Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang
Ở Việt Nam, mặc dù công trình nghiên cứu đầu tiên về sóng thần đã được công bố từ năm 1995, hướng nghiên cứu sóng thần vẫn không được phát triển mạnh do tính thời sự của vấn đề tại thời điểm đó chưa cao [7]. Sau thảm họa động đất - Sóng thần Ấn Độ Dương ngày 26 tháng 12 năm 2004, cùng với sự đổi mới căn bản về nhận thức của cộng đồng và nhiều quốc gia trong khu vực về sức mạnh hủy diệt của loại hình thiên tai này, việc nghiên cứu sóng thần ở Việt Nam mới có được sự chuyển mình mạnh mẽ. Trong thời gian này, đã có rất nhiều Đề tài nghiên cứu được triển khai thực hiện với sự tham gia của đông đảo các chuyên gia và các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực liên quan. Nội dung và số lượng của các công trình nghiên cứu sóng thần ở Việt Nam cho đến thời điểm này là khá đa dạng và có thể phân thành ba nhóm chính. Nhóm thứ nhất là các công trình nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm sóng thần cho các vùng bờ biển và hải đảo Việt Nam trên cơ sở phân tích các đặc trưng về tính địa chấn và kiến tạo - địa động lực khu vực Đông Nam Á đóng vai trò quyết định trong cơ chế hình thành và phát sinh sóng thần trên khu vực Biển Đông Việt Nam
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang
1 Formatted: Font: 11 pt Formatted: Position: Horizontal: Inside, Relative to: Margin Formatted: Indent: First line: 0.63 cm 33(1), 1-9 T¹p chÝ c¸c khoa häc vÒ tr¸i ®Êt 3-2011 ĐÁNH GIÁ NGUY CƠ BỊ TỔN THƯƠNG DO SÓNG THẦN CHO KHU VỰC ĐÔ THỊ THÀNH PHỐ NHA TRANG NGUYỄN HỒNG PHƯƠNG1, PHẠM THẾ TRUYỀN1, ADRIEN MOIRET2 E-mail: phuong.dongdat@gmail.com 1Viện Vật lý Địa cầu, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2Université Paris Est - Marne la vallée - Institut Francilien des Sciences Appliquées (IFSA) Ngày nhận bài: 06-9-2010 1. Mở đầu Ở Việt Nam, mặc dù công trình nghiên cứu đầu tiên về sóng thần đã được công bố từ năm 1995, hướng nghiên cứu sóng thần vẫn không được phát triển mạnh do tính thời sự của vấn đề tại thời điểm đó chưa cao [7]. Sau thảm họa động đất - sóng thần Ấn Độ Dương ngày 26 tháng 12 năm 2004, cùng với sự đổi mới căn bản về nhận thức của cộng đồng và nhiều quốc gia trong khu vực về sức mạnh hủy diệt của loại hình thiên tai này, việc nghiên cứu sóng thần ở Việt Nam mới có được sự chuyển mình mạnh mẽ. Trong thời gian này, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu được triển khai thực hiện với sự tham gia của đông đảo các chuyên gia và các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực liên quan. Nội dung và số lượng của các công trình nghiên cứu sóng thần ở Việt Nam cho đến thời điểm này là khá đa dạng và có thể phân thành ba nhóm chính. Nhóm thứ nhất là các công trình nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm sóng thần cho các vùng bờ biển và hải đảo Việt Nam trên cơ sở phân tích các đặc trưng về tính địa chấn và kiến tạo - địa động lực khu vực Đông Nam Á đóng vai trò quyết định trong cơ chế hình thành và phát sinh sóng thần trên khu vực Biển Đông Việt Nam. Kết quả tiêu biểu nhất của các công trình nghiên cứu thuộc nhóm này là các bản đồ chỉ rõ vị trí và ranh giới các vùng nguồn phát sinh động đất có khả năng gây ra sóng thần ảnh hưởng trực tiếp tới các vùng bờ biển và hải đảo của Việt Nam và mức độ nguy hiểm cực đại mà các trận sóng thần này có thể gây ra. Đó là các công trình nghiên cứu khoa học của Nguyễn Đình Xuyên và cộng sự (2007), Trần Thị Mỹ Thành và cộng sự (2009), Nguyễn Hồng Phương và cộng sự (2009) và Bùi Công Quế và cộng sự (2010) [4-6, 8]. Nhóm thứ hai là các công trình nghiên cứu mô phỏng sự lan truyền của sóng thần từ các vùng nguồn đến các vùng bờ biển và hải đảo của Việt Nam. Tiêu biểu nhất cho các nghiên cứu thuộc loại này là đề tài nghiên cứu của Vũ Thanh Ca và cộng sự (2008). Nghiên cứu này sử dụng các nghiên cứu của nhóm thứ nhất, cụ thể là các tham số nguy hiểm địa chấn của các vùng nguồn trên khu vực Biển Đông và lân cận để mô phỏng các kịch bản sóng thần trên Biển Đông. Kết quả của nghiên cứu này là một cơ sở dữ liệu chứa 25 kịch bản sóng thần tính sẵn và tập bản đồ cảnh báo nguy cơ sóng thần cho các vùng ven biển và hải đảo của Việt Nam [1]. Cần nhận xét rằng các nghiên cứu thuộc hai nhóm nêu trên mới chỉ đề cập tới việc đánh giá độ nguy hiểm sóng thần, tức là chỉ ra những khu vực có khả năng bị sóng thần tấn công với xác suất cao nhất trên toàn dải ven biển và hải đảo của Việt Nam. Trong khi đó, một nội dung khác, không kém phần quan trọng vẫn còn chưa được đề cập đến một cách đầy đủ trong các nghiên cứu về sóng thần ở Việt nam cho đến nay. Đó là việc dự báo mức độ thiệt hại mà sóng thần có thể gây ra cho cộng đồng tại các khu vực đô thị hay các khu vực trọng điểm thuộc dải ven biển và hải đảo của Việt Nam. Các nghiên cứu theo hướng này có thể đưa vào nhóm thứ ba: nhóm các nghiên cứu đánh giá rủi ro do sóng thần. 2 Formatted: Font: 11 pt Formatted: Position: Horizontal: Inside, Relative to: Margin Formatted: Indent: First line: 0.63 cm Bài viết này trình bày một nghiên cứu mới thuộc hướng thứ ba theo cách phân loại trên đây. Mục đích chính của nghiên cứu này là xây dựng một phương pháp luận đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần gây ra cho một khu vực đô thị nằm trên dải ven biển của Việt Nam. Phương pháp luận được áp dụng thử nghiệm cho thành phố Nha Trang, với sự trợ giúp của công cụ GIS trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu, tính toán và thể hiện các kết quả. 2. Mức độ tổn thương do sóng thần và các khái niệm liên quan Hiểm họa sóng thần thường tập trung cao nhất tại các khu vực nằm sát bờ biển và có thể trở thành thảm họa nếu khu vực đó đồng thời cũng là một khu vực phát triển của cộng đồng. Ở Việt Nam, mặc dù chưa có tài liệu chính thức nào được công bố về thiệt hại do sóng thần gây ra trong quá khứ, song các kết quả nghiên cứu đều cho thấy khu vực miền Trung đất nước được đánh giá là có độ nhạy cảm cao đối với hiểm hoạ sóng thần [1, 4, 8]. Đối với những khu vực như vậy, việc đánh giá độ rủi ro sóng thần nhằm đề xuất những biện pháp phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất do động đất gây ra đối với cộng đồng là một việc làm không những mang tính thiết thực, mà còn vô cùng cấp bách. Phương pháp luận đánh giá rủi ro và giảm nhẹ thiệt hại do sóng thần gây ra cho một khu vực đô thị thường được xây dựng dựa trên ba khái niệm cơ bản nhất, bao gồm: Độ rủi ro sóng thần, Độ nguy hiểm sóng thần và Mức độ tổn thương do sóng thần sẽ được định nghĩa dưới đây. Độ rủi ro sóng thần là xác suất xẩy ra những tổn thất về kinh tế xã hội do sóng thần gây ra tại một khu vực cho trước, trong một khoảng thời gian cho trước. Độ nguy hiểm sóng thần là xác suất xuất hiện của một cơn sóng thần có thể gây thiệt hại cho một vùng cho trước trong một khoảng thời gian cho trước. Trong các tính toán định lượng, độ nguy hiểm sóng thần thường được gán bằng các giá trị độ cao sóng thần khi tấn công