Đánh giá một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân điều trị tại Viện Y dược học dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh
Bệnh tim mạch là gánh nặng cho xã hội làm tiêu tốn chi phí chăm sóc và điều trị. Để điều trị tốt bệnh tim mạch, vấn đề xác định nguy cơ và can thiệp sớm là phương pháp tốt nhất.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân điều trị tại Viện Y dược học dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân điều trị tại Viện Y dược học dân tộc Thành phố Hồ Chí Minh
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 89 TÓM TẮT Cơ sở: Bệnh tim mạch là gánh nặng cho xã hội làm tiêu tốn chi phí chăm sóc và điều trị. Để điều trị tốt bệnh tim mạch, vấn đề xác định nguy cơ và can thiệp sớm là phương pháp tốt nhất. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát một số yếu tố nguy cơ tim mạch và đánh giá dự báo mắc bệnh mạch vành trong 10 năm theo thang điểm Framingham ở bệnh nhân điều trị tại Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu, cắt ngang trên 219 bệnh nhân tuổi từ 22 đến 81 (nam 83; nữ 136), được tìm hiểu các yếu tố nguy cơ tim mạch (tuổi, giới, hút thuốc lá, tăng huyết áp, đái tháo đường); được đo chỉ số BMI, huyết áp, glucose, cholesterol toàn phần, LDL-C, HDL-C và TG sau khi nhịn ăn 8 giờ và ước tính nguy cơ bệnh ĐMV 10 năm tới theo thang điểm Framingham. Kết quả: Tuổi trung bình nghiên cứu 52,92 ± 13,01. Tỉ lệ THA là 30,6%, ĐTĐ 17,4%, rối loạn lipid máu 72,2%, thừa cân – béo phì 56,6%, hút thuốc lá 14,2% (chỉ nam giới). Chỉ có 13,7% không có yếu tố nguy cơ tim mạch. Tỉ lệ nguy cơ cao trở lên ước tính bệnh ĐMV trong 10 năm tới là 15,6%. Giá trị nguy cơ bệnh ĐMV trong 10 năm tới là 10,35±8,7% (trong đó nam 14,13±10,2%; nữ 8,04±6,7% - khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0.000). Nguy cơ ước tính ĐMV 10 năm tới tăng theo tuổi; cao hơn ở nhóm có THA, ĐTĐ, hút thuốc lá, tăng cholesterol toàn phần, TG, thừa cân – béo phì so với nhóm còn lại (khác biệt có ý nghĩa thống kê p<0,00). Kết luận: Tỉ lệ nguy cơ cao ước tính bệnh ĐMV 10 năm tới ở bệnh nhân điều trị tại ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ YẾU TỐ NGUY CƠ TIM MẠCH Ở BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ TẠI VIỆN Y DƯỢC HỌC DÂN TỘC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Tạ Thị Phước Hòa 1, Phạm Hữu Văn 2 (1) Viện Y Dược Học Dân Tộc (2) Bệnh viện Nhân dân 115 Người phản hồi (Corresponding): Tạ Thị Phước Hòa (hoattp75@yahoo.com) Ngày nhận bài: 6/9/2017. Ngày phản biện đánh giá bài báo: 17/9/2017 Ngày bài báo được đăng: 25/12/2017 TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 90 Viện Y Dược Học Dân Tộc khá cao và có mối tương quan với các yếu tố nguy cơ tim mạch. EVALUATION SOME RISK FACTORS FOR CARDIOVASCULAR DISEASE IN THE PATIENTS AT TRADITIONAL MEDICINE INSTITUTE OF HOCHIMINH CITY ABSTRACT: Background: Cardiovascular