Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi

Dạy và học kỹ năng mềm cho sinh viên hiện nay là yêu cầu cấp thiết giúp sinh

viên trở thành những người làm chủ công việc, làm chủ cuộc sống trong tương

lai. Hoạt động dạy và học kỹ năng mềm chỉ thực sự có hiệu quả khi người thầy

được đào tạo một cách bài bản từ tri thức tới kỹ năng cùng kinh nghiệm để tạo

môi trường học tập thuận lợi cho người học. Dạy kỹ năng mềm với những đặc

trưng cơ bản vì ở đó có hình thành, phát triển và củng cố theo từng công đoạn

riêng biệt. Việc ứng dụng học thuyết hành vi trong hoạt động dạy kỹ năng mềm sẽ

đảm bảo cho các kỹ năng được hình thành một cách có hệ thống, liên tục, bền

vững và mang màu sắc của từng cá nhân người học

Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi trang 1

Trang 1

Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi trang 2

Trang 2

Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi trang 3

Trang 3

Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi trang 4

Trang 4

Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi trang 5

Trang 5

Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi trang 6

Trang 6

Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi trang 7

Trang 7

Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi trang 8

Trang 8

Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi trang 9

Trang 9

Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang minhkhanh 6860
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi

Dạy kỹ năng mềm cho sinh viên tiếp cận dưới góc độ học thuyết hành vi
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 
95 
DẠY KỸ NĂNG MỀM CHO SINH VIÊN TIẾP CẬN DƯỚI GÓC ĐỘ 
HỌC THUYẾT HÀNH VI 
Nguyễn Hữu Long1 
TÓM TẮT 
Dạy và học kỹ năng mềm cho sinh viên hiện nay là yêu cầu cấp thiết giúp sinh 
viên trở thành những người làm chủ công việc, làm chủ cuộc sống trong tương 
lai. Hoạt động dạy và học kỹ năng mềm chỉ thực sự có hiệu quả khi người thầy 
được đào tạo một cách bài bản từ tri thức tới kỹ năng cùng kinh nghiệm để tạo 
môi trường học tập thuận lợi cho người học. Dạy kỹ năng mềm với những đặc 
trưng cơ bản vì ở đó có hình thành, phát triển và củng cố theo từng công đoạn 
riêng biệt. Việc ứng dụng học thuyết hành vi trong hoạt động dạy kỹ năng mềm sẽ 
đảm bảo cho các kỹ năng được hình thành một cách có hệ thống, liên tục, bền 
vững và mang màu sắc của từng cá nhân người học. 
 Từ khóa: Thuyết hành vi, dạy học, kỹ năng mềm, sinh viên 
1. Đặt vấn đề 
Xã hội ngày càng văn minh - hiện 
đại, thế giới đang bước vào kỷ nguyên 
mới - kỷ nguyên của khoa học công 
nghệ và những tiến bộ vượt bậc của nó 
đã, đang và sẽ mang lại cho loài người 
những “tiện ích” hữu dụng. Nhưng 
cũng chính ở thế kỷ 21 này, con người 
đang phải đối diện với những thách 
thức to lớn từ môi trường tự nhiên, môi 
trường xã hội và đặc biệt là mối quan 
hệ giữa người với người. Với sự thay 
đổi đó, xã hội nói chung, ngành giáo 
dục nói riêng đang từng ngày phải đối 
mặt với những thách thức và cần phải 