vào bờ hay độ sâu ngập lụt do sóng thần. Mức độ tổn thương do sóng thần là khả năng bị mất mát hay khả năng ứng phó của cộng đồng đô thị ven biển khi bị đặt trước sự đe dọa của tai biến sóng thần. Mức độ bị tổn thương thường được xét tương ứng với các yếu tố chịu rủi r ... Bảng 6. Các giá trị đề nghị cho hệ số KST Báo động 15 trước khi sóng đến Thời gian sơ tán trung bình (phút) Giá trị KE đề nghị Khu vực 1 < 5 0.4 Khu vực 2 5 - 10 0.6 Khu vực 3 10 - 15 0.8 Khu vực 4 >15 1 - Giá trị SNĐ phụ thuộc vào việc thời gian sóng thần tấn công là ngày hay đêm, với SNĐ = VNC/5 (ban đêm, giả thiết là mọi người đang ở trong nhà), SNĐ = VNC/10 + ½ (ban ngày, giả thiết là một nửa số dân đang ở trong nhà và một nửa ở bên ngoài). - SC và ST là các hệ số chỉ mùa du lịch: Nếu đang trong mùa du lịch (lượng khách du lịch và mật độ dân cư cao) thì SC = 1 nếu sóng thần xẩy ra trong mùa du lịch; và SC = 0 nếu sóng thần xẩy ra lúc không phải mùa du lịch. Nếu đang không phải mùa du lịch (lượng khách du lịch và mật độ dân cư thấp): ST = 1 nếu sóng thần xẩy ra lúc không phải mùa du lịch; ST = 0 nếu sóng thần xẩy ra trong mùa du lịch. - PVC là mức độ tổn thương của tham số “Người” trong đơn vị tham chiếu, được tính cho mùa có khách du lịch cao sử dụng công thức (4) và những yếu tố ảnh hưởng đã được xác định ở trên với chỉ số C: PVH = w1(dC) + w2(nC) + w3(gC) + w4(mC) (5) Các trọng số được xác định bằng phương pháp phân tích đa tiêu chuẩn như trong trường hợp tham số môi trường xây dựng đã trình bày ở trên. - Tương tự, PVT là mức độ tổn thương của tham số “Người” trong đơn vị tham chiếu, được tính cho mùa có khách du lịch thấp sử dụng công thức (4) và những yếu tố ảnh hưởng đã được xác định ở trên với chỉ số T: PVL = w1(dT) + w2(nT) + w3(gT) + w4(mT) (6) Các công thức (4), (5) và (6) được sử dụng để tính toán và thành lập các bản đồ mức độ tổn thương thành phần về người do sóng thần gây ra tại khu vực nghiên cứu. 4. Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang Phương pháp luận mô tả trong mục 3 được áp dụng thử nghiệm để đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần tại một khu vực đô thị của thành phố Nha Trang. Khu vực nghiên cứu được lựa chọn nằm sát đường bờ biển, bao gồm 11 phường nội thành của thành phố Nha Trang với diện tích 7,9 km2 và tổng số dân là 163.885 người (hình 1). Hình 1. Vị trí khu vực nghiên cứu trên bản đồ thành phố Nha Trang (khung nhỏ) 6 Formatted: Indent: First line: 0.63 cm Formatted: Font: 11 pt Formatted: Position: Horizontal: Inside, Relative to: Margin 4.1. Dữ liệu Các dữ liệu thuộc tính được sử dụng bao gồm hai loại chính là dữ liệu về dân số và dữ liệu về nhà cửa, trong đó các dữ liệu về dân số được khai thác từ các niên giám thống kê. Số liệu dân số chi tiết tới cấp phường được liệt kê trong bảng 7 [11]. Để khảo sát và thu thập các dữ liệu thuộc tính về nhà cửa, công tác thực địa được tổ chức quy mô tại khu vực đô thị sát bờ biển thành phố Nha Trang. Các cán bộ khảo sát đã tiến hành khảo sát các công trình xây dựng trên toàn bộ các khu phố, các ngõ phố, các cụm dân cư trên địa bàn theo mẫu phiếu điều tra đã lập sẵn. Các dữ liệu thuộc tính về nhà cửa được nối kết với các dữ liệu không gian về nhà cửa, được số hóa từ ảnh nền Google ở tỷ lệ 1:2000. Bảng 7. Dân số và diện tích các phường khu vực nghiên cứu năm 2009 STT Tên Phường Dân số (người) Diện tích (km2) 1 Vĩnh Phước 20.662 1,09 2 Vĩnh Thọ 14.823 1,3 3 Vạn Thắng 13.012 0,28 4 Xương Huân 17.873 0,61 5 Phương