disease is a social burden that costs so much for caring and treatment. To determine risk factors and early intervention are the best way for good treatment. Objective: Assessing some risk factors for cardiovascular disease and estimating 10-year coronary heart disease (CHD) risk based on Framingham score in the patients at Traditional Medicine Institute of Hochiminh city. Method: A prospective, cross-sectional study and analyse on 219 patients, aged 22 – 81 years (male 83, female 136), have found cardiovascular risk factors (age, sex, smoking, hypertension - HP, diabetes mellitus - DM), measured BMI score, blood pressure, glucose, total cholesterol, LDL-C, HDL-C, TG (after 8 hours without eating) and estimated 10-year CHD based on Framingham score. Result: Average age was 52,92 ± 13,01 years. The rate of HP is 30,6%, DM 17,4%, hyperlipidemia 72,2%, overweight – obeisity 56,6%, smoking 14,2% (only men). There is only 13,7% without cardiovascular risk factors. The ratio of high risk ang very high risk of estimated 10-year CHD is 15,6%. The value of estimating 10-year CHD is 10,35±8,7% (male 14,13±10,2%; nữ 8,04±6,7%, with statistical significant p<0.000). The estimation of 10-year CHD increase with age and is higher in groups with HP, DM smoking, rising total cholesterol, rising TG, overweight – obeisity than the others (with statistical significant p<0.00). Conclusion: The rate of high risk and very high risk of estimation 10-year in the pattients at Traditional Medicine Institute is not less and have relationship with cardiovascular risk factors. ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh tim mạch đã và đang là vấn đề sức khỏe cộng đồng được quan tâm hàng đầu trên thế giới, là gánh nặng cho xã hội làm tiêu tốn chi phí chăm sóc và điều trị hàng trăm tỷ đô la Mỹ mỗi năm. Theo dự báo và thống kê của Hội tim mạch quốc gia Việt Nam, đến năm 2017, Việt Nam sẽ có 1/5 dân số mắc bệnh tim mạch và tăng huyết áp. Một thống kê khác của Hội tim mạch quốc gia Việt Nam cho thấy, cứ 3 người Việt Nam trưởng thành có 1 người có nguy cơ mắc bệnh tim mạch, chủ yếu là mạch vành. Để điều trị tốt bệnh tim mạch, vấn đề xác định nguy cơ và can thiệp sớm là phương pháp tốt nhất. Theo khuyến cáo của Tổ chức y tế thế giới (WHO), mỗi một người đều có thể mắc bệnh tim mạch đặc biệt khi tuổi trên 40 tuổi. Do vậy, việc đánh giá nguy cơ bị bệnh tim mạch như thế nào là rất quan trọng. CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 91 Tại Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh, mỗi ngày tiếp nhận khoảng gần 500 lượt bệnh nhân đến điều trị với rất nhiều dạng bệnh lý khác nhau. Câu hỏi được đặt ra là liệu có bao nhiêu bệnh nhân đến điều trị tại Viện Y Dược Học Dân Tộc có nguy cơ mắc bệnh tim mạch trong đó có bệnh mạch vành. Vì vậy, chúng tôi thực hiện nghiên cứu với các mục tiêu: Khảo sát một số nguy cơ tim mạch