có những thay đổi để phù hợp với 
những mục tiêu và hoàn cảnh mới [1]. 
Rèn luyện và phát triển các kỹ 
năng ở người học sẽ giúp họ thích ứng 
được với môi trường xã hội, tự giải 
quyết được một số vấn đề thiết thực 
trong cuộc sống như: vấn đề sức khỏe, 
môi trường, tệ nạn xã hội... để người 
học có thể tự tin, chủ động, không quá 
phụ thuộc vào “giảng đường đại học” 
mà vẫn có thể tự bảo vệ mình, tự đem 
lại lợi ích chính đáng, điều kiện thuận 
lợi cho bản thân mình rèn luyện, học 
tập phấn đấu vươn lên, chuẩn bị sẵn 
sàng cho việc thay đổi môi trường 
sống, môi trường làm việc để trở thành 
những “công dân ưu tú” [1]. 
Đối với việc học kỹ năng, kết quả 
có được phải là sự tương tác giữa 
người dạy và người học - đặc biệt kỹ 
năng sẽ được hình thành trong hoạt 
động dưới sự tổ chức hướng dẫn của 
người dạy và qua hoạt động tích cực 
của chính bản thân người học. Kết quả 
của việc phát triển này chính là người 
học hình thành được những hành vi 
1
Học viện Thanh thiếu niên Việt Nam - Phân viện Miền Nam 
Email: huulong2011@gmail.com 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 
96 
tích cực trước những “sự cố” xảy ra 
trong cuộc sống. Học thuyết hành vi 
với ba nhà tâm lý học điển hình John 
B. Watson, B.F. Skiner và Albert 
Bandura là một trong các học thuyết đã 
có những đóng góp xuất sắc trong việc 
nghiên cứu nhằm tìm ra con đường, 
cách thức để hình thành, củng cố và 
phát triển hành vi cho người học một 
cách hiệu quả nhất thông qua việc chủ 
động học tập - tích cực nhận thức - tích 
cực tham gia học tập. 
2. Giải quyết vấn đề 
2.1. Đặc trưng của việc dạy kỹ 
năng mềm 
- Đặc trưng về cách hiểu 
Hiện nay, khi đề cập đến khái niệm 
kỹ năng mềm, có rất nhiều tư tưởng, 
nhiều ý kiến và nhiều quan niệm khác 
nhau. Có người cho rằng khái niệm kỹ 
năng mềm và khái niệm kỹ năng sống là 
một, có người cho là hai khái niệm hoàn 
toàn khác nhau, hai lĩnh vực khác nhau. 
Tuy nhiên dưới góc độ khoa học tâm lý, 
khoa học xã hội, đây là hai khái niệm có 
liên quan đến nhau. Khái niệm kỹ năng 
sống là khái niệm rộng, còn khái niệm 
kỹ năng mềm là khái niệm hẹp hơn [2]. 
Kỹ năng mềm là một thuật ngữ xã 
hội học chỉ những kỹ năng có liên quan 
đến việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng 
hòa nhập xã hội, thái độ và hành vi ứng 
xử áp dụng vào việc giao tiếp giữa 
người với người. Như vậy, khi đề cập 
đến kỹ năng mềm chúng ta thấy một 
đặc trưng rất rõ của loại kỹ năng này, 
đó chính là yếu tố “sống chung”, kỹ 
năng mềm giúp mỗi cá nhân biết rõ vị 
trí của bản thân để cùng chung sống, 
cộng tác hay làm việc cùng những 
người xung quanh nhằm đem lại một 
cuộc sống tốt hơn hay để hoàn thành 
công việc hiệu quả hơn. Nói chung, kỹ 
năng mềm là những kỹ năng có liên 
quan đến việc hòa mình, sống với hay 
tương tác với xã hội, cộng đồng, tập thể 
hoặc tổ chức. 
Trong xã hội hiện đại, vai trò và vị 
trí của kỹ năng mềm đã được chứng 
minh rất rõ trong sự thành công của một 
con người. Albert Einstein nói rằng: 
“Thiên tài chỉ do 1% trí thông minh, 
còn lại 99% là sự siêng năng, cần cù.” 