Sài 13.284 0,29 6 Phước Tân 13.103 0,48 7 Phước Tiến 12.680 0,3 8 Phước Hòa 14.461 1,12 9 Tân Lập 16.242 0,59 10 Lộc Thọ 12.861 1,47 11 Vạn Thạnh 14.884 0,37 Trên cơ sở các dữ liệu thu thập được, một cơ sở dữ liệu GIS được thành lập trên môi trường của phần mềm ArcView GIS. Ngoài các dữ liệu đầu vào được lưu trữ dưới dạng các bản đồ chuyên đề và bản đồ nền, cơ sở dữ liệu GIS còn lưu trữ cả các bản đồ kết quả. 4.2. Xây dựng bản đồ mức độ tổn thương cho tham số “Nhà cửa” Phương pháp luận mô tả trong mục nhỏ 3.2 được áp dụng để xây dựng bản đồ mức độ tổn thương cho tham số “Nhà cửa” cho khu vực nghiên cứu. Các yếu tố ảnh hưởng được xác định theo một số tiêu chuẩn như sau: - Giá trị của m (vật liệu xây dựng) được xác định căn cứ theo kết cấu của nhà cửa và hiện trạng chất lượng của công trình theo các số liệu khảo sát thực địa; - Giá trị của g (mô tả tầng trệt của ngôi nhà) được xác định dựa trên sự kết hợp các thông tin từ chức năng sử dụng và số tầng của ngôi nhà. Chức năng sử dụng của các ngôi nhà được phân ra thành 3 nhóm theo số tầng như sau (bảng 8): nhóm 1 chứa các nhà có số tầng 1, 2, 7; nhóm 2 chứa các nhà có số tầng là 3, 4, 8; nhóm 3 chứa các nhà có số tầng là 5, 6. - Giá trị của s (số tầng của ngôi nhà) được xác định thông qua số liệu khảo sát thực tế. - Giá trị của d (thiết kế của ngôi nhà) được xác định theo bản đồ số hóa nhà cửa tại khu vực nghiên cứu. - Giá trị của f (kết cấu móng nhà) được xác định dựa trên kết cấu của ngôi nhà và số tầng. Bảng 8 liệt kê mối quan hệ phổ biến nhất giữa chức năng sử dụng nhà cửa và số tầng nhà tại khu vực khảo sát. Căn cứ vào các tiêu chuẩn đề ra, các yếu tố ảnh hưởng được gán các trị số như trình bày trong bảng 9. Bảng 8. Phân nhóm các chức năng sử dụng nhà cửa Chức năng sử dụng nhà Số tầng Quân đội 1 Tôn giáo (Nhà thờ, chùa) 2 Khách sạn, khách sạn + nhà ở 3 Nhà ở, Nhà ở + cửa hàng 4 Siêu thị, chợ 5 Nhà hàng, Cửa hàng dịch vụ 6 Trường học, viện bảo tàng 7 Cơ quan, văn phòng + nhà ở 8 4.3. Xây dựng bản đồ mức độ tổn thương cho tham số “Người” Để đánh giá mức độ tổn thương cho tham số “Người”, trong nghiên cứu này chỉ xét trường hợp sóng thần xẩy ra trong mùa du lịch. Khi đó công thức (4) trở thành : VNG = KE.SNĐ.PVC (7) Do trong thực tế thời gian sơ tán dân có thể vượt quá 15 phút tính từ khi báo động nên các giá trị của KE được gán bằng 1. Các tiêu chuẩn đánh Formatted: Font: Italic Formatted: Font: Not Italic Formatted: Font: Italic Deleted: Deleted: 7 Deleted: , 9 7 Formatted: Font: 11 pt Formatted: Position: Horizontal: Inside, Relative to: Margin Formatted: Indent: First line: 0.63 cm Bảng 9. Gán giá trị cho các yếu tố ảnh hưởng Giá trị đề nghị Yếu tố ảnh hưởng 1 2 3 4 5 m Bê tông cốt sắt chịu lực Gạch, gỗ, bê tông không có cốt sắt Gỗ g Mặt tiền mở, không có các đồ vật di động Mặt tiền mở, có các đồ vật di động Không có mặt tiền mở s 5 tầng 4 tầng 3 tầng 2 tầng 1 tầng f Móng có trụ chống sâu Móng trung bình Móng đổ tràn trên mặt d Chiều dài toà nhà thẳng góc với bờ biển Chiều dài toà nhà tạo góc 45º so với bờ biển Chiều dài của toà nhà song song với bờ biển giá biểu thị các dạng thiệt hại do sóng thần gây ra trong trường hợp này sẽ bao gồm: - Thiệt hại do ngập lụt; và Thiệt hại do các đồ vật trôi dạt gây ra. Quá trình gán trọng số được thực hiện bằng phương pháp phân tích đa tiêu chuẩn theo các bước đã mô tả trong mục 3. Biểu thức tương quan giữa các yếu tố ảnh hưởng nhận được trong trường hợp này có dạng: PVC =0.317d + 0.317c + 0.293g + 0.07126m (8) Từ (7) và (8) ta có: VNG= KE.SNĐ(0.317d+0.317c+0.293g+0.07126m) (9) Như vậy, công thức tính mức độ tổn thương cho tham số “Người” trong trường hợp sóng thần tấn công ban ngày là: và trong trường hợp sóng thần tấn công ban đêm là: Các công thức (10) và (11) được sử dụng để tính mức độ tổn thương cho tham số “Người” trong hai thời điểm tấn công của sóng thần vào ban ngày và ban đêm. Các chương trình tính toán viết trên ngôn ngữ Avenue được áp dụng cho từng đơn vị tham chiếu tương đương cấp phường tại khu vực nghiên cứu. Các giá trị VNGN và VNGNGĐ được xếp thành ba mức độ : cao, trung bình, thấp và được thể hiện trên bản đồ mức độ tổn thương về người do sóng thần. 4.4. Các bản đồ kết quả Các bản đồ kết quả được thể hiện trên môi trường đồ họa của phần mềm ArcView GIS. Trên hình 2 minh họa bản đồ mức độ tổn thương nhà cửa do sóng thần gây ra tại khu vực đô thị ven biển thành phố Nha Trang. Từ hình 2, có thể nhận thấy nguy cơ tổn thương nhà cửa cao nhất tập trung tại khu vực cửa sông Cái, đặc biệt là trên cù lao Dê nằm sát biển, nơi tập trung nhiều nhà cấp 4 và phải đối mặt với sóng thần từ biển ập vào qua một cửa sông hẹp. Hình 2. Bản đồ dự báo mức độ tổn thương nhà cửa do sóng thần gây ra tại khu vực đô thị ven biển thành phố Nha Trang VNGĐ= KE.(VNC/10 + ½)(0.317 d + +0.317c + 0.293g + 0.07126m) (11) VNGN=KE.(VNC/10+½)(0.317d+ +0.317c+0.293g +0.07126m) (10) 8 Formatted: Font: 11 pt Formatted: Position: Horizontal: Inside, Relative to: Margin Formatted: Indent: First line: 0.63 cm Các bản đồ mức độ tổn thương về người do sóng thần gây ra tại hai thời điểm ngày và đêm được minh họa trên các hình 3a và 3b tương ứng. Các bản đồ trên hình 3 cho thấy nguy cơ thiệt hại về người tại hai thời điểm trong ngày là khác nhau. Khu vực sát bờ biển, nơi tập trung nhiều khách sạn, nhà cao tầng và được gia cố tốt lại có mức độ tổn thương thấp hơn so với khu dân cư thuộc các phường Phước Hòa, Vạn Thanh, nằm sâu hơn trong lục địa. Hình 3. Bản đồ dự báo mức độ tổn thương về người do sóng thần gây ra cho khu vực đô thị ven biển thành phố Nha Trang cho hai trường hợp ban ngày (a) và ban đêm (b) 5. Kết luận Bài viết đề xuất một phương pháp luận mới được sử dụng trong việc đánh giá mức độ tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị ven biển của Việt Nam. Phương pháp luận được xây dựng dựa trên lý thuyết phân tích đa tiêu chuẩn, cho phép đánh giá bán định lượng nguy cơ tổn thương của một khu vực đô thị nằm trong vùng bị ảnh hưởng của sóng thần. Ưu điểm chính của phương pháp luận là đơn giản, linh hoạt đối với sự thay đổi các điều kiện cụ thể của khu vực nghiên cứu và cho phép sử dụng triệt để công cụ GIS trong mọi giai đoạn của quy trình đánh giá nguy cơ tổn thương. Quy trình có thể được áp dụng để đánh giá nguy cơ tổn thương cho một khu vực đô thị bất kỳ nằm trong vùng bị sóng thần đe dọa. Phương pháp luận được áp dụng thử nghiệm cho một khu vực đô thị ven biển của thành phố a b 9 Formatted: Font: 11 pt Formatted: Position: Horizontal: Inside, Relative to: Margin Formatted: Indent: First line: 0.63 cm Nha Trang. Các kết quả cuối cùng được thể hiện trên môi trường GIS dưới dạng các bản đồ biểu thị mức độ tổn thương về nhà cửa và người tại khu vực nghiên cứu. Các kết quả cho thấy tính ưu việt và triển vọng của hướng nghiên cứu đánh giá rủi ro sóng thần, đồng thời cũng cung cấp những thông tin bổ ích cho công tác cảnh báo sóng thần và hoạch định định chính sách phòng ngừa, ứng cứu và khắc