và dự báo mắc bệnh mạch vành trong 10 năm theo thang điểm Framing- ham ở bệnh nhân điều trị tại Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng nghiên cứu: Gồm 219 bệnh nhân (nam 83, nữ 136) độ tuổi từ 18 trở lên đến khám tại Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 12/2015 đến tháng 3/2017. Các bệnh nhân phải có đủ tiêu chí đánh giá nguy cơ bệnh mạch vành theo thang điểm Framingham. Loại trừ các trường hợp sau đây: Không có đủ các chỉ tiêu đánh giá nguy cơ bệnh ĐMV theo thang điểm Framingham Đang có các bệnh cấp tính hoặc mạn tính ảnh hưởng nhất thời đến kết quả xét nghiệm lipid máu, ảnh hưởng nhất thời đến trị số huyết áp (như tiêu chảy mất nước, suy k ... Chung (n = 219) Nam (n = 83) Nữ (n = 136) p ≤ 39 n (%) 38 (17,4) 18 (8,2) 20 (9,1) p = 0,159 40 – 49 n (%) 40 (18,3) 16 (7,3) 24 (11) 50 – 59 n (%) 78 (35,6) 30 (13,7) 48 (21,9) 60 – 69 n (%) 35 (16,0) 7 (3,2) 28 (12,8) ≥ 70 n (%) 28 (12,8) 12 (5,5) 16 (7,3) Trung bình 52,92 ± 13,01 51,45 ± 13,74 53,82 ± 12,53 p = 0,190 Nhóm có độ tuổi từ 50 – 59 chiếm tỷ lệ cao nhất trong nghiên cứu. Đối tượng nữ giới chiếm tỷ lệ cao hơn so với nam giới. Phân bố độ tuổi theo giới, tuổi trung bình giữa hai giới không có khác biệt có ý nghĩa thống kê (p >0,05). Bảng 2: Đặc điểm một số yếu tố nguy cơ tim mạch có thể thay đổi Yếu tố nguy cơ tim mạch Chung (n = 219) Nam (n = 83) Nữ (n = 136) THA n (%) 67 (30,6) 31 (14,2) 36 (16,4) ĐTĐ n (%) 38 (17,4) 15 (6,9) 23 (10,5) Thừa cân – béo phì n (%) 124 (56.6) 49 (22,4) 75 (34,2) Tăng cholesterol n (%) 117 (53,4) 37 (16,9) 80 (36,5) Giảm HDL-C n (%) 3 (1,4) 2 (0,9) 1 (0,5) Rối loan lipid máu n (%) 158 (72,2) 58 (26,5) 100 (45,7) Hút thuốc lá n (%) 31 (14,2) 31 (14,2) 0 (0) Trong nghiên cứu, tỉ lệ THA là 30,6% giống như thống kê về tình hình THA tại Việt Nam. Tỉ lệ hút thuốc lá là 14,2% chỉ tập trung ở nam giới. Tỉ lệ có rối loạn lipid máu khá cao tuy nhiên tỉ lệ có giảm HDL-C rất thấp (1,4%). Bảng 3: Tổng hợp các yếu tố nguy cơ tim mạch có thể thay đổi: Yếu tố nguy cơ Chung (n = 219) Nam (n = 83) Nữ (n = 136) p 0 n (%) 30 (13,7) 10 (4,6) 20 (9,1) p = 0,061 1 n (%) 81 (37) 23 (10,5) 58 (26,5) 2 n (%) 52 (23,7) 20 (9,1) 32 (14,6) 3 n (%) 47 (21,5) 24 (11,0) 23 (10,5) 4 n (%) 8 (3,7) 5 (2,3) 3 (1,4) 5 n (%) 1 (0,5) 1 (0,5) 0 (0) CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 93 Chỉ có 13,7% đối tượng nghiên cứu không có yếu tố nguy cơ. Số yếu tố nguy cơ giữa hai giới không có khác biệt có ý nghĩa thống kê. Bảng 4: Nguy cơ mắc bệnh động mạch vành trong 10 năm tới theo thang điểm Framingham Mức nguy cơ Chung (n = 219) Nam (n = 83) Nữ (n = 136) p Thấp n (%) 133 (60,7) 39 (17,8) 94 (42,9) p = 0,000 Trung bình n (%) 52 (23,7) 18 (8,2) 34 (15,5) Cao n (%) 22 (10,1) 17 (7,8) 5 (2,3) Rất cao n (%) 12 (5,5) 9 (4,1) 3 (1,4) Giá trị ước tính trung bình 10,35 ± 8,7 14,13 ± 10,2 8,04 ± 6,7 p = 0,000 Có đến 15,6% có nguy cơ ước