Trong 99% đó không chỉ là những kiến 
thức chuyên môn (kỹ năng cứng - 
technical skills) mà ta được học tại 
trường, mà còn có những kiến thức đời 
thường (kỹ năng mềm - soft skills) mà 
ta tự rèn luyện, trải nghiệm trong cuộc 
sống. Ngày nay, để có được sự thành 
đạt trong xã hội, con người ta cần phải 
biết khéo léo áp dụng cả hai loại kỹ 
năng này [3]. 
- Đặc trưng về phương pháp 
giảng dạy 
Thuật ngữ phương pháp trong tiếng 
Hy Lạp là “méthodos”, có nghĩa là con 
đường, cách thức hoạt động nhằm đạt 
được mục đích nhất định. Vì vậy 
phương pháp là hệ thống những hành 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 
97 
động tự giác, tuần tự nhằm đạt được 
những kết quả phù hợp với mục đích đã 
định. Khi sử dụng đúng phương pháp sẽ 
dẫn đến kết quả theo dự định. Nếu mục 
đích không đạt được thì có nghĩa là 
phương pháp không phù hợp với mục 
đích hoặc nó không được sử dụng đúng. 
Trong phương pháp dạy học, chủ 
thể tác động là người thầy, đối tượng 
tác động của họ là học sinh. Còn học 
sinh lại là chủ thể tác động của mình 
vào nội dung dạy học. Vì vậy người 
thầy phải nắm vững những quy luật 
khách quan chi phối tác động của mình 
vào học sinh và nội dung dạy học thì 
mới đề ra những phương pháp tác động 
phù hợp. Từ đó có thể nhận thấy đặc 
trưng của phương pháp dạy học: người 
học là đối tượng tác động của giáo viên, 
đ ...  phản ứng sẽ dừng lại. Gọi 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 
100 
tắt là phản ứng “đúng - sai”. Vì thế 
muốn hình thành hành vi thì môi trường 
đóng vai trò là tác nhân kích thích, môi 
trường càng phong phú thì hành vi sẽ 
được hình thành phong phú và đa dạng. 
Chủ thể càng tích cực thì hành vi được 
tạo lập càng nhiều, càng dễ xuất hiện 
hành vi chính xác (hành vi đúng) [5]. 
Bằng các thực nghiệm khác nhau, 
nhà tâm lý học B.F. Skiner đã khẳng 
định hành vi sẽ chỉ được hình thành khi 
có môi trường kích thích và cá nhân chủ 
động giải quyết vấn đề. Ông đưa ra mô 
hình dạy học trong đó môi trường đóng 
vai trò là tác nhân kích thích, còn chủ 
thể đóng vai trò quan trọng trong việc 
tự đưa ra các hành vi để phản ứng lại 
các kích thích đó. 
Trong dạy học kỹ năng mềm, việc 
kiến tạo môi trường đóng vai trò hết sức 
quan trọng. Tạo môi trường để người 
học trải nghiệm trong chính những gì đã 
được học. Cần chuẩn bị cơ sở vật chất 
liên quan đến việc thực hành và ứng 
dụng kỹ năng muốn hình thành ở người 
học. Tổ chức hoạt động dạy kỹ năng 
mềm cần được đặt trong những điều 
kiện thuận lợi nhất, từ đội ngũ giảng 
viên đến cơ sở vật chất, hay khoảng thời 
gian cần thiết để người học trải nghiệm. 
Để thực hiện việc dạy một kỹ năng 
nào đó, người dạy phải tạo ra các “thách 
thức” và yêu cầu người học phải tự 
mình giải quyết các vấn đề. Như vậy, 
khi dạy kỹ năng mềm, thiết kế bài dạy 
theo kiểu bài tập tình huống, bài tập 
thực hành - luyện tập cần được chú 
trọng song song với lý thuyết truyền đạt 
của người dạy. Dạy kỹ năng mềm 
không chỉ là mớ lý thuyết do người dạy 
chủ động cung cấp cho người học mà 
