nghiên cứu. Mô hình có các tham số phù hợp với Chi-square (43) = 113,757; p=0,000; GFI= 0,938; TLI=0,948; CFI= 0,966; RMSEA=0,077. Các thành phần căng thẳng có tương quan ngược chiều với đam mê công việc với giá trị trong khoảng -0,53 đến -0,67 với tất cả các giá trị (1-r)/SE > 1,96 thể hiện giá trị phân biệt của các khái niệm trong mô hình đo lường. 6. Kết quả Kết quả đo lường ảnh hưởng của các thành phần tạo căng thẳng đến sự gắn kết của viên chức trong Bảng 2. Mức độ giải thích của các thành phần căng thẳng đến sự gắn kết của viên chức là 52% biến thiên về mức độ gắn kết của viên chức trong các trường đại học. Bảng 3. Ảnh hưởng của căng thẳng đến mức độ gắn kết của viên chức Môi trường Sinh viên Nhà trường Cá nhân Mức độ gắn kết -0,285 -0,110 -0,310 -0,110 Sig. 0,025 0,154 0,007 0,233 Như vậy chỉ có giả thuyết H2 và giả thuyết H3 được chấp nhận. Hai giả thuyết H1 và H4 không được chấp nhận. Tổng hợp đánh giá mức độ căng thẳng trên thang điểm 7, với quy định: điểm trung bình dưới 4,5 là Bảng 2. Kết quả kiểm định mô hình đo lường bằng CFA Số lượng thành phần Độ tin cậy tổng hợp ( c) Phương sai trích ( vc) Trọng số tải Kết quả kiểm định Thang đo căng thẳng 4 0,8868 0,6643 0,8110 Đạt yêu cầu Cơ sở vật chất 5 0,8643 0,5639 0,7452 Đạt yêu cầu Sinh viên 4 0,8935 0,6797 0,8198 Đạt yêu cầu Nhà trường 4 0,8636 0,6160 0,7795 Đạt yêu cầu Cá nhân 3 0,8495 0,6533 0,8077 Đạt yêu cầu Gắn kết của nhân viên 3 0,7871 0,5526 0,7427 Đạt yêu cầu Mối tương quan Ước lượng SE C.R. 1-r (1-r)/SE p Môi trường Đam mê -0,674 0,059 -7,326 1,674 18,195 *** Sinh viên Đam mê -0,531 0,05 -6,423 1,531 18,519 *** Nhà trường Đam mê -0,665 0,055 -6,994 1,665 17,511 *** Cá nhân Đam mê -0,565 0,061 -6,201 1,565 6,406 *** Môi trường Sinh viên 0,673 0,056 8,718 0,327 4,236 *** Môi trường Nhà trường 0,788 0,061 8,859 0,212 2,383 *** Môi trường Cá nhân 0,667 0,061 7,693 0,333 3,841 *** Sinh viên Nhà trường 0,547 0,05 7,177 0,453 5,944 *** Sinh viên Cá nhân 0,542 0,053 6,859 0,458 5,796 *** Nhà trường Cá nhân 0,671 0,058 7,395 0,329 3,626 *** PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ Soá 262, Thaùng Taùm naêm 2012 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI 43 không bị căng thẳng; từ 4,5 đến dưới 5 là hơi căng thẳng; từ 5 đến dưới 6 là căng thẳng; từ 6 đến dưới 6,5 là rất căng thẳng và từ trên 6,5 là đặc biệt căng thẳng. Kết quả cho thấy tất cả 16 biến khảo sát thuộc các yếu tố tạo căng thẳng đều có điểm trung bình từ 5,2 đến 5,78 thuộc nhóm căng thẳng, trong đó 3 yếu tố được nhận định căng thẳng cao nhất gồm có: (1) Yêu cầu, sắp xếp học tập, nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức từ phía công việc; (2) Những đòi hỏi không hợp lí, thái độ không đúng mực của một số sinh viên; và (3) Quy mô, số lượng sinh viên ngày càng tăng. Có 136 người (48,7%) nhận định là công việc căng thẳng. Theo thống kê mô tả về mối quan hệ giữa mức độ căng thẳng và nỗ lực trong công việc để giúp trường thành công, có thể chia các viên chức thành 4 nhóm (Hình 1): (1) Hưởng thụ: Không nỗ lực đóng góp và không căng thẳng; (2) Thờ ơ: Căng thẳng cao nhưng không nỗ lực đóng góp; (3) Quá tải: Nỗ lực đóng góp cao, căng thẳng cao; và (4) Thích nghi: Nỗ lực đóng góp cao và không thấy căng thẳng Căng thẳng Cao Thờ ơ Quá tải 37.2% 12.3% Hưởng thụ Thích nghi Thấp 39% 11.5% Thấp Cao Nỗ lực đóng góp Hình 1. Mối quan hệ giữa nỗ lực đóng góp và căng thẳng trong công việc 7. Thảo luận kết quả Kết quả cho thấy thang đo 4 thành phần căng thẳng trong công việc thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo của McCormick (1997) đã được kiểm định là phù hợp trong điều kiện VN. Hai yếu tố căng thẳng từ môi trường làm việc; từ công việc và cách điều hành quản lí nhà trường được ghi nhận có tác động có ý nghĩa thống kê đến sự gắn kết của viên chức. Căng thẳng từ sinh viên và từ chính cá