tính bệnh ĐMV 10 năm tới từ cao đến rất cao. Nguy cơ mắc bệnh ĐMV trong 10 năm tới của giới nam cao hơn nữ, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,000) Bảng 5: Giá trị nguy cơ ước tính mắc bệnh động mạch vành trong 10 năm tới theo tuổi và giới tính Tuổi Chung (n=219) Nam (n=83) Nữ (n=136) p ≤ 39 2.2 ± 1,7 2,83 ± 1,8 1,64 ± 1,3 p = 0,000 40 – 49 6,09 ± 4,8 8,29 ± 5,1 4,63 ± 3,9 p = 0,000 50 – 59 10,79 ± 7,4 16,59 ± 7,9 7,16 ± 3,9 p = 0,000 60 – 69 15,41 ± 8,0 23,36 ± 7,6 13,42 ± 6,9 p = 0,000 ≥ 70 19,92 ± 9,4 27,30 ± 4,9 14,39 ± 8,1 p = 0,000 p = 0,000 p = 0,000 p = 0,000 Giá trị nguy cơ ước tính bệnh động mạch vành trong 10 năm tới gia tăng theo tuổi ở cả hai giới (p<0,000), trong đó nam cao hơn nữ, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,000 Bảng 6: Giá trị nguy cơ ước tính mắc bệnh động mạch vành trong 10 năm tới theo một số yếu tố nguy cơ tim mạch có thể thay đổi Yếu tố nguy cơ Không có YTNC Có YTNC p Tăng huyết áp 7,05 ± 6,5 17,84 ± 8,4 p = 0,0001 (< 0,000) Rối loạn lipid máu 8,37 ± 8,7 11,11 ± 8,6 p = 0,036 (< 0,05) Tăng Cholesterol 9,32 ± 8,8 11,24 ± 8,6 p = 0,103 Giảm HDL-C 10,33 ± 8,7 11,70 ± 6,8 p = 0,787 Hút thuốc lá 8,94 ± 7,8 18,87 ± 9,3 p = 0,000 (< 0,000) Đái tháo đường 8,87 ± 8,1 15,92 ± 8,8 p = 0,000 (< 0,000) Thừa cân – béo phì 9,47 ± 8,7 13,02 ± 8,8 p = 0,019 (< 0,05) TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 94 Giá trị nguy cơ ước tính tăng cao ở nhóm có yếu tố nguy cơ và có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm có hay không có yếu tố nguy cơ (p<0,05) (trừ các yếu tố như rối loạn lipid máu, tăng Cholesterol, giảm HDL-C). BÀN LUẬN Yếu tố nguy cơ tim mạch là các yếu tố liên quan đến sự gia tăng khả năng mắc bệnh tim mạch. Một người mang một hay nhiều yếu tố nguy cơ nào đó có nghĩa là có sự gia tăng khả năng mắc bệnh chứ không phải bắt buộc là chắc chắn sẽ bị bệnh. Thường các yếu tố nguy cơ hay đi kèm nhau, thúc đẩy phát triển và làm nguy cơ bị bệnh tăng theo cấp số nhân. Đặc điểm một số yếu tố nguy cơ tim mạch: Tuổi: Trong nghiên cứu của chúng tôi (bảng 1), tuổi trung bình là 52,92 ± 13,01 (nam 51,45 ± 13,74; nữ 53,82 ± 12,53) với độ tuổi từ 50 – 59 chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm nghiên cứu (35,6%), tỉ lệ giữa các nhóm tuổi còn lại tương đương. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn kết quả nghiên cứu của các tác giả như Nguyễn Hồng Huệ [1] 55,91 ± 12,86; Nguyễn Văn Hùng [2] 54,4 ± 11,5. Độ tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất trong nghiên cứu là 50 – 59 cũng tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Hồng Huệ, Nguyễn Thị Dung [1]. Giới tính (bảng 1) có 83 đối tượng nghiên cứu là nam (37,9%) và 136 đối tượng nghiên cứu là nữ (62,1%). Kết quả này cũng tương tự một số nghiên cứu trong nước như Nguyễn Hồng Huệ [1]– nam 34%, nữ 66%; Nguyễn Văn Hùng [2] – nam 32%, nữ 68%. Tăng huyết