người dạy nên đóng vai trò là người gợi 
mở, dẫn dắt vào vấn đề, còn việc giải 
quyết hãy để người học tự xoay xở sao 
cho phù hợp với bản thân. 
Dạy kỹ năng mềm theo học thuyết 
tạo tác của F.B. Skiner đòi hỏi người 
dạy phải là người dẫn dắt, truyền cảm 
hứng (tạo ra thách thức và vận động), 
tạo môi trường rèn luyện và tự rèn 
luyện cho người học. Mặt khác, người 
học kỹ năng mềm phải tự giác thực sự, 
có nhu cầu thực sự khi đến với các lớp 
học kỹ năng. Bởi chỉ khi bản thân người 
học có ham muốn học tập cao độ thì 
việc tự ý thức rèn luyện, trau dồi hay 
vận dụng kỹ năng vào công việc, cuộc 
sống mới có hiệu quả. Song song với 
đó, nhà trường, giáo viên cần biết tạo cơ 
hội để người học tự trải nghiệm kỹ 
năng. Vì vậy tôn trọng đặc điểm cá 
nhân và cho người học có cơ hội thể 
hiện bản thân là điều hết sức quan trọng 
giúp việc học kỹ năng ý nghĩa hơn. 
Muốn dạy kỹ năng mềm hiệu quả 
cần phải nắm bắt nhu cầu thực tế của 
người học. Mỗi cá nhân có năng lực, 
khả năng khác nhau nên việc lựa chọn 
các kỹ năng để phát triển bản thân cũng 
khác nhau. Vì thế cần xây dựng hệ 
thống các kỹ năng phong phú, đa dạng 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 
101 
để người học có cơ hội lựa chọn để 
tham gia học tập. Không quá cứng nhắc 
trong việc quy định “bộ kỹ năng” cho 
từng nhóm người. Thiết kế chương trình 
dạy kỹ năng cần lưu ý đến tính cá nhân, 
đặc điểm ngành nghề 
Tóm lại, học thuyết hành vi tạo tác 
của Skiner có ý nghĩa quan trọng trong 
việc kiến tạo môi trường và đề cao tính 
cá nhân của người học trong hoạt động 
dạy kỹ năng mềm là điều cần thiết. 
Người dạy trở về vị thế đứng sau lưng 
người học, tạo môi trường, tạo ra những 
thách thức hay khuyến khích người học 
chủ động, tích cực tự mình giải quyết 
vấn đề, tự trải nghiệm là điều quan 
trọng và phù hợp để hoạt động dạy kỹ 
năng mềm hiệu quả hơn. 
2.2.3. Ứng dụng học thuyết hành vi 
mới của Albert Bandura trong việc xây 
dựng môi trường học tập, quy trình và 
năng lực người dạy trong hoạt động 
dạy kỹ năng mềm 
Tiếp tục kế thừa và phát huy những 
mặt mạnh của các quan niệm về hình 
thành hành vi, các lý thuyết hành vi 
trước đó (hành vi cổ điển và hành vi tạo 
tác), các nhà tâm lý học theo trường 
phái hành vi mới, trong đó có nhà tâm 
lý học Albert Bandura cho rằng, hành vi 
không chỉ do tự luyện tập (trải nghiệm) 
hay bắt buộc từ người khác (từ môi 
trường) mà có. Hành vi phải được hình 
thành theo cơ chế môi trường (tác nhân 
kích thích) - chủ thể và quy trình phát 
triển tâm lý. Các nhà tâm lý học theo 
trường phái này đều công nhận rằng, 
môi trường sống dẫn đến hành vi nhưng 
những hành vi cũng có thể tạo ra môi 
trường. Người ta gọi hiện tượng này là 
hiện tượng quyết định hỗ tương hai 
chiều. Thế giới và hành vi con người có 
tác động qua lại. Để đánh giá khái niệm 
này của thuyết luyện tập thông qua môi 
trường xã hội gọi là thuyết quyết định 
luận hỗ tương (Bandura, 1981), cần 
xem xét tất cả các thành phần gồm ứng 
xử của con người, phân cách và sinh 
thái xã hội [5]. 
Từ đây, nhà tâm lý học hành vi 