nhân viên chức có tương quan từng cặp với gắn kết tổ chức ở mức độ 0,53 và 0,56 (Sig. <0,001), tuy nhiên sự tác động này suy giảm dưới sự tác động của căng thẳng từ các yếu tố thuộc về cơ sở vật chất của các trường, đặc thù công việc và cách quản lí đánh giá của trường. Kết quả nghiên cứu ủng hộ kết quả nghiên cứu của Nobile và McCormick (2005), các thành phần của căng thẳng đều có tương quan với kết quả hành vi của viên chức; trong đó căng thẳng từ nhà trường tác động mạnh nhất. Mức độ nỗ lực cố gắng cao hơn bình thường của viên chức vì thành công của các trường còn rất khiêm tốn: 23,6%, trong đó những người thuộc nhóm thích nghi có 12,1% còn 11,5% cảm nhận bị quá tải. Nhiều viên chức nói rằng họ nỗ lực hết mình trong công việc để giữ gìn uy tín và thương hiệu cá nhân hoặc vì đạo đức nghề nghiệp, không phải vì thành công của trường. Thêm vào đó, có thể những bất cập trong chế độ đãi ngộ theo quy định của Nhà nước như thu nhập từ trường đại học hầu như không khác biệt giữa viên chức xuất sắc hay viên chức bình thường đã làm giảm nhiệt tình của các viên chức đã có nhiều năm nỗ lực cố gắng vì nhà trường. 8. Đề xuất & gợi ý chính sách Kết quả nghiên cứu cho thấy: Để giảm bớt căng thẳng trong công việc của giảng viên và viên chức khối quản lí, nhà trường nên ưu tiên cải thiện: (1) cách thức quản lí, điều hành, đánh giá; và (2) cơ sở vật chất của trường. Cụ thể, về cách thức quản lí, điều hành, đánh giá, nhà trường nên: - Xác định quy mô đào tạo hợp lí và thông báo sớm kế hoạch giảng dạy, tránh tình trạng quá tải về số giờ giảng hoặc các kế hoạch giảng đột xuất khiến viên chức luôn làm việc ngoài giờ và không có thời gian nghỉ ngơi phù hợp. - Cải tổ hoạt động của phòng tổ chức nhân sự. Thay vì chỉ giữ vai trò tuân thủ các quy định luật pháp trong việc quản lí đội ngũ viên chức, phòng nên chuyển sang cách tiếp cận quản trị nhân lực nhằm nâng cao hiệu quả làm việc và đáp ứng yêu cầu hội nhập. PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ Soá 262, Thaùng Taùm naêm 2012 44 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI - Phát triển các quy trình làm việc chuẩn nhằm hạn chế sai sót trong công việc, đưa ra các quy định cụ thể trong phân công công việc, xác định rõ ràng các yêu cầu về công việc. Rà soát, loại bỏ các quy định mâu thuẫn giữa các phòng ban. - Ứng dụng hệ thống cân bằng điểm (BSC) và chỉ số đánh giá kết quả chủ yếu (KPI) trong việc thiết lập mục tiêu và đánh giá kết quả làm việc của các trường, khoa, phòng ban và viên chức. Điều này có tác dụng kết nối mục tiêu chiến lược của trường với mục tiêu của các khoa và các phòng ban, kết nối mục tiêu tập thể và cá nhân và định lượng đo lường chính xác đóng góp của các tập thể, cá nhân cho mục tiêu phát triển của trường, kích thích viên chức nỗ lực hơn trong công việc. - Ban hành sổ tay quy tắc làm việc và ứng xử trong trường đại học. Huấn luyện sinh viên kỹ năng học đại học, giúp sinh viên biết cách chủ động tìm kiếm thông tin, tài liệu. - Kịp thời sử dụng các công nghệ kỹ thuật mới, phục vụ công việc quản lí, giảng dạy của nhà trường tạo môi trường làm việc hiện đại và thân thiện như: + Sử dụng phần mềm CRM để quản lí thông tin giảng viên và sinh viên, kịp thời nhắc nhở thời khoá biểu, các công việc cần làm, những thông tin cần biết, thời hạn nộp bài thi... tránh cho viên chức các sơ suất, sai sót đơn giản nhưng có thể gây hậu quả xấu. + Sử dụng các phần mềm phân công giao việc, định lượng ghi nhận kết quả công việc (giảng dạy, nghiên cứu khoa học, chấm thi...) và phối hợp với các phần mềm kế toán thay cho việc kê khai thành tích, làm kiểm điểm cá nhân cuối học kỳ và đánh giá thi đua khen thưởng theo kiểu giơ tay bỏ phiếu. + Tạo sự kết nối giữa thư viện của các trường đại học và trang bị phần mềm kiểm tra sự trùng hợp giữa các luận văn giúp viên chức mau chóng cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ và kịp thời phát hiện những đề tài nghiên cứu, luận văn trùng lặp. + Tin học hoá tất cả các hoạt động quản lí sinh viên ở tất cả các hệ, các khâu, các cấp quản lí liên quan. - Về cơ sở vật chất, các trường nên: + Trong quy hoạch xây dựng trường cần giảm thiểu việc di chuyển từ địa điểm này sang địa điểm khác khiến viên chức, sinh viên mệt mỏi và không thể đến lớp đúng giờ, (chưa kể tình trạng kẹt xe nghiêm trọng trong thành phố khiến việc di chuyển thêm khó khăn, chậm trễ). Các trường nên có chỗ ngồi làm việc cho giảng viên, tạo điều kiện thuận lợi cho họ khi hướng dẫn sinh viên làm khoá luận tốt nghiệp, bài tập về nhà; có phòng cho các bộ môn giúp họ thuận lợi trong sinh hoạt học thuật, lưu trữ tài liệu của bộ môn và phát triển quan hệ giao lưu tiếp xúc giữa giảng viên trong bộ môn với sinh viên. + Chủ động sửa chữa, nâng cấp máy móc, phương tiện làm việc (máy đèn chiếu, quạt, đèn, micro, thư viện...) để viên chức, sinh viên có thể làm việc hiệu quả PHAÙT TRIEÅN KINH TEÁ Soá 262, Thaùng Taùm naêm 2012 NGHIÊN CỨU & TRAO ĐỔI 45 TÀI LIỆU THAM KHẢO Abouserie, R. (1996), “Stress, Coping and Job Satisfaction in University Academic Staff”, Educational Psychology, 16, 49-56. Aselstine K. & Keri Alletson (2006), “A New Deal for the 21st Century Workplace”, Ivey Business Journal Online, www.iveybusinessjournal.com. Barkhuizen. N, S. Rothmann (2007), “Occupational Stress of Academic Staff in South African Higher Education Institutions”, South African Journal of Psychology, 38(2), pp.321-336. Cruise A. G., R. J., Mitchell, B. M., & Blix, G. G. (1994), “Occupational Stress among University Teachers”, Educational Research, 36, 157-169. Elangovan A.R. (2001), “Causal Ordering of Stress, Satisfaction and Commitment, and Intention to Quit: A Structural Equations Analysis”, Leadership & Organization Development Journal 22/4 [2001] 159-165 Fairbrother Kerry & James Warn (2002), Workplace Dimensions, Stress and Job Satisfaction, School of Economics and Management, ADFA, Canberra, Australia. George Halkos & Dimitrios Bousinakis, “The Effect of Stress and Satisfaction on Productivity”, International Journal of Productivity and Performance Management, Vol. 59 No. 5, 2010. pp. 415-431. Blessingwhite (2011), Global Employee Engagement Report 2011, report.asp Harter, James K., Frank L. Schmidt, and Corey L. M. Keyes (2003), Well-Being in the Workplace and its Relationships to Business Outcomes. Jagdish K. Dua (1994), "Job Stressors and Their Effects on Physical Health, Emotional Health and Job Satisfaction in a University", Journal of Educational Administration, Vol. 32 Iss: 1, pp.59-78 Jia Lin Xie, John Schaubroeck, Simon S. K. Lam (2008), Theories of Job Stress and the Role of Traditional Values: A Longitudinal Study in China. Kerry Fairbrother & James Warn, “Workplace Dimensions, Stress and Job Satisfaction”, Journal of Managerial Psychology, Vol. 18 No. 1, 2003 pp. 8-21. Kinman, G. (1996), Occupational Stress and Health Among Lecturers Working in Further and Higher Education, London: National Association of Teachers in Further and Higher Education. Lazarus, R.S. (1993), “From Psychological Stress to The Emotions: A History of Changing Outlooks”. McCormick, J. (1997), “Occupational Stress of Teachers: Biographical Differences in a Large School System”, Journal of Educational Administration, 35 (1), 18-38. Nobile J, Cormick J (2005), Job Satisfaction and Occupational Stress in Catholic Primary Schools, A paper presented at the Annual Conference of the Australian Association for Organizational Behavior and Human Performance, Vol. 32, pp. 160-77. James L. Price (1997), “Handbook of Organizational Measurement”, International Journal of Manpower 18,4/5/6. Wikipedia:
File đính kèm:
- do_luong_muc_do_cang_thang_doi_voi_cong_viec_cua_vien_chuc_t.pdf