áp: Tỉ lệ THA (bao gồm THA đang điều trị và tăng giá trị huyết áp tâm thu hoặc huyết áp tâm trương tại thời điểm khảo sát theo JNC VII) trong ng- hiên cứu là 30,6% (bảng 2). Tỉ lệ này gần tương đương với nghiên cứu của Nguyễn Hồng Huệ [1] 32,8%. Điều này phù hợp với nhận định của nhiều chuyên gia hàng đầu về tim mạch tại Việt Nam – tỉ lệ THA đang ngày một gia tăng và là tình trạng báo động đỏ về sức khỏe của cộng đồng. Tình trạng rối loạn lipid máu: Trong nghiên cứu của tôi, có đến 72,2% đối tượng nghiên cứu có rối loạn lipid máu (nam 26,5%; nữ 45,7%). Tỉ lệ này cao hơn nghiên cứu Nguyễn Hồng Huệ [1] 63,6%; thấp hơn nghiên cứu của Trương Thanh Sơn [3] 85,69% và Nguyễn Văn Hùng [2] 83,0%. Hút thuốc lá: Do đặc thù xã hội nên nghiên cứu của tôi chỉ ghi nhận được tình trạng hút thuốc lá tập trung phổ biến ở nam giới. Có 14,2% đối tượng nghiên cứu hút thuốc (bảng 2). So với các nghiên cứu khác, tỷ lệ hút thuốc lá trong nghiên cứu của tôi thấp hơn Nguyễn Hồng Huệ [1] 19,6%; tương đương với Nguyễn Văn Hùng [2] 13,5%; cao hơn Trương Thanh Sơn [3] 8,06%. Đái tháo đường: Tỉ lệ ĐTĐ trong ng- hiên cứu của tôi ước tính khoảng 17,4% (bảng 2). Kết quả nghiên cứu của tôi thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Hồng Huệ [1] 31,6%, cao hơn của Trương Thanh Sơn [3] 11,49%.Tại Việt Nam, tỉ lệ người mắc bệnh ĐTĐ cũng gia tăng nhanh chóng, so sánh giữa số liệu thống kê của năm 2002 và 2012 tỉ lệ ĐTĐ ở nước ta tăng tới 211%. Thừa cân – béo phì: Với đối tượng nghiên cứu thuộc dân tộc châu Á, mức chỉ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 95 số BMI được xem là thừa cân – béo phì do WHO qui định thấp hơn người châu Âu. Ở nghiên cứu của tôi (bảng 2), nhìn chung tỉ lệ đối tượng có mức thừa cân – béo phì khá cao 56,6% trong đó có đến 23,7% béo phì độ 1; 4,1% béo phì độ 2. Tỷ lệ béo phì các mức độ trong nghiên cứu của tôi thấp hơn nghiên cứu của Nguyễn Văn Hùng [2] 31,3%, Trương Thanh Sơn [3] 37,5%; cao hơn Nguyễn Hồng Huệ [1] 10,2%. Số yếu tố nguy cơ tim mạch có thể thay đổi: Trong số YTNC tim mạch có thể thay đổi được nghiên cứu như THA, RLLM, ĐTĐ, hút thuốc lá, béo phì; chỉ có 13,7% không có YTNC còn lại đa số đối tượng nghiên cứu có 1 YTNC trở lên (86,3%), số YTNC không có sự khác biệt giữa hai giới (bảng 3). Trong quần thể, khá nhiều người có trên một YTNC của bệnh ĐMV, song trên 90% các biến cố mạch vành xảy ra ở những người có ít nhất một YTNC [6], [7]. Nói cách khác, khi không có YTNC tim mạch nào thì khả năng mắc bệnh ĐMV thường thấp. Trong nghiên cứu của tôi, số đối tượng không có YTNC có tỷ lệ thấp (13,7%), điều đó có nghĩa là hơn 80% đối tượng tham gia nghiên cứu có thể xảy ra biến cố ĐMV. Điều quan trọng hơn là những YTNC này thường có liên quan với nhau và ảnh hưởng của chúng mang tính cộng hưởng hơn là tương tác. Vì thế, việc đánh giá tần suất các YTNC đóng vai trò quan trọng trong việc xác định cá nhân có nguy cơ cao về bệnh tim mạch trong lâm sàng từ đó có thể có biện pháp phòng chống thích hợp. Nguy cơ ước tính bệnh ĐMV trong 10 năm tới theo thang điểm Framingham: Dự báo nguy cơ bệnh ĐMV trong 10 năm tới của các đối tượng tham gia nghiên cứu của chúng tôi là 10,35 ± 8,7% (bảng 4). Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hồng Huệ [1] 6,17 ± 6,06%, Nguyễn Văn Hùng [2] 6,26 ± 7,5%, Trương Thanh Sơn [3] 8,94 ± 9,1%. Bảng 7. Nguy cơ ước tính bệnh động mạch vành trong 10 năm tới – so sánh với các tác giả khác Mức nguy cơ Nghiên cứu Thấp Trung bình Cao Rất cao Tác giả (%) 60,7 23,7 10,1 5,5 Nguyễn Hồng Huệ [1] (%) 72,4 22 5 0,6 Nguyễn Văn Hùng [2] (%) 78,6 16,4 3,0 2,0 Trương Thanh Sơn [3] (%) 60,9 20,9 13,1 5,1 Qua bảng 7, tỉ lệ các mức nguy cơ bệnh ĐMV trong 10 năm tới trong nghiên cứu tương đương với kết quả nghiên cứu của Trương Thanh Sơn [3]. Bên cạnh đó kết quả nghiên cứu cho thấy các đối tượng nghiên cứu có nguy cơ bệnh ĐMV trong 10 năm tới có mức nguy cơ cao trở lên chiếm tỉ lệ không nhỏ (15,6%) (bảng 5), cao hơn hẳn kết quả của các tác giả khác như Nguyễn Hồng Huệ [1] 5,6%; Nguyễn Văn Hùng [2] 5%. Điều này có thể lý giải là do hiện nay tỉ lệ bệnh ĐMV đang có xu hướng tăng dần ở nước ta trong những năm gần đây [4], [5]. Các yếu tố được ghi nhận là có tương quan với nguy cơ mắc bệnh động TẠP CHÍ Y DƯỢC THỰC HÀNH 175 - SỐ 12 - 12/2017 96 mạch vành: Nam giới có nguy cơ mắc bệnh mạch vành 10 năm cao hơn ở nữ giới và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p <0,000) (bảng 4). Theo ATP III [8], ở bất kỳ lứa tuổi nào, nguy cơ mắc bệnh mạch vành ở nam cũng cao hơn ở nữ mặc dù nguyên nhân của sự khác biệt này vẫn chưa được biết rõ. Thiết nghĩ, có thể vấn đề hút thuốc lá ở nam cao hơn nữ là một yếu tố góp phần gây nên sự khác biệt này. Tuổi càng cao thì nguy cơ mắc bệnh mạch vành 10 năm càng cao (p <0,000) (bảng 5). Đặc điểm này cũng đã được đề cập trong y văn. Lý do chính là có thể vì tuổi cao thường đi kèm với tăng tích tụ vữa xơ ở động mạch vành mà vữa xơ động mạch vành là nguyên nhân chính của phần lớn trường hợp bệnh mạch vành [8]. Bên cạnh đó, tương tự các nghiên cứu khác, nghiên cứu cũng ghi nhận mối liên quan giữa tình trạng có THA, ĐTĐ, hút thuốc lá, thừa cân – béo phì với gia tăng nguy cơ mắc bệnh động mạch vành trong 10 năm tới. KẾT LUẬN Qua việc khảo sát một số yếu tố nguy cơ tim mạch đồng thời ước tính nguy cơ bệnh động mạch vành trong 10 năm tới theo thang điểm Framingham ở 219 bệnh nhân bao gồm 83 nam, 136 nữ điều trị tại Viện Y Dược Học Dân Tộc thành phố Hồ Chí Minh, nghiên cứu rút ra các kết luận sau: 1. Tỉ lệ các yếu tố nguy cơ tim mạch như sau: - Tuổi trung bình là 52,92 ± 13,01, độ tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất là từ 50 – 59. - Tỉ lệ tăng huyết áp là 30,6%, mức tăng huyết áp có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai giới. - Tỉ lệ có rối loạn lipid máu ở đối tượng nghiên cứu khá cao 72,2%. - Chỉ có nam giới trong nghiên cứu hút thuốc lá (14,2%). - Tỉ lệ đái tháo đường ở đối tượng nghiên cứu vào khoảng 17,4%. - Tình trạng thừa cân – béo phì chiếm tỉ lệ 56,6%, với tỉ lệ béo phì là 27,8%. 