Albert Bandura cho rằng, việc dạy học 
phải dựa trên cả hai phương diện không 
thể tách rời nhau, đó là: kích thích (môi 
trường và người dạy) và chủ thể tiếp 
nhận. Cách tiếp cận này kết hợp những 
nguyên lý học tập với việc nhấn mạnh 
các tương tác của con người trong các 
môi trường xã hội. Con người không 
chịu sự chi phối của các lực bên trong, 
cũng không chịu ảnh hưởng của điều 
kiện môi trường mà chịu sự chi phối 
của việc giám sát tác động ứng xử của 
mình đối với người khác, đối với môi 
trường và với bản thân. Tự bản thân 
mỗi người có thể lượng giá ứng xử của 
chính bản thân theo các chuẩn mực cá 
nhân và tự mình củng cố bằng cách tự 
tán thành hoặc tự chê trách. Có khả 
năng thực hiện việc tự điều chỉnh (self 
regulation) nhưng lại thường đánh giá 
ứng xử của bản thân theo các chuẩn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 
102 
mực bị áp đặt. Người nào chấp nhận 
một chuẩn mực từ bên ngoài được xem 
là một hướng dẫn ứng xử thì sẽ phản 
ứng khác với người đã tạo ra chuẩn mực 
cho riêng mình. 
Với tư tưởng này, khi dạy kỹ năng 
cho người học, điều quan trọng là phải 
thúc đẩy được động cơ bên trong của 
người học, người dạy phải bằng mọi 
cách giúp người học sớm nhận thức 
được vấn đề. Sự tác động từ bên ngoài 
chỉ mang yếu tố khuyến khích, động 
viên bởi quyết định cuối cùng vẫn là ở 
người học. Người học có khả năng loại 
trừ những thứ không phù hợp với bản 
thân để giữ lại những thứ thực sự có lợi 
cho mình. 
Dạy kỹ năng là trang bị kỹ năng 
cho người học chứ không phải minh 
chứng sự “cao siêu” về mặt lý luận hay 
hô hào những chiến tích của kiến thức 
kinh nghiệm mang tính cá nhân của 
người dạy. Điều quan trọng là người 
dạy cần đánh vào nhận thức, đặc biệt là 
khơi gợi hứng thú và nhu cầu của người 
học, giúp họ tích cực tương tác với 
người dạy, tạo ra quá trình học tập tích 
cực. Có như thế việc học tập kỹ năng 
mềm mới tạo ra những kết quả thực sự 
gắn với người học. Mặt khác, nếu làm 
được việc này, người dạy đã tạo ra một 
quá trình dạy học tích cực, giờ học trở 
nên hấp dẫn, thú vị và ý nghĩa hơn. 
Với quan điểm này, ta thấy rằng, 
dạy kỹ năng mềm là phải tạo điều kiện 
và tạo sự tương tác giữa người học - 
kiến thức - người dạy và môi trường. 
Bản thân người dạy phải có những kiến 
thức khoa học và cả sự trải nghiệm thực 
tế về vấn đề đang dạy. Môi trường học 
tập phải phù hợp với những gì đang 
diễn ra. Kết quả của việc dạy học kỹ 
năng mềm là cả một quá trình, không 
thể nhìn thấy ngay lập tức kết quả của 
những gì đã dạy. Vì thế việc đánh giá 
kết quả dạy học kỹ năng mềm cũng phải 
linh hoạt và đặc trưng theo đúng quy 
luật của quá trình hình thành kỹ năng. 
Bên cạnh đó, dạy kỹ năng mềm là 
phải tổ chức môi trường - môi trường 
hoạt động. Sau khi thiết kế nội dung bài 
dạy, khi triển khai phải tổ chức được 
các hoạt động tương ứng. Lúc đó giáo 
viên chỉ đóng vai trò là nhà tổ chức, còn 
người học là người tham gia - trải 
nghiệm cụ thể để “sống” với kỹ năng 
một cách thiết thực nhất. Hoạt động 
phải gắn với nội dung giảng dạy. Hoạt 