phục hậu quả do sóng thần gây ra với cộng đồng ven biển. TÀI LIỆU DẪN [1] Vũ Thanh Ca, 2008: Xây dựng bản đồ cảnh báo nguy cơ sóng thần cho các vùng bờ biển Việt Nam, Báo cáo tổng kết Đề tài cấp Bộ TNMT năm 2006-2008. [2] Papathoma M. and Dominey Howes D., 2003: Tsunami vulnerability assessment and its implications for coastal hazard analysis and disaster management planning, Gulf of Corinth, Greece. Natural Hazards and Earth System Sciences, 3, pp.733-747. [3] Post J.,Zosseder S., Weigcheider S., Sieinmetz T., Riedliger T., Strunz G., Mehl H., Dech S., Birkmann J., Gebert N., Anwar H. Z., and Harjono H., 2008: Risk assessment to low frequency - high impact coastal hazard in Indonesia : Integrating tsunami hazard and vulnerability assessment in the context of early warning. Proceedings of the International Conference on Tsunami Warning (ICTW), Bali, Indonesia, 12-14, 2008. [4] Nguyễn Hồng Phương, Bùi Công Quế, Nguyễn Đình Xuyên, 2010: Khảo sát các vùng nguồn sóng thần có khả năng gây nguy hiểm tới vùng bờ biển Việt Nam. Tạp chí các Khoa học về Trái Đất, 32(1), 36-47. [5] Bùi Công Quế, 2010: Nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm động đất và sóng thần ở vùng bờ biển Việt Nam và đề xuất các giải pháp phòng tránh. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Nhà nước, Viện Vật lý Địa cầu. [6] Trần Thị Mỹ Thành, 2009: Quy trình công nghệ đánh giá độ nguy hiểm sóng thần và cảnh báo nguy cơ sóng thần trên vùng ven biển Việt Nam (phù hợp yêu cầu của Hệ thống cảnh báo khu vực), Báo cáo tổng kết Đề tài độc lập cấp Viện KH&CN Việt Nam năm 2007-2008. [7] Phạm Văn Thục, 1995: Bước đầu đánh giá ảnh hưởng của sóng thần ở Biển Đông đến bờ biển Việt Nam, Các công trình nghiên cứu địa chất và địa vật lý biển, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. [8] Nguyễn Đình Xuyên, 2007: Nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm động đất và sóng thần vùng ven biển Việt Nam, đề xuất các biện pháp cảnh báo và phòng tránh. Báo cáo tổng kết Đề tài cấp Viện KH&CN Việt Nam năm 2005-2006. [9] Department for Communities and Local Government: London, 2009 : Multi-criteria analysis: a manual, 161p. [10] Italian Ministry for the Environment and Territory, 2005: CRATER (Coastal Risk Aanalysis of Tsunamis and Environmental Remediation. Final report extract. [11] Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tiếng Việt. SUMMARY Assessment of tsunami vulnerability for an urban area of Nha Trang city In this paper a new methodology for tsunami vulnerability assessment for Vietnam is proposed. Based on Multi-Criteria analysis technique, the methodology allows semi-quantitatively assess the vulnerability of a coastal urban area being affected by future tsunamis. The advantage of the methodology is simplicity, flexible to the changes of conditions of reality and allowing application of a Geographic Information System (GIS). The procedure can be applied to any coastal zone under tsunami threat. The methodology is pilot tested in a coastal urban area of Nha Trang city. The results are presented within a GIS in terms of vulnerability maps for such aspects as building environment and population. The results show prospects in the new direction of tsunami risk study in Vietnam and provide important implications for coastal risk assessment, resource allocation as well as disaster management planning.
File đính kèm:
- danh_gia_nguy_co_bi_ton_thuong_do_song_than_cho_khu_vuc_do_t.pdf