2. Ước tính nguy cơ mắc bệnh động mạch vành trong 10 năm tới theo thang điểm Framingham như sau: - Nguy cơ mắc bệnh động mạch vành trong 10 năm tới ở các đối tượng nghiên cứu lần lượt là: thấp 60,7%; trung bình 23,7%; cao 10,1%; rất cao 5,5%. - Mối liên quan đến các yếu tố nguy cơ tim mạch bao gồm: giới, tuổi, tăng huyết áp, đái tháo đường, tăng cho- lesterol toàn phần, tăng triglyceride, hút thuốc lá, tình trạng thừa cân – béo phì. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Nguyễn Hồng Huệ, Nguyễn Đức Công (2008), Nghiên cứu dự báo nguy cơ bệnh động mạch vành trong 10 năm tới dựa theo thang điểm Framingham ở người đến khám tại bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng, Luận văn chuyên khoa II y học, Học viện Quân y, Hà Nội. 2.Nguyễn Văn Hùng (2011), Nghiên cứu áp dụng thang điểm Framingham để ước tính nguy cơ bệnh động mạch vành trong 10 năm tới ở những người tới khám tại bệnh viện Quận 5 thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Chuyên khoa cấp 2 Y học, Học viện Quân y, Thành phố Hồ Chí Minh. 3.Trương Thanh Sơn, Nguyễn Văn CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 97 Trí, Trương Quang Bình (2011), “Ng- hiên cứu áp dụng thang điểm Framing- ham nhằm lượng định nguy cơ bệnh động mạch vành trong 10 năm tới tại bệnh viện đa khoa Bình Dương’’, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, chuyên đề Nội khoa, tập 15, 207 – 212. 4.Hoàng Văn Sỹ (2014), Ứng dụng siêu âm nội mạch trong chẩn đoán và điều trị can thiệp bệnh động mạch vành, Luận án Tiến sĩ y học, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh. 5.Phạm Viết Tuân, Nguyễn Lân Việt, Phạm Mạnh Hùng và cs. (2010), “Nghiên cứu mô hình bệnh tật ở bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện tim mạch Việt Nam trong thời gian 2003 – 2007”, Tạp chí Tim mạch học Việt Nam, số 52, tr. 11- 18. 6.Capewell S, Beaglehole R, Seddon M, McMurray J (2000), “Explanation for the decline in coronary heart disease mor- tality rates in Auckland, New Zealand, between 1982 and 1983”, Circulation, 102(13), 1511-1516. 7.Cooper R, Cutler J, Mosca L et al. (2000), “Trends and disparrities in coro- nary heart disease, stroke, and other car- diovascular diseases in the United states: findings of the national conference on cardiovascular diseases prevention”, Cir- culation, 102(25), 3137-3147. 8.National Institute of Health (2004), “The seventh report of the joint-national committee on the Prevention, Detection, Evaluation and Treatment of High Blood Pressure”, Publication No 04-5230, 64 – 69.
File đính kèm:
- danh_gia_mot_so_yeu_to_nguy_co_tim_mach_o_benh_nhan_dieu_tri.pdf