động không những cần sự hấp dẫn ở “vẻ 
bên ngoài” mà quan trọng là phải “có 
chất”, có nghĩa rằng sau khi hoạt động 
kết thúc thì giá trị bài học - giá trị kỹ 
năng phải được nhìn thấy một cách cụ 
thể sau mỗi hoạt động. 
Với quan điểm về học tập theo cơ 
chế bắt chước của Albert Bandura, 
muốn giúp người học hình thành kỹ 
năng, giáo viên cần tạo cơ hội và 
khuyến khích các em thể hiện kinh 
nghiệm, sự hiểu biết, đặc biệt là động 
viên các em tin vào những điều mình 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 
103 
đang nói, đang làm và đang thể hiện. 
Hạn chế việc cản trở suy nghĩ hay hành 
động của sinh viên khi họ thể hiện cái 
tôi của bản thân. Vì vậy dạy học áp đặt 
theo kiểu truyền thống sẽ không mang 
lại kết quả tốt đẹp trong việc hình thành 
kỹ năng. Dạy kỹ năng mềm cần tạo điều 
kiện tối đa, người dạy phải xem người 
học là những “đối tác” để trao đổi, bàn 
bạc, giúp người học tự tin, tin vào 
những thứ đang tiếp cận, tin vào bản 
thân mình và tin vào những điều mà 
người dạy vừa truyền đạt. 
Thiết lập quy trình dạy học kỹ năng 
mềm là việc làm hết sức quan trọng vì 
nó giúp giáo viên kiểm soát được quá 
trình giảng dạy của mình; bên cạnh đó 
còn dễ dàng và thuận tiện theo sát từng 
cá nhân, giúp người học phát huy những 
mặt mạnh, ưu điểm vượt trội của bản 
thân. Nói cách khác, dạy kỹ năng mềm 
phải dựa vào người học với phương 
châm “căn cứ vào thứ họ đã biết - phát 
huy thứ họ đang biết - hình thành cái họ 
sẽ biết và củng cố những thứ họ vừa 
biết”. Vì thế số lượng người học cũng là 
việc cần lưu ý. Dạy kỹ năng mềm 
không thể với số lượng sinh viên quá 
đông, vì như thế giảng viên sẽ không 
kiểm soát được quá trình dạy học, theo 
dõi hay phát huy từng cá nhân một cách 
tốt nhất. Việc đánh giá kết quả của việc 
học tập kỹ năng mềm chủ yếu phải 
được chính người học trải nghiệm trong 
thực tế và tự rút ra những bài học nhất 
định cho bản thân. Kết thúc mỗi giờ học 
kỹ năng mềm là những nhận xét tích 
cực, có chú ý đến những điểm sai 
nhưng không quá tập trung vào nó mà 
cần tìm ra ưu điểm của người học để 
giúp họ tự tin và mạnh dạn thực hành 
những gì đã học trong cuộc sống. 
Tóm lại, ứng dụng dạy học theo cơ 
chế bắt chước của Albert Bandura cho 
hoạt động dạy kỹ năng mềm, chúng ta 
cần tập trung vào nhiều khâu và mỗi 
khâu đều có những giá trị riêng biệt. 
Tập trung vào hình ảnh người thầy để 
người học tin tưởng, an tâm vào những 
gì thầy dạy; tập trung vào khâu xây 
dựng nội dung - quy trình để có hệ 
thống kỹ năng mềm phù hợp cho mọi 
đối tượng; tổ chức môi trường dạy học 
phong phú để người học trải nghiệm; 
tôn trọng và phát huy tính tích cực của 
người học để hoạt động dạy kỹ năng 
mềm hiệu quả hơn. 
3. Kết luận 
Nhận thức được tầm quan trọng của 
kỹ năng mềm và tổ chức huấn luyện, đào 
tạo đáp ứng nhu cầu để sinh viên sớm 
trở thành những cá nhân ra trường và 
làm việc chuyên nghiệp là điều cần thiết. 
Tuy nhiên để giảng dạy kỹ năng mềm 
hiệu quả, chúng ta không chỉ quan tâm 
đến việc thiết kế chương trình sao cho 
phù hợp với từng đối tượng, từng con 
người cụ thể mà cần phải quan tâm đến 
chất lượng giảng viên nói chung, cụ thể 
là năng lực tổ chức quá trình giáo dục. 
Khi dạy kỹ năng mềm, ngoài việc phải 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 
104 
có hệ thống kiến thức căn bản, khoa học 
về tâm lý giáo dục, giá trị sống, kỹ năng 
sống, giảng viên phải có sự trải nghiệm 
thực tế và kỹ năng thiết kế, tổ chức hoạt 
động giảng dạy phù hợp. 
Chính vì vậy kỹ năng mềm cần được 
học càng sớm càng tốt để người học có 
nhiều thời gian thực hành và biến kỹ 
năng mềm thành thói quen và “phản xạ 
có điều kiện”. Kỹ năng mềm nên được 
học và thực hành thông qua việc nhập 
vai, thảo luận nhóm và bài tập tình 
huống. Học kỹ năng mềm sẽ có hiệu quả 
hơn khi môi trường giảng dạy được tạo 
dựng một cách sinh động, hấp dẫn và thu 
hút được người học tham gia. Mặt khác, 
hệ thống kỹ năng mềm được thiết lập 
dựa trên nhu cầu, hứng thú và mong 
muốn từ phía người học chứ không dựa 
trên những cảm nhận chủ quan từ phía 
các nhà giáo dục. Bên cạnh đó để kết 
quả cuối cùng được lưu giữ bền vững 
hơn ở người học thì quá trình học tập kỹ 
năng mềm phải là quá trình học tập tích 
cực, là sự tương tác qua lại theo tinh 
thần “dạy thứ người học cần chứ không 
dạy thứ người thầy có”. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Hữu Long (2010), “Kỹ năng sống học sinh trung học cơ sở Thành 
phố Hồ Chí Minh”, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ 
Chí Minh 
2. Huỳnh Văn Sơn (2009), Nhập môn kỹ năng sống, Nhà xuất bản Giáo dục, 
Hà Nội 
3. Nguyễn Hữu Long (chủ biên) (2016), Phát triển kỹ năng sống - dành cho lứa 
tuổi thiếu niên, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh 
4. Trần Thị Hương (2011), Dạy học tích cực, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm 
Thành phố Hồ Chí Minh 
5. Phan Trọng Ngọ - Đinh Thị Tứ (2006), Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non - 
tập 1, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội 
TEACHING SOFT SKILLS USING BEHAVIORIAL THEORY 
ABSTRACT 
Teaching soft skills at the college level is essential nowadays as it helps students 
regulate their future career and, therefore, their future life. The teaching of these 
skills is only effective when the teacher is fully equipped with competence and 
performance, accompanied by experience so as to make an advantageous studying 
environment for the learner. Teaching soft skills has distinctive features because it 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 06 - 2017 ISSN 2354-1482 
105 
follows the separate processes of formation, development and consolidation. 
Applying the behavioral theory in teaching soft skills will guarantee that skills are 
formed systematically, continuously, stably and with reference to the leaner’s 
personal features. 
Keywords: Behavioral theory, teaching and learning, soft skills, students 
(Received: 1/8/2017, Revised: 16/8/2017, Accepted for publication: 24/10/2017) 

File đính kèm:

  • pdfday_ky_nang_mem_cho_sinh_vien_tiep_can_duoi_goc_do_hoc_thuye.pdf